Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài dự thi “tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt việt nam lào, lào việt nam (23)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 14 trang )

Họ và tên: Nguyễn Thị Mỹ Linh
Nghề nghiệp:Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Khương Mai
Quận Thanh Xuân – Hà Nội
Email:
Điện thoại: 0916076188
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU:
“LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO- VIỆT NAM”
Chủ đề 9:
NHỮNG CẢM NGHĨ VỀ NỀN VĂN HOÁ, VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI LÀO

Nếu bạn muốn tìm đến có một xứ sở để tìm thấy sự tĩnh lặng, bình yên trong tâm hồn và
có thể làm vơi đi bao tất bật, lo toan trong cuộc sống hiện đại thì hãy đến với nước Lào
thân yêu. Nước Lào được phủ bởi màu xanh của các cao nguyên và những cánh đồng bao
la, không hấp dẫn bởi vẻ đẹp náo nhiệt, hiện đại, hào nhoáng, tráng lệ nhưng vẫn đầy
quyến rũ bởi một vẻ đẹp huyền bí, cổ kính, thanh bình và thơ mộng.


Nước Lào, trước đây gọi là Vương quốc Lạn Xạng, hay còn gọi là đất nước Triệu Voi,
có tổng diện tích 236.800 km2, có đường biên giới giáp 5 nước. Phía Bắc giáp Trung
Quốc, phía Tây bắc giáp Myanma, phía Tây giáp Thái Lan, phía Nam giáp Campuchia và
phía Đông giáp Việt Nam.
Lịch sử nước Lào trước thế kỷ XIV gắn liền với sự thống trị của Vương quốc Nam
Chiếu. Vào thế kỷ thứ XIV, Vua Phà Ngừm lên ngôi đổi tên nước thành Lạn Xạng (Triệu
Voi). Trong nhiều thập kỷ tiếp theo, Lào nhiều lần phải chống các cuộc xâm lược của Miến
Điện và Xiêm. Đến thế kỷ XVIII, Thái Lan giành quyền kiểm soát trên một số tiểu vương
quốc còn lại. Các lãnh thổ này nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Pháp trong thế kỷ XIX
và bị sáp nhập vào Liên bang Đông Dương năm 1893. Trong thế chiến thứ 2, Pháp bị Nhật
thay chân ở Đông Dương. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng minh ngày 12 tháng 10 năm
1945, Lào tuyên bố độc lập. Đầu năm 1946, Pháp quay trở lại xâm lược Lào. Năm 1949,
quốc gia này nằm dưới sự lãnh đạo của Vua SisavangVong và mang tên Vương quốc Lào.


Tháng 7 năm 1954, Pháp ký hiệp định Giơnevơ công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh
thổ của Lào.
Người dân Lào đã hấp thụ những phong tục và tín ngưỡng của hai nền văn minh Ấn Độ
và Trung Hoa để hình thành nên một nền văn hóa đặc sắc của riêng mình hết sức độc đáo.
Văn hoá Lào như một dòng chảy ngọt ngào đời này qua đời khác, hun đúc nên tâm hồn, cốt
cách của con người Lào.
Nền văn hóa Lào là nền văn hóa Phật giáo. Hiện nay, Lào có tới 1.400 ngôi chùa lớn
nhỏ. Vì vậy, xứ sở Triệu Voi sẽ là một điểm đến đầy hấp dẫn, lí thú đối với những ai muốn
tìm hiểu kiến trúc chùa chiền và Phật giáo.

Chùa Phakeo ngôi chùa cổ nhất Vientiane Lào

Ở đây, du khách còn được dịp đến thăm ngôi chùa cổ Wat Sisaket được xây dựng từ
năm 1818 theo kiến thúc Phật giáo Xiêm. Wat Sisaket gây ấn tượng bởi những hành lang
với các bức tường được trang trí bằng hơn 2.000 hình ảnh đức Phật bằng đồng, gỗ quý,
gốm sứ, mạ vàng và bạc.


Tượng Phật ở Wat Sisaket
Đất nước Lào là đất nước của bốn mùa lễ hội. Lào có tết cổ truyền Bunpimay (có
nghĩa là mừng năm mới), hay còn gọi là Tết té nước diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng
4 hàng năm. Vì các nhà chiêm tinh học tính ngày tháng theo lịch Phật, nên năm mới hàng
năm bắt đầu vào tháng tư dương lịch. Tết BunPiMay là ngày hội của dân tộc với niềm
mong ước hạnh phúc tốt đẹp của con người về cả đời sống vật chất lẫn tinh thần, về tình
cảm gắn bó, keo sơn giữa các bộ tộc Lào.

Tết
BunPiMay – lễ hội té nước, cầu may.
Đến với đất nước Lào là đến với xứ sở của hoa Chăm-pa xinh đẹp. Nếu “hoa sen” được
xem là quốc hoa của đất nước Việt Nam thì “hoa Chăm-pa” được xem là biểu tượng của

đất nước và con người Lào. Hoa Chăm-pa (hoa đại) là một loài hoa biểu tượng của đất
nước và con người Lào. Mang đậm một bản sắc riêng biệt, hoa mang một vẻ đẹp giản dị,


trắng trong, tinh khiết, thanh cao và ngạt ngào hương sắc, phản ảnh rõ tính cách, tâm hồn
của dân tộc Lào với những con người có một vẻ đẹp giản dị, chan hoà, gìn giữ và chất
phác, thật thà. Ngoài cái đẹp bản sắc riêng của dân tộc Lào, hoa Chăm-pa có 5 cánh hoa
xoè ra thể hiện sự đoàn kết muốn hợp tác vươn tới 5 nước láng giềng với thể ứng xử cởi
mở, cân bằng, mềm mại, hoà đồng bên ngoài, thống nhất ở bên trong. Ở Lào hoa Chăm pa
có nhiều loại và mọc khắp nơi. Người dân Lào thường trồng hoa Chăm- pa để tô điểm cho
vẻ đẹp thanh bình êm ả của đất nước và sống động hơn trong không khí hội hè. Đến với đất
nước Lào (Triệu Voi) là đến thăm đất nước hoa Chăm pa xinh đẹp. Hạnh phúc biết bao khi
được các cô gái choàng lên cổ vòng hoa Chăm pa, buộc vào cổ tay vòng chỉ cầu mong
phúc lành, đam mê không muốn dứt trong những điệu múa Lăm vông dưới bóng cây
Chăm-pa. Vẻ đẹp của sắc màu hoa Chăm-pa còn được người dân Lào ví như mối tình sáng
trong của những đôi trái gái, đằm thắm như tình anh em Việt – Lào.
Có cuộc sống yên ả, thanh bình và thơ mộng, người Lào thật thà, chất phác, hiền hoà,
dễ mến, trọng danh dự. Tính cách ấy biểu hiện rõ trên ánh mắt, nụ cười, cử chỉ và dáng
điệu của mỗi con người. Trong gia đình họ chung sống hoà thuận, và đặc biệt họ rất quý
trọng tình bạn, quý trọng chữ tín. Chuyện vợ chồng ly hôn cũng rất ít khi xảy ra, vì nó bắt
nguồn từ những phong tục thuần hậu truyền đời. Nếu như với người phụ nữ Việt Nam là “
Tam tòng tứ đức”, thì người phụ nữ Lào là “Hươn xảm nậm xi” (ba nhà bốn nước) được
giáo dục từ hồi còn tấm bé. Đây cũng là nét văn hoá, phong tục đặc sắc của người Lào.
Người Lào rất gần gũi và hầu như không gặp trở ngại gì lớn trong văn hóa và giao tiếp. Sự
hài hòa giữa lòng nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc trong triết lý nhân sinh
người Lào. Ngạn ngữ Lào có câu: “Nói hợp lòng thì xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì
dẫu xin mua cũng chẳng bán” (Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thực
khọ khỏ xừ cò bò khải). Người Việt còn lưu lại trong thư tịch cổ: “người Lào thuần hậu
chất phác”, trong giao dịch buôn bán thì “họ vui lòng đổi chác”. Đó cũng là tình cảm bình
dị, chân thành mà người dân nước Việt giành cho người người dân láng giềng của mình.

Phong tục ăn mặc ở Lào, phụ nữ phải mặc “Phaasin”, một kiểu váy dài có các mảng hoa
văn đặc trưng, mặc dù nhóm các bộ tộc thường có trang phục riêng của họ. Đàn ông thì
mặc “phaa biang sash” vào những dịp lễ hội. Ngày nay phụ nữ thường mặc trang phục kiểu
phương Tây, nhưng “phaa sin” vẫn là trang phục bắt buộc.Những ngày lễ hội quan trọng,
họ mặc y phục dân tộc là chiếc áo sơ mi cổ tròn, khuy vải, cài về phía tay trái, quấn chiếc
phạ-nhạo-nếp-tiêu màu sắc sặc sỡ và quàng chiếc phạ biềng (khăn) chéo qua ngực. Trong
cuộc sống hàng ngày, người Lào thường dùng loại khăn gọi là phạ-phe. Đây là chiếc khăn
vải kẻ ô màu trang nhã, thường dùng làm khăn tắm hay dùng che đầu, quàng cổ, gói quần
áo buộc vào thắt lưng...


Với phụ nữ Lào, lúc còn nhỏ, họ có thể để tóc hoặc hớt tóc nhưng trên 10 tuổi thì phải
bới tóc (chưa có chồng thì búi lệch, có chồng rồi thì búi thẳng), ngoài 50 tuổi, họ thường
cắt tóc ngắn. Theo tập quán cổ truyền, phụ nữ Lào thường mặc váy có cạp, có gấu, không
quá ngắn hoặc quá dài.
Các bản mường ở Lào thường có một số dòng họ. Mỗi họ có nhiều gia đình. Các gia
đình này gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt truyền thống, tình cảm và kinh tế. Về họ hàng,
người Lào có họ cha, họ mẹ và họ nhà chồng, nhà vợ. Gửi rể là tập quán phổ biến ở nông
thôn Lào. Một số địa phương có tục gửi rể một thời gian nhất định, khi vợ chồng ra ở riêng
sẽ được hưởng một phần tài sản do cha mẹ vợ chia cho. Tùy mỗi nhóm dân tộc, mỗi địa
phương, quyền lực trong gia đình thuộc người chồng hay người vợ. Đương nhiên, với chế
độ tiểu gia đình phụ quyền thì quyền lực sẽ thuộc về người chồng. Song, nhìn chung người
phụ nữ Lào vẫn có một số quyền hành nhất định, chứ không hoàn toàn ở vào vị trí thấp
kém trong gia đình cũng như xã hội. Trong gia đình, con gái có quyền lợi ngang với con
trai. Con gái được tự do đi dự lễ hội, múa hát dưới ánh trăng cùng bè bạn, kể cả bạn trai.
Trong những ngày lễ hội của bản mường, con gái không bị ngăn cản mà còn được công
nhận như một thành viên chính thức. Các cô gái Lào có thể tự do kéo sợi, dệt vải, may
chăn màn, làm nệm, thêu gối chuẩn bị cho ngày cưới của mình. Khi bố mẹ chia tài sản, con
gái cũng được hưởng một phần ngang với con trai. Riêng giai cấp phong kiến Lào xưa nay
không công nhận vai trò của người phụ nữ, luật pháp của vương quốc Lào trước đây quy

định người phụ nữ không phải làm nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Người Lào rất quý con, dù trai hay gái. Tất nhiên, những vùng có tục gửi rể, con gái
được quý hơn. Xưa nay, người Lào cũng có tâm trạng phiền muộn, cảm thấy thiếu hạnh
phúc khi vợ chồng lấy nhau lâu mà không có con. Người Lào thường nói “Không có mèo
chuột cắn khung cửi, không có con, họ hàng coi khinh”.


Ở Lào, gia đình một vợ một chồng là phổ biến. Tầng lớp phong kiến, quan lại giàu sang lấy
hai, ba vợ nhưng thông thường mỗi vợ ở một nhà riêng hoặc một địa phương khác. Vì cái
cảnh vợ lẽ, vợ cả cũng là nguyên nhân gây nên những mối quan hệ khá phức tạp đúng như
người Lào thường ví: “Muốn nhà lắm rác thì ăn măng, muốn ầm nhà thì lấy vợ lẽ”. Con
chú con bác hay con cô con cậu ở Lào không được lấy nhau. Nhưng trong hoàng tộc,
không những con cô con cậu mà chú có thể lấy cháu. Anh em ruột, anh em họ hay bà con
họ hàng thường có quan hệ gắn bó với nhau trong cuộc sống hàng ngày. Trong họ, ai săn
bắn được con mồi lớn, bắt được mẻ cá ngon đều được san sẻ, cả họ đều có phần. Lúc gặp
khó khăn hoạn nạn thì họ hàng đùm bọc, cưu mang, chủ động mang đến cho không chứ
không phải hỏi xin hay vay mượn. Bà con họ hàng không đòi hỏi điều kiện gì ngoài lòng
mong muốn người thân vượt qua khó khăn trước mắt, về sau khi làm ăn thuận lợi khấm
khá vẫn không bao giờ quên tình nghĩa anh em họ hàng. Sau ngày mùa, có thời gian rãnh
rỗi, người Lào có tục thu xếp quà cáp đi thăm hỏi bà con họ hàng gần xa với quan niệm:
“Ngọc không dũa ba năm thành sỏi đá, bà con không đi lại ba năm hóa người dưng”. Gia
đình nào hiếm con cái thường nuôi con bác, con chú cho khỏi vắng vẻ. Một số địa phương
ở Nam Lào, chị em gái lấy chồng có con đã ra riêng nhưng vẫn gần gũi thương mến nhau
hơn cả anh em trai.
Ngoài họ hàng bà con ra, mỗi thành viên trong bản làng còn có mối quan hệ với xóm
giềng. Dù không cùng chung huyết thống nhưng lại có rất nhiều mối quan hệ ràng buộc với
nhau trong cuộc sống, lao động sản xuất. Có thể nói, họ đã biết dựa vào nhau, đùm bọc
nhau trong cuộc đấu tranh để sinh tồn. Khi trình độ sản xuất còn thấp kém, kỹ thuật canh
tác còn lạc hậu thì những việc như làm ruộng, phát rẫy, đắp mương, rồi thiên tai địch họa…
đều phải dựa vào sức lao động của cả cộng đồng. Có thể nói xưa nay, mỗi gia đình trong

bản có công việc hệ trọng như: bệnh tật đau ốm, sinh nở, cưới xin, ma chay, tu hành…đều
có sự hỗ trợ to lớn của xóm giềng, bản làng. Các thành viên trong bản coi việc giúp đỡ lẫn
nhau là nghĩa vụ, là đạo lý làm người, không ai nghĩ rằng mình sẽ được trả ơn sau này. Về
mối quan hệ xóm giềng, bản làng các già bản thường dùng những câu tục ngữ để khuyên
răn con cháu như: “gỗ một cây rào dậu không kín”, lúc thiếu thốn thì “con cá nhỏ bằng
ngón tay út cũng chia đôi”, gặp khó khăn trở ngại thì “nặng giúp nhau gánh, dai giúp
nhau kéo”. Đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là tập quán tốt đẹp của người Lào
được duy trì qua nhiều thế hệ. Nhưng sau này có nơi đã bị bọn phong kiến, quan lại lợi
dụng để bóc lột những người nông dân lao động cần cù chất phác, phá hoại sự chân tình,
vô tư trong sáng một truyền thống tốt đẹp của bản mường. Ngày nay, tập quán tốt đẹp trên
được kế thừa và phát huy để phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống mới và bảo vệ bản
làng.
Với tập quán đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau khi có tai biến, lúc mừng vui
không có nghĩa là trong các bản mường không có những mâu thuẩn, va chạm, tranh chấp
với nhau trong cuộc sống, nhất là khi sản xuất chưa phát triển, trình độ dân trí còn nhiều
hạn chế. Nhưng từ thưở xa xưa, người Lào vốn yêu chuộng cuộc sống hiền hòa, êm ái. Và
đây cũng là một trong những bản sắc của dân tộc Lào. Đứng trước mâu thuẫn, xích mích,
người Lào thường có sự kiềm chế rất lớn, với quan niệm “chín lần nhịn sẽ được thỏi vàng”.
Hơn thế nữa, người Lào còn rất kỵ cách xử thế “ăn cho thỏa đói, nói cho thỏa giận”. Do đó
mà trong các bản mường, kể cả đô thị, nơi tập trung như chợ búa, bến tàu, bến xe thường
rất ít xảy ra cãi cọ, chửi bới, xô xát lẫn nhau. Mọi sự tranh chấp đều được hòa giải một
cách êm thấm có lý có tình thông qua các già bản, trong đó không thể không kể đến sự


nhân nhượng, phục thiện của mỗi bên. Cãi nhau, chửi nhau đối với người Lào là điều xa lạ,
còn đánh nhau là một tội lỗi.
Mến khách, sẵn sàng giúp đỡ những người gặp hoạn nạn, sa cơ lỡ vận gặp cảnh ngộ
éo le cũng trở thành một tập quán của người Lào. Khách nhỡ độ đường ghé quan bản
thường được mời ngủ lại cùng ăn uống với gia đình. Nếu ngại làm phiền gia đình thì có thể
ra ở “xả-la” một loại nhà từ thiện của bản. Ở đây có đủ xoong, nồi, mắm muối, gạo nước

để khách tự nấu ăn. Nếu khách là người quen biết, dù không thân thiết nhưng lâu ngày mới
có dịp gặp lại thì được gia chủ đón tiếp nhiệt tình và cởi mở. Còn là khách thân thiết, ngoài
bữa cơm rượu thân mật, chủ nhà còn làm lễ “cầu may” cho khách. Để tăng thêm không khí
trang trọng, chủ nhà có thể gọi các con ra chắp tay trước ngực lễ phép chào hỏi khách.
Trước thái độ chân tình, cởi mở của chủ nhà làm cho khách được tự nhiên thoải mái ăn
uống, trò chuyện. Nhưng dù gia chủ có ân cần cởi mở đến đâu, khách cũng không được
suồng sã, mà cần ý tứ theo đúng tập quán truyền thống để khỏi phật ý gia chủ. Người Lào
rất kỵ sờ đầu và rất chú ý giữ gìn, đặc biệt là nam giới. Họ thường tránh chui qua gầm nhà,
dây phơi quần áo hoặc các vật ô uế khác. Bởi vậy, khách tuyệt đối không được đụng chạm
vào đầu người khác hoặc xoa đầu trẻ em. Trong phòng chật hẹp khi đi lại tránh không để
đụng hoặc bước qua chân người khác. Khi đi qua trước mặt các cụ già phải xin lỗi và cúi
thấp người xuống một chút. Trong bữa ăn, khi gắp thức ăn tránh để chạm tay người khác.
Về chào hỏi, những người cùng trang lứa gặp nhau thường chào “sạ-bai-đi” (chào
mạnh khỏe) đồng thời hai tay chắp trước ngực, đầu hơi cúi xuống. Đối với sư sãi, ông bà,
cha chú, thầy cô giáo, hoặc những người cao niên đáng kính khác khi chào hỏi, nam cũng
như nữ thường chắp hai tay ngang trán. Ngày nay, tại các đô thị, trong công sở, để hòa
nhập với xu thế của thời đại các giới chức gặp nhau thường bắt tay. Nhưng giữa viên chức
người Lào với nhau trước khi bắt tay họ vẫn chắp tay chào theo truyền thống.
Người quen hay lạ bị lỡ đường khi đi qua nương rẫy có thể ghé vào nhà nghỉ ngơi ở
các chòi canh dù vắng chủ. Trên chòi thường có sẵn gạo, mắm muối, nồi chảo, khách có
thể nấu ăn. Trên rẫy nếu có rau quả như bầu bí, ngô, sắn, khách có thể đào, hái về nấu ăn.
Nhưng sau đó, bằng mọi cách khách báo cho chủ biết việc ăn ở của mình gọi là “khóp”.
Được tin, chủ nương rẫy chẳng những không phật ý mà còn tỏ ra vui vẻ vì tự nhiên đã làm
được một việc thiện. Điều tối kỵ đối với người Lào là sau khi đã ở lại trên chòi, đã đào hái
rau quả, xong cố tình xóa các dấu vết. Trong trường hợp này, người Lào thường có tập
quán làm dấu thật rõ để chủ nhân nhận biết ngay, gọi là “mải khóp”. Khi đi qua các khu
rừng, dù cách xa bản năm mười cây số, gặp tổ ong mật trên cây, những bụi sa nhân rừng…
nhưng đã được đánh dấu (có vết chặt chéo nhau, gai những cành lá đã khô…) thì coi như
đã có chủ, không được đụng chạm đến. Đây cũng là một quy ước của bản làng. Nếu ai đó
vì lòng tham cứ tùy tiện lấy thì coi như ăn cắp. Nếu biết chính xác người lấy thì người

nhận trước có thể kiện với già bản và đòi bồi thường.
Sống trung thực, thật thà, không tham lam lấy của người khác là một tập quán hết
sức tốt đẹp của người Lào vốn có từ xa xưa đến tận ngày nay vẫn được kế tục và phát huy.
Trước đây ở các bản làng, theo thường lệ, thiếu thốn thì cho nhau hoặc cho vay mượn, đến
khi có thì trả, không phải trả lãi. Họ thường vay mượn lúa gạo vào những tháng giáp hạt
hoặc mùa màng thất bát do thú rừng phá hoại. Được hộ cho vay thỏa thuận, người đi vay
mang thúng mủng của mình đến nơi để lúa tự đong đếm. Đến khi trả, sau khi báo cho chủ
biết, người vay tự mang lúa đến đổ vào bồ, không cần sự chứng kiến của gia chủ. Người
cho vay cũng như người đi vay mượn hoàn toàn tin tưởng nhau, không hề nghĩ đến hơn
thiệt, vay đầy trả vơi. Họ quan niệm rằng những ý nghĩ, việc làm như vậy là một tội lỗi. Để


đề phòng những tai biến bất ngờ, người Lào thường phân tán lúa gạo. Sau khi thu hoạch hộ
nào cũng dựng một chòi nhỏ gọi là “làu-khạu” để cất giữ lúa, ngô ở ngay bên ruộng, rẫy
cách xa bản dăm ba cây số nhưng không mấy khi bị mất mát. Ở Nam Lào các gia đình nuôi
trâu bò thả rông từng đàn năm ba chục con gần như quanh năm trong rừng nhưng vẫn
không mất trừ trường hợp bị thú dữ bắt.
Văn hoá Lào như một dòng chảy ngọt ngào đời này qua đời khác, hun đúc nên tâm
hồn, cốt cách, và văn hoá của người Lào. Qua thời gian năm tháng được kết tinh ở những
phong tục văn hoá đẹp đẽ như Tết Té nước để giải trừ mọi lo âu phiền muộn; Buộc chỉ cổ
tay chúc phúc người thân, chúc phúc khách quý, bạn bè… đó là mỹ tục rất đẹp đẽ, độc đáo
và hiếm có; và hoà cùng với tiếng chiêng, tiếng khèn, điệu Lăm vông mềm mại uyển
chuyển làm say đắm lòng người, như mời gọi, như níu giữ bước chân du khách đã đặt chân
đến đất nước Lào là không muốn rời xa, là dẫu chỉ một lần mà lưu luyến mãi.
Các nước đạo Phật phát triển trở thành quốc giáo thì phong tục tập quán cơ bản giống
nhau. Con người Lào lịch sự, lễ phép, không thoa đầu mọi người kể cả trẻ em, không bá
vai, bá cổ. Người Lào gặp nhau, người dưới chắp tay chào người trên; trẻ em chắp tay chào
người lớn, không bao giờ họ lớn tiếng cãi nhau. Khi chào hoặc khi đáp từ kể cả thành tiếng
hoặc không thành tiếng người ta thường dùng các cử chỉ như: thông thường hai tay chắp lại
với nhau giơ lên ngang ngực, đầu hơi cúi xuống, nếu tỏ ý kính trọng đối với người lớn tuổi

hoặc cấp trên thì giơ ngang mặt.
Nhân dân các dân tộc Lào rất thích ca múa, đặc biệt là các làn điệu dân ca truyền
thống. Không chỉ trong những ngày lễ hội, vui chơi hợp quần… người Lào còn hay ca hát
trong sản xuất ngoài ruộng nương, đi hái lượm trong rừng, xuôi ngược trên các dòng sông.
Dân ca Lào rất phong phú, giàu âm điệu, mang đậm bản sắc dân tộc được phổ biến
rộng rãi trong nhân dân từ nông thôn đến thành thị. Người có công lớn trong việc sưu tầm,
phổ biến và nâng cao các làn điệu dân ca là các “mỏ-lăm” (ca sĩ), “mỏ khen” (nhạc công,
thổi khèn bè). Đội ngũ “mỏ lăm, mỏ khen” ngày càng phát triển trước yêu cầu thưởng thức
ca múa của nhân dân ở các bản mường, trong đó có nhiều nghệ sĩ tài ba nổi tiếng vừa có
thể sáng tác vừa biểu diễn được đông đảo nhân dân ưu ái, mến mộ. “Mỏ lăm” ở Lào có vị
trí thật đặc biệt trong xã hội. Họ sống gần gũi nhân dân, đi đến bản làng nào cũng được đón
tiếp nồng nhiệt. Họ am hiểu sâu sắc cuộc sống, xã hội Lào, nắm bắt được tình cảm, ước mơ
của các tầng lớp nhân dân. Có thể nói, họ là một tri thức, một nghệ sĩ của nhân dân, được
nhân dân nuôi dưỡng.
Dân ca của Lào có nhiều loại như lăm, khắp, xỡng, kạp, ăn nẳng-xử… Mỗi loại lại
mang sắc thái riêng của từng miền, từng dân tộc, từng địa phương. “Lăm” sử dụng nhiều
thể loại thơ nhất được quần chúng ưa thích nhất và phổ biến trong cả nước.
Âm nhạc của Lào ảnh hưởng lớn của các nhạc cụ dân tộc như khèn (một dạng của ống
tre. Một dàn nhạc điển hình bao gồm người thổi khèn cùng với biểu diễn múa bởi nghệ sĩ
khác. Múa Lăm vông (Lam saravane) là thể loại phổ biến nhất của âm nhạc Lào, những
người Lào ở Thái Lan đã phát triển và phổ biến rộng rãi trên thế giới gọi là mor lam
sing..Khi được mời cùng múa Lăm Vông với người khác giới, hai người đi song song
nhưng không va chạm vào người phụ nữ.


Múa Lăm vông
Đất nước Lào có nhiều công trình lịch sử văn hoá, có thiên nhiên tươi đẹp, có nhiều
cảnh quan nổi tiếng như: cố đô Luông Phra-băng (di sản văn hoá thế giới), chùa Vạtxixun
(Luông pha băng), Núi phú Xỉ, Cánh Đồng Chum huyền bí (Xiêng Khoảng), thác Khôn,
thác Quang Xi, Hang Thẳm tình.v.v. Cánh Đồng Chum huyền bí ở Xiêng Khoảng gắn liền

với nhiều huyền thoại kỳ thú. Tháp That Luang ở Thạt Luổng - biểu tượng của văn hóa
Phật giáo và hiện được coi là biểu tượng của nước Lào.Tháp Patuxay - biểu tượng chiến
thắng của người Lào được xây dựng vào năm 1962để vinh danh những chiến sĩ trong cuộc


kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào. Cố đô Luông Phra-băng đã được UNESCO
công nhận là di tích lịch sử và văn hóa của thế giới năm 1995, với nhiều di tích lịch sử, tôn
giáo, chùa và làng cổ kính với những kiến trúc và chạm trổ độc đáo; đặc biệt, thác nước
Tát Khoang-xi, được ca ngợi như "viên ngọc xanh giữa rừng nhiệt đới”.

Lào là một vùng đất có lịch sử lâu đời nhưng trải qua các cuộc chiến tranh với người
Miến Điện, Trung Hoa và đặc biệt với đế quốc Xiêm nên nhiều di tích lịch sử, văn hóa, tôn
giáo bị tàn phá. Nhiều di tích hiện nay đã được xây dựng lại trong cuối thế kỷ 19, đầu thế
kỷ 20 còn nét cổ kính, uy nghi.
Viêng Chăn - tên gọi của thành phố bắt nguồn từ tiếng Pali, có nghĩa là “thành phố
của gỗ đàn hương” – một loại cây quý trong kinh điển Ấn Độ. Theo tiếng Lào - Wiang Jan
có nghĩa là “thành phố của mặt trăng”. Thành phố nằm dọc theo bờ sông Mekong, có lẽ vì
thế mà có một môi trường sống rất dễ chịu, thoáng đãng. Khi người Pháp cai trị, họ quy
hoạch hệ thống đường, xây dựng các biệt thự, công trình mang phong cách Pháp. Con
đường lớn nhất xuyên giữa lòng thành phố là Đại lộ Lan Xang (Lan Xang có nghĩa là Triệu
voi) - được ví như Đại lộ Champs Elysées ở Paris (Pháp).Cuối Đại lộ Lan Xang là
Patuxay Gate- biểu tượng chiến thắng của người Lào được xây dựng vào năm 1962. Công
trình này dùng để vinh danh những chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân
dân Lào.


Patuxay Gate có nhiều tên gọi khác: “đường băng thẳng đứng” hay “Champs Elysées của
phương Đông”... Patuxay Gate trước đây được biết đến là tượng đài Anousavary. Hình
thức bên ngoài Patuxay Gate có phần nào đó giống với khải hoàn môn ở Paris, tuy nhiên,
vẫn nở rộ nét đặc sắc của nhân dân Lào: những hình tượng trang trí Kinari – nửa người phụ

nữ và nửa chim, những phù điêu mô tả trường ca Rama và các tháp mang đậm phong cách
của người Lào. Từ trên cao, Thủ đô Viêng Chăn hiện ra trước mắt du khách không gian bao
la và trải rộng vươn ra mọi hướng. Patuxay Gate lại kết hợp hài hòa trong không gian
quảng trường rộng lớn. Mỗi khi chiều về là lúc người dân Viêng Chăn cùng du khách lại tụ
tập về đây vui chơi thư giãn. Tại Viêng Chăn, có rất nhiều chợ đường phố. Thức ăn của
Lào rất đặc biệt và ngon, thủ công mỹ nghệ truyền thống như: dệt-lụa, đồ trang sức và giỏ
xách phong phú. Ngoài ra có Công viên Phật lưu giữ bộ sưu tập bê tông ngoài trời của
nghệ thuật điêu khắc Phật giáo và Hindu, Hồ Nam Ngeun, làng văn hóa Vangxang... Ở
Viêng Chăn có nhiều ngôi chùa rất lớn và nổi tiếng như Wat Sisaket, Ong Teu, That
Luang... Chùa Wat Sisaket lưu giữ đến 6.840 tượng Phật lớn nhỏ rất quý hiếm và là ngôi
chùa có nhiều tượng Phật cổ nhất Lào. Tượng ở đây được làm chủ yếu bằng đồng, một số
làm từ các vật liệu khác như gỗ quý, bạc hoặc mạ vàng. Đối diện với chùa Wat Sisaket là
chùa Prakeo, nét độc đáo ở đây là pho tượng quý hiếm Phật Phra Bang (đúc tại Sri Lanka,
bằng vàng) được vua Fa Ngum mang từ Angkor về Viêng Chăn trong thế kỷ 14. Điểm nổi
bật nhất là chùa Heavy Buddha được xây dựng từ thế kỷ thứ I, hiện là trường học của sư
sãi, các nhà sư từ nhiều miền đất nước của Lào được truyền dạy kinh Phật dưới sự hướng
dẫn của các sư trụ trì thâm niên.


Tháp That Luang (Thạt Luổng)- di sản văn hóa thế giới, biểu tượng văn hóa Phật giáo
và hiện được coi là biểu tượng của nước Lào. That Luang được xây dựng năm 1566 trên
nền phế tích của một ngôi đền Khmer thế kỷ XIII và theo truyền thuyết là có chứa một sợi
tóc của Đức Phật được một nhà truyền giáo mang đến từ Ấn Độ. Sau đó, tháp Thạt Luổng
bị tàn phá và đổ nát sau cuộc xâm lược của người Thái ở thế kỷ XIX. Năm 1930, tháp được
khôi phục lại theo kiến trúc nguyên bản với độ cao 45m. Bức tượng ngay phía trước tháp là
vua Setthathilath, người đã cho xây dựng tháp đầu tiên. Ngày xưa, bốn mặt vòng quanh
That Luang được bao bọc bởi các ngôi chùa nhưng hiện tại chỉ còn tồn tại chùa Luang Nua
và Luang Tai. Hằng năm, ở đây, vào trung tuần tháng 11 diễn ra lễ hội cấp quốc gia là Lễ
hội That Luang. Tháp That Luang được coi là rất linh thiêng nên có nhiều người đến đây
cầu khấn các nguyện vọng.


Luông Pra Băng hay Luông Pha Băng, nghĩa là Phật Vàng Lớn. Luông Pha-băng là
Thủ đô của Vương triều Lan Xang thế kỷ thứ 14, thời kỳ hưng thịnh của Lào dưới triều
Vua Xê-tha-thi-lát, nhưng từ năm 1545 chiến tranh xảy ra liên miên, Vua Xê-tha-thi-lát
quyết định rời kinh đô đến Viêng Chăn. Trước năm 1975, nó vẫn là thủ đô hoàng gia, trung
tâm của Vương quốc Lào. Ngày nay, nó là tỉnh lỵ của tỉnh Luông Pra Băng. Luông Pha
Băng có 129 điểm du lịch, với nhiều di tích lịch sử, tôn giáo, chùa và làng cổ kính với
những kiến trúc và chạm trổ độc đáo, có cố cung hoàng gia, thác nước Tát Khoang-xi,
được ca ngợi như "viên ngọc xanh giữa rừng nhiệt đới". Luông Pha-băng đã được
UNESCO công nhận là di tích lịch sử và văn hóa của thế giới năm 1995.


Thác nước Tát Khoang-xi

Luông Pra Băngmiền Bắc Lào
Cánh đồng chum - một di tích khảo cổ học nằm ở tỉnh Xiêng Khoảng có khoảng 2.000 cái
chum lớn nhỏ ở 52 địa điểm nằm rải rác tại chân dãy núi Trường Sơn. Kích thước của các
chum đá dao động khoảng từ 0,5 đến 3m, trọng lượng lên đến 6000 kg và có niên đại
khoảng 1500 đến 2000 năm.


Các câu chuyện huyền thoại của người Lào cho rằng có những người khổng lồ đã từng
định cư ở khu vực này. Theo một truyền thuyết khác, một vị vua cổ đại tên là Khun
Cheung - đã tiến hành cuộc chiến chống lại kẻ thù thành công. Ông đã cho tạo lập cánh
đồng chum để ủ lên men và chứa số lượng lớn rượu gạo lao lao để ăn mừng chiến thắng.
Cánh đồng chum mang trong mình những bí ẩn của một nền văn hoá, một thế giới tâm linh
mà cho đến bây giờ vẫn chưa rõ về xuất xứ…
Với nét văn hóa đặc trưng của chùa, tháp cổ kính, những lễ hội đậm đà bản sắc, những điệu
múa Lăm Vông của những con người thân thiện hiếu khách luôn làm lưu luyến những ai đã
từng đặt chân tới đất nước Lào.Đất nước, con người và nền văn hoá Lào quả là đang mang

trong mình nguốn sức mạnh vô biên, ẩn chứa biết bao điều kỳ diệu, đó chính là tiềm năng
và là nguồn nội lực to lớn. Tiềm năng và nguồn lực to lớn đó đang được Đảng, Nhà nước
và nhân dân các bộ tộc Lào trân trọng, giữ gìn, bồi đắp và phát huy trong thời đại mới, thời
đại hội nhập và phát triển.
Nếu bạn hỏi tôi rằng, tôi có muốn quay trở lại nơi đây không? Câu trả lời chắc chắn là
– có. Quay lại để khám phá những tinh hoa văn hóa, quay lại để thấy được sự dung dị và
bình yên của cuộc sống hằng ngày nơi đây. Quay lại để cảm nhận còn đó những khó khăn
của những người dân Bản Nọt – một từ được dùng chung để chỉ những người sống ở nông
thôn. Quay lại đến biết rằng tôi đã có một trải nghiệm thú vị đến nhường nào. Và đó chính
là hành trình mà tôi đã đi và cảm nhận. Còn bạn thì sao? Hãy xách balo lên và đi thôi
nào…



×