Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO – VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 45 trang )

HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN KIM BẢNG
HỘI LHPN XÃ TƯỢNG LĨNH
----------

BÀI DỰ THI
“TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM-LÀO,
LÀO-VIỆT NAM”

Họ và tên: Phạm Thị Thùy Dương
Chức vụ Đảng: Đảng viên

Tháng 7 năm 2017

1


BÀI DỰ THI
“TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM – LÀO, LÀO – VIỆT NAM”

Họ tên: Phạm Thị Thùy Dương
Sinh ngày: 27/9/1992
Chức vụ: Chi bộ Phù Đê xã Tượng Lĩnh – Kim Bảng – Hà Nam

Hưởng ứng Cuộc thi “ Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào”
với mục đích – yêu cầu:
Góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, nhất là cho thế
hệ trẻ và quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào trong quá trình đấu tranh
chống lại kẻ thù chung, giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước phát triển.
Thiết thực hưởng ứng “ Năm đoàn kết hữu nghị Việt Nam – Lào 2017”
cùng với các sự kiện: 55 năm ngày thiết lập quan hệ hữu nghị ngoại giao Việt


Nam – Lào (5/9/1962 – 5/9/2017); 40 Năm ngày ký hiệp ước hữu nghị và hợp
tác Việt Nam – Lào; Vun đắp tình hữu nghị ngày càng tốt đẹp hơn tình cảm của
hai dân tộc Việt – Lào; đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, bóp méo
lịch sử của các thế lực thù địch, gây chia rẽ quan hệ và hữu nghị và tinh thần
đoàn kết đặc biệt giữa 2 nước Việt Nam – Lào;
Tiếp tục phát huy các giá trị khoa học của công trình biên soạn “ Lịch sử
quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 1930 – 2007” và tài liệu
tuyên truyên “ Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 1930 –
2017”
Cá nhân tôi tìm hiểu thông qua các tài liệu trên mạng Internet và tài liệu đã
được đọc hiểu về “ Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào” như sau:
2


Từ khi Đảng Nhân dân cách mạng Lào được thành lập năm 1955, dưới sự
lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam càng được phát huy mạnh mẽ và biểu hiện hết sức sinh động trên tất cả các
lĩnh vực, không ngừng nâng cao theo sự phát triển của phong trào cách mạng
của hai nước. Trong những lúc cam go, gian khổ nhất, cán bộ, đảng viên, quân
và dân hai dân tộc vẫn sát cánh bên nhau với nghĩa tình “hạt muối cắn đôi, cọng
rau bẻ nửa”, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng chung và vì nền độc lập tự
do của mỗi nước. Trong giai đoạn hoà bình với nhiều điều kiện thuận lợi, hai
dân tộc cũng không ngừng vun đắp mối quan hệ đoàn kết, thủy chung, son sắt để
cùng nhau tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Bài dự thi này xin nêu một số hình ảnh quan hệ đoàn kết, gắn bó, thủy
chung son sắt của hai dân tộc Việt Nam - Lào dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai
nhà nước trong những năm qua:
1. Dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, quân dân các dân tộc Việt
Nam - Lào đoàn kết bên nhau, chung sức, chung lòng đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược

Sau Hiệp định Giơnevơ, theo yêu cầu của Chính phủ Kháng chiến Lào,
Đảng và Nhà nước Việt Nam quyết định để lại một bộ phận chuyên gia tiếp tục
giúp đỡ cách mạng Lào. Tổng số chuyên gia gồm 964 đồng chí. Đây là lực
lượng rất quan trọng đối với cách mạng Lào sau ngày đình chiến.
Thực hiện đề án đấu tranh ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxaly (là căn cứ tập
kết của lực lượng cách mạng Lào), được sự chỉ đạo phối hợp của Ban cán sự
miền Tây, chuyên gia quân sự Việt Nam đã giúp đỡ bạn xây dựng hai tỉnh thành
các khu chiến đấu liên hoàn, đáp ứng tình hình thực tế của từng địa bàn, khả
năng tổ chức, quản lý của cán bộ Lào, đồng thời đề phòng chiến sự lan rộng.
Trong trường hợp bị chia cắt, từng khu có thể đảm bảo độc lập tác chiến; đồng
thời giúp bạn triển khai các mặt công tác chuẩn bị chiến trường, củng cố cơ sở ở
các địa phương tạo địa bàn vững chắc, ngăn chặn địch tấn công. Nhờ đó, lực
3


lượng Pathết Lào không chỉ đẩy lùi các đợt tấn công lấn chiếm của quân đội
Vương quốc Lào, mà còn mở trận đánh lớn thu thắng lợi, diệt được nhiều địch
và mở rộng vùng giải phóng, làm nức lòng nhân dân hai tỉnh Sầm Nưa và
Phôngxaly.
Sau khi thành lập Chính phủ liên hiệp Lào lần thứ nhất, Việt Nam đã nhận
đào tạo 330 cán bộ của Pa Thết Lào, nhằm chuẩn bị lực lượng cho phong trào
cách mạng cả nước. Bức thư của Ban chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi Ban chấp
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khẳng
định: “Trong kháng chiến cũng như trong đấu tranh thực hiện hòa bình, thống
nhất đất nước, cách mạng Lào luôn được sự giúp đỡ tận tình của cách mạng Việt
Nam, Đảng Lao động Việt Nam. Sỡ dĩ cách mạng Lào giành được thắng lợi to
lớn đó...cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của cách
mạng”.
Mặc dù Chính phủ liên hiệp với mục tiêu đem lại hòa bình cho nước Lào đã

được thành lập nhưng đế quốc Mỹ và tay sai vẫn ra sức thi hành chính sách
khủng bố đối với cán bộ cách mạng và những người có tư tưởng hòa bình, tiến
bộ. Nhiều cán bộ và thường dân Lào ở các tỉnh biên giới chạy sang Việt Nam
lánh nạn. Để tạo điều kiện giúp cách mạng Lào, ngày 13-12-1958, Ban chấp
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã ra Chỉ thị 120-CT/TW, nêu rõ:
Hết lòng giúp đỡ cho số cán bộ và thường dân Lào vì tránh khủng bố mà chạy
sang biên giới ta về mọi mặt tinh thần, vật chất theo khả năng của ta. Nhận thức
rõ nhiệm vụ quan trọng này, tại Quảng Trị, khi Tỉnh ủy Savẳnnakhệt phải sang
đóng ở A Vao (Hướng Hoá), bạn được Tỉnh ủy Quảng Trị, nhân dân các dân tộc
Hướng Hoá bảo vệ, cung cấp lương thực, thực phẩm suốt trong thời gian lực
lượng Pathet Lào bị bọn phản động Phu Mi và Cà Tày (thân Mỹ) trở mặt phá bỏ
Hiệp định Giơnevơ, truy lùng, khủng bố. Quảng Trị đã trở thành căn cứ địa, hậu
phương vững chắc của tỉnh bạn. Ở Thái Nguyên, trong lúc tình hình kinh tế còn
rất nhiều khó khăn, nhưng cán bộ, học sinh Lào ở đây vẫn được cung cấp đủ tiêu
4


chuẩn phụ cấp. Những việc làm tình nghĩa này càng làm cho quan hệ vừa là
đồng chí vừa là anh em giữa hai Đảng, hai dân tộc thêm keo sơn, gắn bó.
Về quân sự, Việt Nam không chỉ sát cánh bên bạn trong thời kỳ đầu củng
cố, phát triển lực lượng, xây dựng hậu cứ, cung cấp vũ khí, quân trang mà còn
phối hợp với bộ đội PaThết Lào đánh địch giành thắng lợi oanh liệt. Từ ngày 188 đến 15-9-1959, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với các
đơn vị PaThết Lào mở đợt hai hoạt động trong mùa mưa. Trong đợt hoạt động
này, quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt
Nam, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam (chủ yếu là lực lượng quân khu
4 tác chiến ở các tỉnh Xiêng Khoảng, Liên huyện 90 và Khăm Muộn) đã vận
dụng nhiều hình thức tác chiến linh hoạt như phục kích, tập kích, bao vây, bắn
tỉa, địch vận, phá hoại cầu đường, đốt kho tàng địch, đánh cứ điểm bằng đặc
công kết hợp hoả lực...Đi đôi với tác chiến, các đơn vị tình nguyện Việt Nam đã
tích cực giúp Lào củng cố cơ sở, phát động nhân dân ủng hộ kháng chiến, tham

gia các lực lượng dân quân tự vệ chiến đấu bảo vệ vùng mới giải phóng. Các
đơn vị tình nguyện phối hợp chặt chẽ với lực lượng PaThết Lào và nhân dân địa
phương đánh 40 trận, giải phóng thêm 13 điểm. Sau đợt hoạt động này, các tiểu
đoàn 1, 2, 4 PaThết Lào được lệnh rút ra hoạt động ở biên giới Việt - Lào, sau đó
sang tập trung ở huyện Yên Lập (Phú Thọ) để chấn chỉnh lực lượng. Theo yêu
cầu của Trung ương Neo Lào Hắc Xạt, Bộ Quốc phòng Việt Nam giúp xây dựng
tiểu đoàn 1 và 2 PaThết Lào thành hai tiểu đoàn chủ lực mạnh, quân số mỗi tiểu
đoàn từ 650 đến 700 chiến sĩ; đồng thời bổ sung vũ khí, trang bị và cử các tổ
chuyên gia giúp hai tiểu đoàn về quân sự, chính trị và chuyên môn kỹ thuật.

5


Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Souphanouvong tại chiến khu Việt Bắc năm 1951

Khi cuộc kháng chiến của hai dân tộc ngày càng phát triển, các trận đánh
phối hợp giữa quân tình nguyện Việt Nam với bộ đội PaThết Lào ngày càng có
quy mô lớn hơn, nhịp nhàng và chặt chẽ hơn. Thực hiện nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), Việt Nam đã chi viện pháo binh cho PaThết
Lào, đồng thời tăng cường hoạt động uy hiếp Thà Khẹc, giúp bạn bảo vệ thủ đô
Viêng Chăn trước sự tấn công của địch. Cuối năm 1960, quân tình nguyện Việt
Nam phối hợp với bạn giải phóng Cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng, nối liền với
Sầm Nưa, tạo căn cứ địa vững chắc để Chính phủ hợp pháp của Hoàng thân
Xuvănna Phuma đặt trụ sở chính thức ở Khăng Khay (Xiêng Khoảng).

6


Việt Nam đã chi viện pháo binh cho PaThết Lào.


Trung đoàn 148 thuộc Quân khu Tây Bắc, chi viện cho chiến trường
miền Nam và chiến trường Lào.

7


Trên cơ sở thoả thuận giữa hai Đảng, ngày 9-1-1961, Quân ủy Trung ương
và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam xác định nhiệm vụ quốc tế của
chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam đối với cách mạng Lào trong 5 năm
1961-1965 là: Giúp đỡ các lực lượng vũ trang cách mạng Lào về chuyên gia
quân sự, đào tạo cán bộ; củng cố, xây dựng vùng giải phóng và phát triển lực
lượng vũ trang của bạn; khi bạn có yêu cầu, tổ chức bộ đội tình nguyện Việt
Nam phối hợp chiến đấu với bộ đội bạn.
Trung ương Đảng hai nước cũng xác định: Lực lượng PaThết Lào cần phối
hợp chặt chẽ với quân tình nguyện Việt Nam, kiên quyết đập tan các hoạt động
phiêu lưu quân sự của địch, giữ vững vùng giải phóng và các cơ quan đầu não
của Trung ương Đảng Lào trong mọi tình huống.
Căn cứ nhiệm vụ trên, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam
quyết định biên chế thời chiến cho Sư đoàn 325, Lữ đoàn 341, Trung đoàn 224
thuộc Quân khu 4; Lữ đoàn 316, Lữ đoàn 335 và Trung đoàn 148 thuộc Quân
khu Tây Bắc, sẵn sàng chi viện cho chiến trường miền Nam và chiến trường
Lào.
Trên tinh thần đó, các trận đánh phối hợp giữa hai bên ngày càng đạt hiệu
quả cao, thu thắng lợi giòn giã trên các chiến trường như cuộc tiến công giải
phóng đường 8, giải phóng huyện Xê Pôn (Savẳnnakhệt), đẩy lùi các đợt tấn
công của địch vào Xiêng Khoảng. Tiêu biểu là chiến dịch Nặm Thà năm 1962,
do Bộ tư lệnh chiến dịch Nặm Thà trực tiếp chỉ huy với sự tham gia của các
tướng lĩnh Việt Nam - Lào. Chiến dịch Nặm Thà đã làm xoay chuyển tình thế có
lợi cho cách mạng Lào, có ý nghĩa quan trọng về quân sự và chính trị. Liên quân
Lào - Việt không chỉ tiêu diệt được một bộ phận sinh lực tinh nhuệ của địch vừa

mới xây dựng, mà còn giáng đòn mạnh về chính trị, đánh vào âm mưu của Mỹ
và chính quyền tay sai Phumi Nôxavẳn, làm cho tinh thần đội quân đánh thuê
thêm hoang mang, dao động. Uy tín của Neo Lào Hắc Xạt, quân đội PaThết Lào
8


được nâng cao, khu giải phóng mở rộng thành căn cứ liên hoàn đến tận biên giới
Trung Quốc.

Quân đội PaThết Lào giải phóng mở rộng thành căn cứ đến tận biên giới Trung Quốc.

Sau Hiệp định Giơnevơ về Lào năm 1962, thực hiện cam kết của mình,
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định rút toàn bộ quân tình nguyện
Việt Nam và đại bộ phận chuyên gia quân sự về nước. Thời gian này, Chính phủ
liên hiệp Lào đã lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước, tuy vậy, Hoàng thân
Xuvanuvông vẫn khẳng định: Người bạn cùng sống chết, chung một chiến hào
với ta chỉ có Việt Nam.
Năm 1963, tình hình cách mạng Lào gặp khó khăn do đế quốc Mỹ và chính
quyền tay sai lật lọng âm mưu xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ. Trước yêu cầu của
bạn, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam lại cử chuyên gia và quân tình
nguyện sang giúp đỡ. Điều đáng trân trọng, biểu hiện tình cảm thủy chung giữa
quân và dân hai nước là đoàn chuyên gia Việt Nam phần lớn là các đồng chí đã
từng hoạt động, chiến đấu trên đất bạn thời gian trước.
9


Cuối năm 1964, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào mở “cuộc vận
động thu phục phỉ” nhằm ổn định vùng giải phóng. Việt Nam đã giúp Lào các
sản phẩm thiết yếu như muối, vải, quần áo, thuốc men; đồng thời tại Lào, các
đơn vị tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã sát cánh cùng quân, dân Lào triển

khai có hiệu quả cuộc vận động trên. Nhiều ổ phỉ lâu đời bị giải tán, tạo sự ổn
định mọi mặt cho các vùng giải phóng.
Từ năm 1965, liên minh chiến đấu Việt - Lào sát cánh bên nhau đánh bại
chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam
Việt Nam và chiến lược “chiến tranh đặc biệt” tăng cường của đế quốc Mỹ tại Lào.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Kaysone Phomvihane (chụp ngày 8/2/1966)

Trước tình hình đế quốc Mỹ đánh phá vùng giải phóng Lào quyết liệt, đồng
thời mở các chiến dịch ngăn chặn, cắt đứt tuyến đường Hồ Chí Minh; dưới sự
10


lãnh đạo của hai Đảng, quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào không
quản gian khổ, hy sinh chiến đấu anh dũng, kiên cường cùng quân, dân Lào bảo
vệ vùng giải phóng, tuyến hành lang chiến lược và mở các chiến dịch tấn công
địch giành thắng lợi to lớn. Có những cuộc chiến đấu diễn ra gay go, ác liệt, lực
lượng tuy mỏng nhưng quân tình nguyện Việt Nam vẫn đặt lên trên hết nhiệm vụ
bảo vệ nhân dân các bộ tộc Lào. Năm 1969, quân tình nguyện Việt Nam cùng Pa
Thết Lào tổ chức chiến dịch phản công cuộc hành quân Cù Kiệt đánh ra Cánh
đồng Chum - Xiêng Khoảng của địch. Tại khu vực điểm cao 1505, Lạt Huồng,
sau khi địch dùng trực thăng đổ quân xuống chiếm Phu Tôn, Cang Xẻng - Phu
Hủa Xàng, chúng dùng cối 106,7 ly và pháo 105mm từ trung tâm Cánh đồng
Chum bắn phá ác liệt các điểm cao xung quanh. Tiểu đoàn 924 thuộc Trung
đoàn 866 quân tình nguyện Việt Nam đã kiên quyết giữ vững cao điểm 1505,
Bạn Thặm, đồng thời giúp nhân dân và cơ quan bạn sơ tán ra khỏi khu vực. Tuy
lực lượng chiến đấu có hạn nhưng các đại đội vẫn cử ra một số tổ công tác để
hướng dẫn và giúp dân sơ tán. Trong bom đạn ác liệt, bộ đội tình nguyện đã
chiến đấu quên mình, giúp đỡ nhân dân, nhường áo xẻ cơm, sẵn sàng xông pha

vào những nơi nguy hiểm để bảo vệ nhân dân. Ở xưởng may của tỉnh Xiêng
Khoảng, khi địch càn đến gần, anh chị em công nhân được lệnh di chuyển
nhưng có một chị tàn tật không đi được phải bò vào rừng lán nạn. Biết tin đó, tổ
công tác của trong đoàn đã vào rừng tìm kiếm, cứu được chị đưa về nơi sơ tán
an toàn. Trong những ngày ác liệt này, bộ đội Việt Nam đã phối hợp với các cơ
sở Đảng, chính quyền đưa hơn 16.000 dân và gia đình cán bộ sơ tán qua Mường
Xéng, Kỳ Sơn (Nghệ An). Nhân dân Nghệ An nhiệt tình đón tiếp, nhường áo xẻ
cơm, cùng nhân dân Lào xây dựng nhà cửa, bệnh xá, trường học, ổn định cuộc
sống nơi sơ tán. Những tấm gương sáng, quên mình của bộ đội tình nguyện, sự
đón tiếp tận tình của nhân dân Nghệ An trong những ngày gian khó này đã góp
phần làm cho tình đoàn kết chiến đấu của quân dân Việt Nam - Lào càng thêm
keo sơn, gắn bó.

11


Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971 là minh chứng vô cùng sống
động về mối quan hệ Việt - Lào thắm thiết, ruột thịt. Thực hiện quyết tâm chiến
lược của Trung ương Đảng hai nước, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy
Đảng, chính quyền cơ sở, đồng bào các bản, làng, mường Việt Nam và Lào trên
địa bàn dự kiến sẽ diễn ra chiến dịch đã tham gia hết sức hăng hái vào mọi công
việc chuẩn bị. Ngày ngày, trên khắp những nẻo đường hành quân, nhân dân
Quảng Trị cùng nhân dân các bộ tộc Lào không quản mưa rừng, thác lũ sát cánh
cùng các đơn vị bộ đội chủ lực, thanh niên xung phong bạt núi, mở đường, đào
đắp, vận chuyển hàng vạn mét khối đất đá, xây dựng cầu cống; truy bắt lực
lượng thám báo địch bảo vệ sự an toàn và bí mật cho chiến dịch; tích cực tham
gia xây dựng các trận địa bắn máy bay và vận chuyển các loại vũ khí, đạn dược,
hàng hóa vào các vị trí tập kết đúng kế hoạch. Xe trâu, xe bò, xe đạp thồ...là cả
gia tài đối với đồng bào nơi đây nhưng khi cách mạng cần, bà con sẵn sàng đóng
góp để phục vụ yêu cầu vận chuyển đạn được, quân trang, quân nhu...Những

chàng trai, cô gái Vân Kiều, Pa Cô và các bộ tộc Lào cùng trang lứa với sức trẻ
và lòng nhiệt huyết cách mạng đã đưa năng suất gùi thồ lên 90-100kg mỗi
chuyến. Nhiều người tuy sức khoẻ yếu hay vừa chữa lành vết thương vẫn xung
phong đi phục vụ chiến dịch; có em nhỏ mới 13-14 tuổi đã tình nguyện đóng
góp sức mình vào việc khuân vác, chặt cây ngụy trang mặt đường, làm liên lạc...
Đang làm nương rẫy, dân bản thấy bộ đội hành quân liền tìm cách gây tiếng ồn
để át tiếng động của các đoàn quân, tránh sự phát hiện của thám báo địch. Thi
thoảng, người dân ra bờ suối vắng thấy những vết chân bộ đội in trên cỏ ướt đã
bảo nhau lùa trâu, bò ra để xáo trộn, xoá đi. Một số đồng bào bị địch bắt, chúng
dụ dỗ, mua chuộc hay tra tấn dã man, vẫn kiên quyết không khai báo, sắt son
một lòng một dạ trung thành với cách mạng.
Khi chiến dịch diễn ra ác liệt, trước yêu cầu phục vụ chiến trường, bà con
dân tộc Việt Nam và Lào nơi đây tiếp tục tự nguyện phối hợp với cùng các lực
lượng vận tải tham gia vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm,
thuốc men phục vụ bộ đội. Có những đoạn đường địch đánh phá dữ dội suốt
12


ngày đêm, nhưng từng đoàn người gùi lương, tải đạn vẫn không ngừng toả đi
các hướng về nơi bộ đội đang chờ. Nhiều nơi, đồng bào tự nguyện chỉ ăn củ mài
và rau rừng, dành cho các chiến sĩ những hạt gạo, lát sắn, củ khoai cuối cùng để
“ăn no mà đánh thắng giặc Mỹ”.
Từng đoàn dân công là con em các dân tộc ngày đem gùi lương, tải đạn ra
chiến trường, rồi lại tham gia vận chuyển thương binh về tuyến sau. Nhiều thôn,
bản thành lập các đội đi tìm kiếm chôn cất cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Bom đạn
địch chà xát, tàn phá nhà cửa, nương rẫy nhưng không thể nào làm phai nhạt
tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc, tình quân dân thắm thiết, thủy chung.
Đó là nhân tố làm nên chiến thắng đường 9 - Nam Lào vang dội của quân và dân
hai nước.
Tinh thần đoàn kết, tình cảm thủy chung, gắn bó keo sơn của cán bộ, đảng

viên, chiến sĩ Việt Nam với dân tộc Lào anh em đã được Tổng Bí thư Cayxỏn
Phômvihản nêu rõ: Nhiều đồng chí Việt Nam đã hy sinh trên chiến trường Sầm
Nưa, Cánh đồng Chum...Nhiều cán bộ Việt Nam đã sang Lào hoạt động từ lúc
cách mạng mới bắt đầu cho đến khi tóc đã bạc, coi nhân dân Lào như nhân dân
của mình, coi sự nghiệp cách mạng Lào như sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Đối với Việt Nam, sự hết lòng yêu quý, giúp đỡ của nhân dân các bộ tộc Lào
luôn là nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của bộ đội tình
nguyện và các chuyên gia Việt Nam. Đặc biệt, nhân dân Lào đã cùng chia sẻ với
nhân dân Việt Nam trước bom đạn ác liệt của giặc Mỹ, tạo mọi điều kiện để bộ
đội Việt Nam mở đường Trường Sơn và mở các chiến dịch lớn, góp phần giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
2. Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu hiện vô cùng sinh động
mối quan hệ đoàn kết, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào, Lào
- Việt Nam
Tháng 9-1959, theo yêu cầu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định thành lập đoàn 959 chuyên gia giúp
13


Lào ở mặt trận Hạ Lào. Cũng trong thời gian này, Bộ Quốc phòng quyết định
thành lập đoàn 559 với nhiệm vụ mở đường, vận chuyển vật chất, đưa đón cán
bộ, bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam, đồng thời vận chuyển vào bảo đảm hậu
cần cho đoàn 959 chuyên gia ở Lào và vận chuyển vật chất giúp bạn Lào.
Khi phát hiện ra tuyến đường vận tải chiến lược quan trọng này, đế quốc
Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã kết hợp các lực lượng không quân, bộ binh với
phương tiện chiến tranh hiện đại liên tục đánh phá. Các đơn vị vận tải bị kẹt lại,
không qua được đường 9. Trước tình hình đó, trên cơ sở quan hệ truyền thống
vốn có giữa hai dân tộc, yêu cầu khách quan cần gấp rút chi viện cho chiến
trường miền Nam, Lào và Campuchia, hai Đảng, hai Chính phủ thống nhất mở
thêm đường phía Tây Trường Sơn chạy trên đất Lào. Từ tháng 4-1961, dưới sự

giúp đỡ của các đơn vị tình nguyện Việt Nam, lực lượng cách mạng Lào đã mở
nhiều đợt hoạt động quân sự ở miền Trung và Hạ Lào, giải phóng một vùng rộng
lớn từ Căm Cớt, Lắc Xao đến Mường Phìn, Sê Pôn, Bản Đông, nối đường 12
với đường 9, nhanh chóng tạo thành một hành lang dài và rộng theo chiều Đông
- Tây. Toàn bộ 6 mường của Lào ở Bắc và Nam đường số 9 được giải phóng.
Năm 1963, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục đưa quân bao vây,
đồng thời đánh phá quyết liệt tuyến vận tải phía đông Trường Sơn. Trước tình
hình đó, được sự lãnh đạo của hai Đảng, quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội
Pa Thết Lào quyết định mở chiến dịch 128 giải phóng toàn bộ vùng cao nguyên
Trung Lào có biên giới chung với Việt Nam dài trên 700km. Thắng lợi của chiến
dịch 128 đã tạo điều kiện cho Việt Nam chuyển toàn bộ đường vận tải sang
hướng Tây trên đất Lào.
Trong quá trình này, bộ đội tình nguyện, đoàn chuyên gia cố vấn Việt Nam
dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã thường xuyên phối hợp với quân
khu Trung - Hạ Lào, Đảng bộ và chính quyền 7 tỉnh có đường Hồ Chí Minh
xuyên qua tổ chức khảo sát địa hình, phối hợp mở đường và chiến đấu bảo vệ
căn cứ và tuyến đường chiến lược, tổ chức đánh địch tại chỗ, giải phóng đất đai,
14


mở rộng vùng giải phóng, tạo điều kiện để tuyến đường được mở rộng và phát
triển.
Để có con đường chiến lược với hơn 20.000km, các chiến sĩ, lực lượng
thanh niên xung phong và nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Lào đã đổ bao
mồ hôi, xương máu, của cải và hàng ngàn người đã ngã xuống để xây dựng, bảo
vệ và vận chuyển hàng hóa, nhân lực phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ của
hai nước Việt - Lào.
Đối với cách mạng và nhân dân Lào, từ khi mới hình thành cho đến khi kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đường Hồ Chí Minh đi
qua 17 mường (huyện) ở Trung và Nam Lào với tổng chiều dài hàng ngàn km.

Trong 16 năm (1959-1975), đế quốc Mỹ đã rải xuống các cánh rừng dọc tuyến
đường hàng triệu tấn bom các loại, hàng ngàn tấn chất độc hóa học và nhiều
thiết bị điện tử tinh vi nhằm phát hiện, ngăn chặn lực lượng vận tải chiến lược.
Đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Nam Việt Nam, Lào, Campuchia còn sử
dụng lực lượng lớn quân đội và vũ khí đánh vào các vùng thuộc hành lang của
tuyến đường, quy mô lớn nhất là chiến dịch Lam Sơn 719 với 20.000 quân Sài
Gòn cùng sự yểm trợ của 9.000 quân Mỹ, 2.000 máy bay các loại đánh vào khu
vực Đường 9 - Nam Lào. Riêng năm 1969, máy bay Mỹ đã đánh phá hàng nghìn
trận vào 180 bản làng của đồng bào các dân tộc Lào dọc tuyến đường Hồ Chí
Minh, thiêu hủy 845 nóc nhà, giết hại 482 người, làm bị thương 344 người, phá
337 nương rẫy. Bất chấp sự hủy diệt tàn bạo và những âm mưu thâm độc của kẻ
thù, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhân dân các bộ tộc
Lào đã hết lòng giúp đỡ bộ đội Việt Nam trong việc mở đường, bảo vệ tuyến
đường và vận chuyển hàng hóa phục vụ chiến trường. Từ năm 1965, khi đế quốc
Mỹ mở rộng đánh phá, nhân dân 17 huyện thuộc 7 tỉnh của Lào trên mảnh đất
Tây Trường Sơn đã tự động dời nhà, bỏ nương rẫy đi vào rừng sâu sinh sống. Bộ
đội và du kích Lào phối hợp chặt chẽ với bộ đội Việt Nam đánh trả máy bay
địch, ngăn chặn các cuộc hành quân lấn chiếm, tập kích của chúng. Nhân dân
Lào còn đóng góp hàng triệu ngày công cùng bộ đội và lực lượng thanh niên
15


xung phong Việt Nam làm mới, sửa chữa đường xá, vận chuyển lương thực,
thương bệnh binh, góp phần vào mọi hoạt động của tuyến đường Hồ Chí Minh.
Không thể kể hết những tình cảm quý báu của nhân dân các bộ tộc Lào
dành cho các chiến sĩ, cán bộ Việt Nam. Năm 1964, địch đánh phá ác liệt, thời
tiết phức tạp khiến việc vận chuyển hàng hóa và dẫn quân của đoàn 559 trên
tuyến tây Trường Sơn gặp rất nhiều khó khăn. Có thời điểm đường bị tắc, khách
qua tuyến dồn ứ hàng ngàn người ở các trạm giao liên gần một tháng. Việc đảm
bảo lương thực, thực phẩm cho bộ đội trở thành vấn đề “nước sôi, lửa bỏng”.

Trước tình hình đó, chỉ huy đoàn 559 cùng đoàn chuyên gia 763 ở Hạ Lào trực
tiếp đề xuất với Tỉnh ủy Távên Oọc của Lào vận động nhân dân địa phương giúp
đỡ. Với tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, nhân dân tỉnh Távên Oọc, đặc biệt
là các huyện Cà Lươn, Xê Camản...nhanh chóng thu gom thóc, giã gạo phục vụ
bộ đội Việt Nam. Mặc dù là địa phương nghèo, nhân dân sống phân tán, nhưng
chỉ trong vòng nửa tháng, bạn đã huy động được hơn 30 tấn lương thực, góp
phần quan trọng giải quyết khó khăn cho đoàn 559.
Nhờ sự phối hợp liên minh này mà hàng hoá không còn bị ứ đọng trên
tuyến đường 9, vào chiến trường miền Nam và nước bạn thông suốt, kịp thời.
Tuy nhiên, sức người có hạn, việc vận chuyển hàng hoá còn phải dựa vào voi,
trâu, bò... Bà con dân tộc đông - tây Trường Sơn rất quý voi, coi voi là thần, là
tượng trưng cho sự giàu có, danh giá. Làng nào có voi rất tự hào. Thế nhưng khi
cách mạng cần, nhân dân cả Việt - Lào đều sẵn sàng hiến voi, đưa voi ra trận
tuyến.
Trong những năm ác liệt, gian khó đó, điều quý nhất ở bạn là tấm lòng chân
thật, trong sáng, ngay thẳng, không nề vất vả, hy sinh và tuyệt đối tin tưởng vào
cán bộ, bộ đội. Bà con dân tộc Lào ở đây đã nói với cán bộ, bộ đội Việt Nam
rằng: “Tao đói còn đi đào được củ rừng để ăn. Tụi mày làm cách mạng còn phải
đi làm mãi. Củ sắn, lúa chúng tao dành cho chúng mày…”. Bà con Mường
Noòng 3 năm không có muối phải ăn tro từ rễ tranh đốt ra. Đến khi ta đưa muối
16


sang, liền nhắc công ơn cụ Hồ. Có người chưa hề thấy ảnh Bác, hỏi cụ Hồ có
phải như ông Voi không? ông trời không? Những lúc giáp hạt, bị cái đói hành
hạ, bà con dắt nhau đi tìm rau rừng, xuống khe bắt ốc sống cầm hơi, không hề
nghĩ đến việc lấy một lưng gạo, hạt muối ở các kho lương thực, thực phẩm của
các binh trạm đặt giữa rừng trên đất bạn.
Trong những năm tháng khó khăn hay trong những trận đánh ác liệt, nhiều
bà mẹ, gia đình Lào trong khi cuộc sống còn rất thiếu thốn vẫn chắt chiu từng

bát gạo để nuôi dưỡng thương binh, vượt qua bom đạn của địch đưa rau, gạo,
thuốc men đến các binh trạm trên tuyến đường để trao tận tay cho các chiến sĩ
Việt Nam.
Đáp lại lòng quý mến và đùm bọc của nhân dân Lào trên dọc tuyến đường
Trường Sơn, các đơn vị bộ đội Việt Nam đã tích cực cùng với bộ đội PaThết Lào
chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ nhân dân các bộ tộc Lào, giúp đồng
bào tăng gia sản xuất, cứu đói cho dân khi gặp thiên tai, địch họa. Bộ đội Việt
Nam trên tuyến đường Hồ Chí Minh còn giúp nhân dân Lào xây mới một số
tuyến đường liên bản, liên xã, liên huyện, góp phần cải thiện đời sống nhân dân,
phát triển kinh tế - xã hội vùng giải phóng. Chính vì vậy, tuy phải chịu đựng hy
sinh, gian khổ, nhưng nhân dân các bộ tộc Lào dọc tuyến đường vẫn hết lòng
yêu thương, ủng hộ quân đội cách mạng hai nước.

Nhờ có con đường chiến lược Hồ Chí Minh, tính chung trong vòng 16 năm
(1959-1975), tuyến giao thông vận tải quân sự Trường Sơn đã vận chuyển được
1.349.000 tấn hàng hóa, vũ khí, trong đó giao cho các chiến trường và cách
mạng Lào, Campuchia hơn 583.000 tấn, 515 triệu m3 xăng dầu. Riêng 4 tháng
trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, tuyến vận tải 559 qua
đường Hồ Chí Minh đã chuyển vào miền Nam Việt Nam hơn 110.000 cán bộ,
chiến sĩ, 230.000 tấn vật chất các loại, đưa sang Lào (1973-1975) trên 108.000
tấn hàng.
17


Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng sáng ngời
của tình đoàn kết chiến đấu, mối quan hệ thủy chung son sắt của hai dân tộc Việt
- Lào trong trường kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc.
Để củng cố tinh thần đoàn kết liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung,
đưa sự nghiệp giải phóng của mỗi nước đi đến thắng lợi hoàn toàn, từ ngày 11
đến 13 tháng 3 năm 1951, tại chiến khu Việt Bắc, các đại diện của ba mặt trận:

Liên Việt, Ítxalạ và Ítxarắc đã họp Hội nghị thành lập Mặt trận đoàn kết liên
minh Việt - Miên - Lào
THÁNG 2- năm 1951
Đoàn 280 quân tình nguyện Việt Nam đẩy mạnh hoạt động ở Trung
Lào
Thực hiện chủ trương giúp Lào, tháng 2 năm 1951, Ban Cán sự Trung Lào
và Ban Chỉ huy Đoàn 280 quân tình nguyện Việt Nam đã tăng cường chỉ đạo các
phân đoàn 9, 13 và 812, các đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung tiến sâu vào
các vùng đồng bằng, đẩy mạnh hoạt động tác chiến và gây dựng cơ sở, giúp Lào
thực hiện các chủ trương, kế hoạch đề ra. Theo phương hướng đó, các đội công
tác cơ sở thuộc các phân đoàn 9, 13, 812 phân tán tổ chức thành nhiều nhóm.
Mỗi nhóm gồm từ hai đến ba người cùng cán bộ Lào đi vào từng làng bản, thực
hiện “ba cùng” với dân, tuyên truyền vận động nhân dân tham gia kháng chiến,
đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch.
Đối với những nơi có phong trào quần chúng rộng, các nhóm giúp Lào xây
dựng, củng cố các đoàn thể Lào Ítxalạ, các tổ dân quân du kích và chính quyền
cơ sở; đồng thời tổ chức học tập bồi dưỡng chính trị và quân sự tại chỗ cho cán
bộ địa phương và các lực lượng vũ trang Lào; tiến hành tuần tra canh gác, sẵn
sàng chống địch càn quét, giữ vững căn cứ kháng chiến. Qua những ngày lăn lộn
sinh hoạt, làm công tác xây dựng cơ sở, cán bộ và chiến sĩ Đoàn 280 được nhân
dân Lào yêu mến, tin cậy coi như con em của mình. Để đẩy mạnh các mặt giúp
Lào hiệu quả, Ban Chỉ huy Đoàn 280 phân công lại địa bàn hoạt động. Tiểu
18


đoàn 1 (Tiểu đoàn 364 cũ) phụ trách khu vực đường 9, chuyển xuống hoạt động
ở vùng đồng bằng Lahảnặm, dọc theo đường 23 đến khu vực Kẹng Koọc. Tiểu
đoàn 2 phụ trách khu vực đường 12 tiến dọc theo dải núi Phu Xăng He, hoạt
động trong vùng địch kiểm soát đến cuối vùng đồng bằng huyện Mahả Xây.
Theo phương châm hoạt động “kết hợp quân sự với chính trị” và vận dụng

phương thức “trung đội cơ động đánh địch, tiểu đội phân tán làm công tác cơ
sở” ở từng khu vực, các tiểu đoàn 1, 2 quân tình nguyện luôn hỗ trợ các phân
đoàn 9, 13 và 812 đi sâu tuyên truyền gây dựng cơ sở chính trị, xây dựng lực
lượng vũ trang ở các địa phương; đồng thời sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
chống địch càn quét, bảo vệ các khu căn cứ kháng chiến.
Chuyển cơ quan Ban Cán sự và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Lào đến căn
cứ mới
Thực hiện chủ trương mới, tháng 2 năm 1951, Mặt trận Tây Lào tổ chức
chuyển lực lượng cùng trang thiết bị cơ quan Ban Cán sự và Bộ Tư lệnh Mặt
trận Tây Lào đến nơi mới. Các trường, lớp (trường quân chính, các lớp đào tạo
vô tuyến điện - báo vụ, cơ công, dân vận...), trạm quân y, kho cung cấp, các bộ
phận chuyên môn cơ yếu, điện đài, tiếp tế, vận tải; một bộ phận công binh
xưởng cũng từ Nặm Tòn chuyển tới vùng Na Khưa, Na Lưởng. Lúc này, quân số
của các cơ quan, đơn vị tăng lên nhiều, nên việc ăn, ở, sinh hoạt khó khăn hơn ở
Nặm Tòn, Mương Phương. Việc nuôi quân chủ yếu dựa vào nhân dân, do nhân
dân cung cấp lương thực, thực phẩm. Đường giao thông tiếp tế từ Thái Lan sang
cũng phải chuyển hướng từ đầu cầu phía tây bắc sang đầu cầu phía đông nam,
quãng đường xa, có đoạn địch kiểm soát gắt gao.
Cơ quan Ban Cán sự và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Lào chuyển đến căn cứ
mới chưa được củng cố bao lâu đã phải thường xuyên chống các cuộc càn quét
của địch. Lúc đầu, địch chỉ càn qua các làng bản thăm dò, trinh sát rồi rút quân
về đồn. Tiếp đó, chúng chuyển đến đóng quân ở cạnh các làng bản và lùng sục
các khu rừng, nương rẫy, gây cho liên quân Lào - Việt một số khó khăn, tổn thất.
19


Một số đồng chí bị địch phục kích khi vận chuyển lương thực đã anh dũng hy
sinh, một số bị địch bắt. Các cơ quan, đơn vị luôn phải di chuyển địa điểm để
bảo toàn lực lượng.
Từ ngày 11 đến 19 tháng 2- năm 1951

Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương
Nhằm giải quyết những yêu cầu cách mạng trong tình hình mới, từ ngày 11
đến 19 tháng 2 năm 1951, Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương đã
được tiến hành tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang (Việt
Nam). Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết
thay mặt cho trên 76 vạn đảng viên. Về phía quốc tế, bên cạnh đại biểu của
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Xiêm, có đại biểu của Miên và
Lào. Đoàn đại biểu Đảng bộ Lào do đồng chí Cayxỏn Phômvihản làm trưởng
đoàn.

Đồng chí Tôn Đức Thắng đọc lời khai mạc tại Đại hội Đảng lần thứ II (11-2-1951)

Tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Báo cáo chính trị, đồng chí
Trường Chinh trình bày luận cương “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển
dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội”, đồng chí Hoàng Quốc Việt đọc
báo cáo “Củng cố khối đại đoàn kết để chiến thắng”, đồng chí Võ Nguyên Giáp
20


đọc báo cáo “Xây dựng quân đội nhân dân, hoàn thành chiến tranh giải phóng”,
đồng chí Cù Vân đọc “Báo cáo về kinh tế tài chính”.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết “Về Báo cáo chính trị của đồng chí Hồ
Chí Minh”, nêu rõ: vì điều kiện mới của Đông Dương và thế giới, ở Việt Nam
đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam có Chính
cương, Điều lệ thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Ở Cao Miên và Ai Lao, thành
lập ở mỗi nước một chính đảng riêng lấy tên là Đảng Nhân dân Khơme và Đảng
Nhân dân Lào. Đảng Lao động Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ các đồng chí và
những tổ chức cách mạng Miên, Lào để lãnh đạo cuộc kháng chiến của hai dân
tộc ấy giành lấy thắng lợi cuối cùng. Nội dung cụ thể của Nghị quyết về việc
thành lập ở Lào, Miên mỗi nước một chính đảng riêng là:

1. Để lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở mỗi nước, để phù
hợp với tình hình của hai nước ấy và tình hình trên thế giới, Đại hội đã quyết
nghị thành lập ở mỗi nước một chính đảng có tính chất nhân dân gồm những
người yêu nước tiến bộ nhất, hăng hái chiến đấu nhất trong hàng ngũ những
người kháng chiến ở Lào, Miên. Các đồng chí người Lào, Miên sẽ đứng ra tổ
chức chính đảng với sự giúp đỡ của Đảng Lao động Việt Nam, mà trực tiếp là
các đảng viên hoạt động ở Miên, Lào.
2. Tính chất của Đảng ấy phải là một Đảng của giai cấp công nhân, một
Đảng tiên phong, một Đảng lãnh đạo cách mạng. Phải căn cứ vào những tính
chất đó và điều kiện cụ thể của mỗi nước mà định chính cương của Đảng.
3. Về tổ chức đảng phải theo nguyên tắc dân chủ tập trung, nhưng phải
tùy trình độ đảng viên, điều kiện kháng chiến và lợi ích của cách mạng mà áp
dụng nguyên tắc tập trung cho thích hợp.
4. Kỷ luật phải nghiêm minh và tự giác nhưng cũng phải thích hợp với
trình độ đảng viên, trình độ tổ chức của Đảng.

21


Nghị quyết còn nêu ra một số điểm cụ thể về kế hoạch tổ chức thực hiện:
tổ chức Đảng Nhân dân tốt để lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Lào Miên. Thành lập Đảng phải đưa đến tăng cường đoàn kết thêm sức mạnh cho
cuộc kháng chiến của dân tộc. Đảng là của tất cả các tầng lớp nhân dân, được
quần chúng tín nhiệm yêu quý.
Những đồng chí Lào, Miên ở địa phương đứng ra tổ chức “nhóm sáng lập
Đảng Nhân dân” hoạt động để phát triển nhóm ấy bằng cách kết nạp những
chiến sĩ yêu nước, hăng hái tiến bộ nhất trong lực lượng kháng chiến... Tổ chức
“nhóm sáng lập Đảng Nhân dân” phải hoạt động bí mật, khi tổ chức đã khá
rộng, vững chắc để lãnh đạo mọi mặt công tác thì phải chuẩn bị triệu tập đại hội
đại biểu các nhóm để chính thức thành lập Đảng Nhân dân, thông qua Chính
cương, Điều lệ và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Nghị quyết cũng nêu ra một số nguyên tắc và mối quan hệ giữa tổ chức
Đảng Lao động Việt Nam với Đảng Nhân dân như: địa phương nào thành lập
được Đảng Nhân dân thì trong các tổ chức Đảng Lao động Việt Nam chỉ có các
đảng viên người Việt Nam. Quan hệ giữa tổ chức Đảng Lao động Việt Nam với
tổ chức Đảng Nhân dân dựa trên tinh thần quốc tế anh em để liên lạc giúp đỡ
nhưng phải bí mật.
Ngày 19 tháng 2- năm 1951
Liên quân Lào - Việt đánh đồn Nặm Phả Năng
Thực hiện chủ trương tăng cường hoạt động đánh địch, ngày 19 tháng 2
năm 1951, Tiểu đoàn 2 thuộc Đoàn 280 quân tình nguyện Việt Nam phối hợp
với đội du kích Bạn Naphào (Lào) đánh tập kích vào đồn Nặm Phả Năng (nằm
giữa hai đồn Bạn Naphào và Pạc Cuội), loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên,
số còn lại hoảng sợ bỏ đồn chạy trốn. Liên quân Việt - Lào thu hai súng trung
liên, 600 viên đạn. Đây là trận đánh đầu tiên của Tiểu đoàn 2 trong quá trình
hoạt động ở vùng đồng bằng Mahả Xây (Lào). Sau khi làm chủ đồn Nặm Phả
22


Năng, Tiểu đoàn 2 tổ chức hành quân làm công tác vũ trang tuyên truyền trong
các tàxẻng (tổng) thuộc huyện Mahả Xây. Đi đến đâu, cán bộ, chiến sĩ tình
nguyện đều tập trung dân tuyên truyền về chiến thắng, đồng thời vạch trần âm
mưu, thủ đoạn phá hoại của địch, khẳng định tình đoàn kết Việt - Lào chống
thực dân Pháp xâm lược, được nhân dân địa phương hoan nghênh, mến phục.
Ngay sau đó, Tiểu đoàn 2 phóng thích ba tù binh, cho phép trở về đoàn tụ gia
đình. Trước sự rộng lượng của ta, họ hết sức cảm phục, biết ơn cách mạng và
hứa trở về quê làm ăn chân chính, không đi lính theo Pháp chống lại nhân dân
nữa.
Trong thời gian này, tại đồn Bạn Naphào có một tiểu đội trưởng quân
nguỵ Lào được cách mạng giác ngộ, đã dẫn đầu một tiểu đội gồm 10 người,
mang đầy đủ vũ khí ra đầu hàng bộ đội Việt - Lào. Tin binh lính đồn Bạn

Naphào rời bỏ hàng ngũ địch trở về với Mặt trận Lào Ítxalạ được lan truyền
nhanh chóng ra các địa phương, làm hoang mang tinh thần binh lính trong các
đồn địch, tạo khí thế phấn khởi, càng tin tưởng vào kháng chiến của nhân dân.
THÁNG 3- năm 1951
Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đề ra nhiệm vụ quân
sự trên chiến trường Thượng Lào
Nhằm đẩy mạnh kháng chiến, tháng 3 năm 1951, Bộ Tổng Tư lệnh Quân
đội nhân dân Việt Nam đề ra nhiệm vụ quân sự trên chiến trường Thượng Lào
năm 1951 là: đẩy mạnh chiến tranh du kích nhằm phối hợp chặt chẽ với cuộc
chiến tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam với phương châm chiến lược du
kích chiến là chính, tiến tới vận động chiến. Chú trọng xây dựng lực lượng vũ
trang, bán vũ trang địa phương và xây dựng căn cứ địa vững chắc.
Phương thức hoạt động chủ yếu là vũ trang tuyên truyền dưới hình thức ban
xung phong công tác, đại đội độc lập hoạt động nhằm phát triển du kích chiến
rộng rãi. Giúp đỡ xây dựng quân đội cách mạng Lào, ra sức đào tạo cán bộ
23


người Lào. Lấy khu tam giác Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Luổng Phạbang làm
trung tâm xây dựng thành căn cứ địa vững chắc. Giáo dục cán bộ, chiến sĩ thấm
nhuần tinh thần quốc tế, nhận thức rõ Đông Dương là một chiến trường và tầm
quan trọng của mối quan hệ mật thiết giữa Lào và Việt Nam.
Từ ngày 11 đến 13 tháng 3- năm 1951
Hội nghị thành lập Mặt trận đoàn kết liên minh Việt - Miên - Lào
Để củng cố tinh thần đoàn kết liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung,
đưa sự nghiệp giải phóng của mỗi nước đi đến thắng lợi hoàn toàn, từ ngày 11
đến 13 tháng 3 năm 1951, tại chiến khu Việt Bắc, các đại diện của ba mặt trận:
Liên Việt, Ítxalạ và Ítxarắc đã họp Hội nghị thành lập Mặt trận đoàn kết liên
minh Việt - Miên - Lào.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp (người thứ 3 từ trái sang) và Hoàng thân Xuphanuvông (người thứ tư từ
trái sang) cùng các cán bộ quân đội Việt - Lào bàn kế hoạch mở chiến dịch Thượng Lào năm 1953.

Hội nghị thảo luận tình hình thế giới, Đông Dương, phân tích tình hình
mỗi nước và xác định nhiệm vụ cơ bản cũng như nhiệm vụ trước mắt của từng
nước và nhất trí khẳng định một số điểm quan trọng:
1. Cuộc kháng chiến của ba dân tộc Việt Nam - Miên - Lào là một bộ
phận khăng khít của khối hòa bình dân chủ thế giới.
24


2. Đánh đuổi thực dân Pháp, can thiệp Mỹ làm cho ba nước Việt - Miên Lào hoàn toàn độc lập là nhiệm vụ cơ bản của cách mạng mỗi nước.
3. Phải tăng cường tình đoàn kết, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau để chống kẻ
thù chung của mỗi dân tộc mới chóng thành công.
4. Hội nghị cử ra một Ủy ban liên minh Việt - Miên - Lào để thực hiện
việc liên lạc phối hợp giữa ba dân tộc trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung,
giành độc lập ở mỗi nước.

Từ ngày 13 đến 16 tháng 3- năm 1951
Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
Nhằm đáp ứng với tình hình mới, từ ngày 13 đến 16 tháng 3 năm 1951,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã họp Hội nghị lần thứ
nhất, ra nghị quyết về việc tổ chức và đề ra nhiệm vụ giúp cách mạng Lào Miên. Đối với cách mạng Lào, nghị quyết nêu rõ: đối với bộ phận Đảng Lao
động Việt Nam ở Lào, để thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ II của Đảng,
các đồng chí ở Lào sẽ thành lập bộ phận Đảng Lao động Việt Nam ở Lào. Mỗi
bộ phận phải tổ chức theo một hệ thống thích hợp, để thống nhất sự chỉ đạo từ
trên xuống. Hệ thống ấy là Ban Cán sự các cấp và dưới cùng là chi bộ (địa
phương, cơ quan, đơn vị).
Nhiệm vụ của bộ phận Đảng Lao động Việt Nam ở Lào là: giúp đỡ cách
mạng Lào; động viên, tổ chức, lãnh đạo Việt kiều tham gia và ủng hộ cách mạng

Lào; phục vụ quyền lợi Việt kiều. Bộ phận Đảng Lao động Việt Nam ở Lào, nếu
nơi nào xét có lợi thì công khai hợp pháp; nơi nào xét không có lợi thì bí mật.
Về Đảng Nhân dân Lào, nghị quyết nêu rõ: để sự lãnh đạo cách mạng dân
tộc giải phóng Lào thích hợp với tình hình của Lào và tình hình thế giới hiện
25


×