Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.49 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ HUYÊN

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ
ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Huyên


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...................................7
1.1 Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự...................................................................................7
1.2. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm hình sự .............13
Chương 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI
DƯƠNG....................................................................................................................27
2.1. Tổng quan thực trạng xét xử sơ thẩm hình sự trên địa bàn tỉnh Hải Dương..27
2.2. Thực trạng thực hiện quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tại các tòa án trên địa bàn tỉnh Hải Dương ...............................................30
2.3. Thực trạng các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con người của bị cáo trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các tòa án trên địa bàn tỉnh Hải Dương ............33
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................49
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.................................................................................49
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự nhằm bảo đảm quyền
con người của bị cáo trên địa bàn tỉnh Hải Dương................................................58

KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................68


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HTND

Hội thẩm nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

QCN

Quyền con người

TTHS


Tố tụng hình sự

TAND

Tòa án nhân dân

TP

Thẩm phán

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Thống kê tình hình giải quyết việc bị can, bị cáo bị tạm giam trên
địa bàn tỉnh Hải Dương ................................................................................... 35
Bảng 2.2. Thống kê tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm trên
địa bàn tỉnh Hải Dương ................................................................................... 45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người gắn chặt với hoạt động xã hội và các mối quan hệ xã
hội. Chính vì thế, quyền con người luôn được quy định và bảo đảm thực hiện
trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776
đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho

họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên ngôn
nhân quyền của Pháp năm 1791 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền
lợi”… Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2014 đã dành riêng Chương 2, gồm 36 Điều quy định
về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về các lĩnh vực
văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội được Hiến pháp và pháp luật công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Để đảm bảo quyền con người thì hệ
thống cơ quan tư pháp nói chung và Tòa án nhân dân nói riêng có vị trí trung
tâm. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định: “Tòa án có vị trí trung tâm và
xét xử là hoạt động trọng tâm”. Hoạt động xét xử của TAND nhằm bảo vệ
công lý, chống mọi hành vi phạm tội, bảo đảm trật tự xã hội để người dân yên
tâm sống, học tập và làm việc …đồng thời TAND bảo vệ quyền con người
của bị cáo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự đảm bảo tính khách quan,
chính xác, không làm oan người vô tội, đảm bảo những quyền của bị cáo
được thực hiện.
Để đảm bảo cho việc xét xử bị cáo được khách quan, toàn diện, pháp
luật TTHS quy định TAND thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, cấp xét xử sơ
thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. BLTTHS 2015 là sự kế thừa và phát huy của

1


BLTTHS 2003, nhưng BLTTHS 2015 lại có bước phát triển mới để phù hợp
với sự phát triển của đất nước và yêu cầu mới đặt ra cho pháp luật hình sự
trong quá trình hội nhập và phát triển. Đặc biệt, chú trọng bổ sung thêm
quyền con người của bị cáo như quyền yêu cầu người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng kiểm tra, đánh giá chứng cứ; tự mình hỏi người tham gia phiên

tòa nếu được chủ tọa đồng ý; xem biên bản phiên tòa…
Thực tế, trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND,
một số người tiến hành tố tụng chưa thực sự quan tâm đến quyền của bị cáo,
đặc biệt là đối với những bị cáo phạm tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người hay các tội phạm về ma túy… Một số
người cho rằng cần phải trừng trị nghiêm khắc và có thái độ kỳ thị đối với
những bị cáo phạm loại tội này. Vì vậy, quyền con người của bị cáo trong
hoạt động xét xử còn có lúc chưa được đảm bảo.
Tỉnh Hải Dương nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng sông Hồng, thuộc tam
giác kinh tế trọng điểm, là điểm chung chuyển giữa thủ đô Hà Nội và thành phố
cảng Hải Phòng, là địa bàn có nhiều khu công nghiệp, thu hút lao động từ nước
ngoài và các tỉnh trên địa bàn cả nước. Chính vì vậy, tình hình tội phạm ở Hải
Dương diễn biến phức tạp, người phạm tội đến từ nhiều nơi khác nhau. Trước
yêu cầu của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ thực
trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự, tác giả chọn đề tài: “Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm luận văn thạc
sỹ, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý vấn đề bảo đảm QCN nói chung, QCN trong
hoạt động tư pháp cũng như QCN trong tố tụng hình sự đã được nhiều tác giả
nghiên cứu từ các góc độ và với nhiều mức độ khác nhau. Vấn đề bảo đảm

2


quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam là một vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp và luôn
nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
Liên quan đến vấn đề này nhiều công trình đã được công bố có nội

dung đề cập đến vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói
chung, và bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự nói riêng. Cụ thể có nhiều công trình, bài tham luận như: Luận án tiến
sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam
hiện nay” của Nguyễn Huy Hoàng [31]; Luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền con
người của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay” của Võ Quốc Tuấn [58]; GS.TSKH
Lê Văn Cảm “Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp
luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự”[7]; Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia
“Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự
trong giai đọan xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam”; Luận án tiến sĩ
“Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn
Quang Hiền[32]; Chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự,
luật tố tụng hình sự Việt Nam" của TS. Trần Quang Tiệp[56]; PGS.TS
Nguyễn Mạnh Kháng, Thực hiện dân chủ trong tố tụng hình sự trong bối cảnh
cải cách tư pháp ở nước ta hiện na[34]; Chuyên khảo “Các nguyên tắc tố tụng
hình sự” của PGS.TS. Hòang Thị Sơn và TS. Bùi Kiên Điện[51]… Các tác
giả cũng đã phân tích làm rõ quyền con người của người bị buộc tội (người bị
tạm giữ, bị tạm giam, bị can, bị cáo) trong tố tụng hình sự Việt Nam, một số
tác giả đi sâu nghiên cứu và các nguyên tắc của BLTTHS liên quan đến quyền
con người, một số tác giả đi sâu phân tích về việc bảo đảm thực hiện quyền
con người… những kết quả của các công trình nghiên cứu này cũng là những
tri thức, hiểu biết quan trọng mà tác giả kế thừa có chọn lọc trong quá trình

3


nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học
nào tiếp cận một cách trọn vẹn, toàn diện, hệ thống, đồng bộ về vấn đề bảo
đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực

tiễn một địa bàn nghiên cứu, cụ thể là tại tỉnh Hải Dương.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng, cũng như
những tri thức về nhân thân người phạm tội trong các công trình nghiên cứu
mà mình tiếp cận được, tác giả sẽ vận dụng đi sâu nghiên cứu về việc bảo
đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực
tiễn tỉnh Hải Dương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là phân tích chỉ rõ những kết quả cũng như hạn
chế, bất cập trong bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
của TAND tỉnh Hải Dương từ đó đưa ra những giải pháp tăng cường bảo đảm
quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả kế thừa có chọn lọc và phát triển ý tưởng
từ các công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả đi trước có liên quan
đến đề tài luận văn. Để thực hiện đề tài, luận văn thực hiện nhiệm vụ sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền của bị cáo,
bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
- Nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, đánh giá pháp luật tố tụng hình sự
về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm của
Việt Nam nói chung và thực tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng, để rút
ra những khó khăn, vướng mắc của pháp luật hiện hành và tìm ra nguyên
nhân khắc phục những bất cập đó.

4


- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng
hình sự về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan tới quyền con người, quyền của bị cáo, bảo đảm quyền con người của bị
cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hải
Dương. Tác giả chủ yếu dựa trên số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương giai đoạn 2014 - 2016 để
đánh giá.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi không gian
trên lãnh thổ tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi tòa án: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi các tòa án cấp sơ
thẩm trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi hoạt động xét xử của tòa án: trong phạm vi hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự.
- Phạm vi thời gian: trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở lấy quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật XHCN và quan điểm của Đảng Cộng
Sản Việt Nam. Luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu luật
học truyền thống như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ
thống, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp lịch sử, tư duy logic,
phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm rõ nội dung và phạm vi nghiên
cứu của đề tài.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần củng cố

nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ cho những người tiến hành tố tụng
(Thẩm phán, HTND, KSV, Luật sư, Thư ký), trong việc bảo đảm quyền con
người của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, góp phần
hoàn thiện về nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực tiễn đối với các quy định
liên quan đến bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu được đề cập trong luận văn này sẽ là một trong
những tài liệu khoa học hữu ích cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu pháp
luật liên quan. Đối với các cơ quan nhà nước, luận văn có thể là tài liệu tham
khảo có giá trị trong quá trình xây dựng, áp dụng và thực hiện pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 03 Chương:
Chương 1. Khái quát chung về bảo đảm quyền con người của bị cáo
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hải Dương
Chương 3. Các giải pháp bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.

6


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1 Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của bị cáo
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1 Khái niệm quyền con người
Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa về quyền con người đã được công
bố, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những

thuộc tính nhất định.
Quan niệm phổ biến được thừa nhận cho rằng quyền con người là
những giá trị, nhu cầu và lợi ích khách quan và vốn có của con người được
ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật của quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế.
Liên Hợp Quốc đặt quyền con người là vấn đề quan tâm hàng đầu, với
mục tiêu hướng tới là duy trì hòa bình, bình đẳng, thiết lập trật tự xã hội và an
ninh thế giới, chính vì thế đã có hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con
người được soạn thảo và công bố. Ngay trong phần mở đầu của Hiến chương
đã nêu rõ “... sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của
con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ, ở quyền bình đẳng giữa các
nước lớn và nhỏ”. Các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc cam kết “thực
hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế,
văn hóa và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của
con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng
tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”[54, tr.78].
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì Quyền con người là
tổng hợp các quyền và các tự do cơ bản để đánh giá về địa vị pháp lý của cá

7


nhân. Nhưng có ý kiến cho rằng “Quyền con người là những đặc quyền (nhân
phẩm, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có của con người) được thừa nhận và
bảo hộ bằng luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Quyền con người là quyền của
tất cả mọi người[ 58].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền” chính là “quyền con người”.
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, lần đầu tiên tuyên bố rằng: “... ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội

được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và luật”[42].
Hiến pháp 2013 ra đời có bước chuyển biến vượt bậc quy định về
quyền con người, quyền công dân được quy định đầy đủ và chi tiết tại
Chương 2 với 36 điều. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng’’[42, tr 8].
Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả đưa ra định
nghĩa về quyền con người như sau: Quyền con người là quyền đương nhiên
của tất cả mọi người, bao gồm những giá trị, nhu cầu và lợi ích hợp pháp vốn
có của con người từ khi sinh ra, được ghi nhận trong các Điều ước quốc tế và
Hiến pháp quốc gia, được bảo đảm thực hiện thông qua pháp luật của của
quốc gia và pháp luật quốc tế. Quyền con người bao gồm tính phổ biến, tính
không thể tước đoạt, tính không thể phân chia và tính liên hệ phụ thuộc lẫn
nhau của quyền con người.

8


1.1.2 Khái niệm bị cáo
Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 BLTTHS 2003 thì “bị can là người
đã bị khởi tố về hình sự” [43]. Khi đó, người bị khởi tố về hình sự sẽ trở thành
đối tượng bị buộc tội, nhưng không có nghĩa là có tội. Điều 72 Hiến pháp
1992 và Điều 9 BLTTHS 2003, quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Khái niệm về bị can được quy định mở rộng và đầy đủ hơn tại Khoản 1

Điều 60 BBLTTHS 2015: “Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình
sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”.
Theo quy định của pháp luật tư cách tham gia tố tụng của bị can chấm dứt khi
cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra trong giai đoạn điều tra; Viện
kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố; Tòa án đình chỉ
vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; và thay đổi tư cách tham gia tố tụng “bị
cáo” kể từ khi tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLTTHS năm 2003 quy định [43]:
Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Bị cáo tham gia tố
tụng kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quy định pháp lý đầu tiên về bị cáo được thể hiện trong bản hướng dẫn
về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo thông tư số 16/TATC ngày 27
tháng 9 năm 1974 của TANDTC, cụ thể: “bị cáo là người bị truy cứu trách
nhiệm hình sự trước Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử Tòa án nhân
dân chỉ được đưa một người ra xét xử với tư cách bị cáo nếu VKSND đã truy
tố người đó trước TAND, nếu VKS không truy tố thì TAND không được xét
xử một người với tư cách là bị cáo trừ những người mà TAND xét xử về
những việc hình sự nhẹ”.

9


Đến BLTTHS năm 1988 quy định tại khoản 1 Điều 34 cho tới nay
BLTTHS 2003 quy định tại khoản 1 Điều 50, thì thuật ngữ bị cáo được quy
định ngắn gọn nhưng đầy đủ nội dung bao hàm: “Bị cáo là người đã bị Toà
án quyết định đưa ra xét xử”.
Khái niệm bị cáo tiếp tục được mở rộng để phù hợp với xu hướng phát
triển, hội nhập quốc tế của thời đại. Chính vì vậy BLTTHS 2015 ra đời quy

định chi tiết, đầy đủ, rõ nét hơn về bị cáo. Khoản 1 Điều 61 BLTTHS 2015
quy định: Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét
xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật
này[43].
Theo quy định của BLTTHS, tư cách tham gia tố tụng của bị cáo từ khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật. Bị cáo là người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội,
không đồng nghĩa với chủ thể của tội phạm. Bị cáo chỉ trở thành người có tội
nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đã có hiệu lực
pháp luật.
1.1.3 Khái niệm bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng
hình sự, đồng thời là cấp xét xử đầu tiên. Theo Luật tổ chức TAND năm 2014
[46], hệ thống TAND ở Việt Nam gồm TAND tối cao; TAND cấp cao;
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (tòa cấp tỉnh); TAND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án quân sự. Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định tại Điều 170 BLTTHS
2003, cụ thể: Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử
sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm

10


nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng (trừ một số tội xâm phạm an ninh
quốc gia; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh
…) [43]; Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ
thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án

thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử. Theo
BLTTHS 2003 [43], thì tại phiên tòa sơ thẩm, hội đồng xét xử nhân danh nhà
nước có thẩm quyền tiến hành xem xét, công khai, đánh giá các tài liệu chứng
cứ được thu thập trong quá trình điều tra và xuất trình tại phiên tòa, căn cứ
vào bản cáo trạng mà VKS đã truy tố. Những người tham gia tố tụng được
quyền tranh luận, đưa ra quan điểm, ý kiến và được đại diện VKS đối đáp
theo quy định.
Quyền con người và bảo đảm quyền con người luôn là vấn đề quan
tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực pháp luật, vấn đề quyền
con người làm nền tảng trong việc nghiên cứu và ban hành các quy phạm.
Và trong lĩnh vực tố tụng hình sự cũng vậy, việc giải quyết vụ án hình sự
không thể tách rời vấn đề bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền của
người bị buộc tội [56, tr. 35]. Bởi lẽ để buộc tội và truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với một người phải dựa trên những căn cứ luật định và phải do
những người, những cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục
mà pháp luật quy định để nhằm mục đích không để lọt tội phạm đồng thời
đảm bảo không làm oan người vô tội.
Bảo đảm quyền con người xét cho cùng chính là việc ghi nhận và thực
hiện những cam kết trong pháp luật quốc tế về các quyền con người vào trong
pháp luật mỗi quốc gia. Không thể bảo đảm quyền con người nếu chỉ dựa vào
quyền tự nhiên của con người, bởi tự thân những quyền tự nhiên không thể tự
mình vận hành trong một xã hội rộng lớn ở phạm vi quốc tế và phạm vi quốc

11


gia. Phải thông qua Nhà nước, thì những cam kết quốc tế về quyền con người
mới hình thành nên những địa vị pháp lý của con người, đồng thời quyền con
người chỉ được bảo đảm khi được quy định bằng pháp luật và có cơ chế bảo
đảm, vận hành bởi pháp luật [57, tr. 38]. Do đó, bảo đảm quyền con người là

sự kết hợp địa vị pháp lý và địa vị thực tế của con người trong xã hội, là một
trong những biểu hiện tự do xã hội, trách nhiệm và tính tích cực công dân.
Các quyền kinh tế, chính trị, xã hội chưa phải là cơ sở để thực hiện quyền và
tự do của con người. Chúng chỉ trở thành những bảo đảm quyền con người
qua hình thức pháp lý và những nỗ lực tổ chức bảo đảm thực hiện của Nhà
nước. Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là đảm bảo cho những
người đó có địa vị pháp lý phù hợp để bảo vệ mình trước việc bị nghi thực
hiện tội phạm, bị buộc tội và những điều kiện pháp lý cũng như thực tế để họ
thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định.
Tuy nhiên, bảo đảm QCN trong TTHS không chỉ là sự ghi nhận về mặt
pháp lý các QCN trong TTHS, bảo vệ và bảo đảm thực thi các quyền đó trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Bảo đảm quyền con người của người
phải là sự bảo đảm cho các chủ thể mang quyền được thực hiện đầy đủ và hợp
pháp các quyền được đề cập trong các quy định của pháp luật [37].
Vì vậy, theo tác giả, bảo đảm quyền con người theo pháp luật TTHS
là sự bảo đảm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị
can, bị cáo được thực hiện trên thực tế một cách đầy đủ và hợp pháp các
quyền được đề cập trong các quy định của BLTTHS. Điều này đảm bảo
cho hoạt động tố tụng hình sự phù hợp với các nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng hình sự hiện nay.
Với những nhận thức trên, theo tác giả, khái niệm bảo đảm quyền con
người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được phát biểu như sau:
Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là sự

12


bảo đảm cho người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử được thực hiện trên
thực tế một cách đầy đủ và hợp pháp các quyền được đề cập trong các quy
định của BLTTHS bởi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

và các cơ quan khác được pháp luật quy định.
1.2. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm hình sự
1.2.1. Các quyền con người, quyền công dân của bị cáo trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
BLTTHS 2003, ghi nhận các nguyên tắc về bảo đảm quyền con người
nói chung và bảo đảm quyền của bị cáo nói riêng, như: Tôn trọng và bảo vệ
các quyền cơ bản của công dân (Điều 4); Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật (Điều 5); Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân
thể của công dân (Điều 6); Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an
toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân; Bảo hộ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (Điều 7); Bảo đảm quyền
bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của
công dân (Điều 8); Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của òa
án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9); Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11); Bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án [43].
Điều 31 Hiến pháp 2013 [42], quy định những nguyên tắc bảo đảm các
quyền con người, quyền công dân trong đó có các quyền của bị cáo trong lĩnh
vực hình sự, tố tụng hình sự nhằm bảo vệ con người trước vòng xoáy tố tụng
hình sự mà các cơ quan bảo vệ pháp luật đại diện cho Nhà nước thực hiện khi
có tội phạm xảy ra. Cụ thể: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật; Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp
thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai; Trường hợp xét xử kín
theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai; Không ai bị kết

13


án hai lần vì một tội phạm; Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa;

Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý
theo pháp luật.
Dựa trên những quy định của Hiến pháp 2013 [45], Bộ luật TTHS 2015
có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 [43], đã bổ sung các nguyên tắc cơ bản của tố
tụng hình sự nhằm bảo đảm toàn diện hơn quyền con người, quyền công dân.
Như bổ sung nguyên tắc “suy đoán vô tội” (Điều 13); Nguyên tắc “bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự” (Điều 16); nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm” (Điều 26); nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm;
nguyên tắc công dân Việt Nam không bị trục xuất, giao nộp cho cơ quan nhà
nước khác; nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong TTHS. Bộ luật TTHS 2015
[43], quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất hiện sớm hơn, kể từ
thời điểm một người bị bắt (Điều 58);
Các quy định của bộ luật hướng đến bảo đảm các nhóm quyền cơ bản
của con người, tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng; Chỉ được áp dụng các biện pháp tố tụng trong trường
hợp thật sự cần thiết và theo đúng quy định của pháp luật.
Đảm bảo cho quyền công dân của bị cáo, Điều 12 BLTTHS 2003 quy
định về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
quy định: Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật
và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình; Người làm

14


trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi

hành án thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đảm bảo cho sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, Điều 14
BLTTHS 2003 quy định: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều
tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh
án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án không được
tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người giám định không được tham
gia tố tụng, nếu có lý do để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực
hiện nhiệm vụ của mình.
Điều 63 BLHS 2003 quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ
án hình sự
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Toà án phải chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không,
thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người
thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng
lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình
tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và
những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra.
Điều 85 BLTTHS 2015, đã bổ sung thêm những vấn đề phải chứng
minh trong vụ án hình sự: “…Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những
tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt”,
để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự và tạo sự công bằng cho người bị
buộc tội. Song song với việc thu thập tài liệu chứng cứ liên quan đến việc
buộc tội thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải thu thập
tài liệu chứng cứ liên quan đến việc gỡ tội để tránh oan sai.

15



Trong các giai đoạn tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng phải tuân thủ nguyên tắc quy định tại pháp luật như “Tôn trọng
và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân” và “Bảo đảm quyền bình đẳng của
mọi công dân trước pháp luật”. Kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện
pháp ngăn chặn nếu xét thấy không còn cần thiết phải áp dụng.
1.2.2. Các quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định tại
khoản 2 Điều 50 BLTTHS 2003 với 10 quyền. Quá trình thực hiện BLTTHS
2003 và qua thực tế khắc phục khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện,
BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm 3 quyền đối với bị cáo, quy định tại khoản 2
Điều 64, cụ thể:
- Quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng,
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án,
quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác. Như vậy, trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử bị cáo được nhận tất cả các quyết định tố tụng liên quan trực
tiếp đến quyền, nghĩa vụ của bị cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được
giao cho bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước khi xét xử. Việc nhận các văn bản
tố tụng đảm bảo cho bị cáo có sự chuẩn bị về tinh thần tốt cũng như tài liệu
chứng cứ để tham gia phiên tòa, thực hiện quyền bào chữa của mình. Để đảm
bảo quyền này của bị cáo, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
phải thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm của mình về việc cấp, tống đạt văn
bản tố tụng cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
- Quyền tham gia phiên tòa, với quy định này thì bị cáo phải tham gia
phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án, nếu vắng mặt không có lý do chính
đáng thì bị áp giải, nếu vắng mặt có lý do thì phải hoãn phiên tòa, nếu bị cáo
bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác thì HĐXX tạm đình chỉ vụ án
cho đến khi bị cáo khỏi bệnh. Tuy nhiên, trong trường hợp sự vắng mặt của bị

16



cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ thì
tòa án có thể xét xử vắng mặt họ.
- Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ: trách nhiệm của người
tiến hành tố tụng khi làm việc với người bị buộc tội trong các giai đoạn tố
tụng là phải giải thích cho họ về quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Tại phiên
tòa, chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo trong thủ
tục bắt đầu phiên tòa. Việc đảm bảo quyền này của bị cáo có ý nghĩa rất lớn
trong việc đảm bảo quyền con người của bị cáo; giúp họ hiểu rõ quyền và
nghĩa vụ của mình để thực hiện cũng như cũng như góp phần nhanh chóng
kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án.
- Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch: trong quá trình tham gia tố tụng, nếu có căn cứ cho rằng
người tiến hành tố tụng người giám định, người phiên dịch không vô tư trong
quá trình giải quyết vụ án thì bị cáo có quyền đề nghị thay đổi. Quyền này thể
hiện sự công bằng, bình đẳng trong TTHS.
- Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu: BLTTHS 1988 quy định, bị
cáo có quyền đưa ra “chứng cứ và những yêu cầu”, khắc phục khó khăn cho
bị báo về việc xác định thế nào là “chứng cứ” để đưa ra và giao nộp cho cơ
quan tiến hành tố tụng, BLTTHS 2003 quy định mở rộng hơn mang tính hoàn
thiện và phù hợp với thực tế.
- Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa: quyền bào chữa
là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS, bị cáo khi thực hiện quyền
này sẽ đưa ra căn cứ để gỡ tội cho bản thân hoặc nhờ người bào chữa cho
mình nếu không thể tự mình bào chữa. Người bào chữa phải là người có đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa: Bị cáo khi thực hiện
quyền này sẽ đưa ra tài liệu, đồ vật, quan điểm của mình để tranh luận lại với

17



lời luận tội của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố. Quan điểm tranh
luận của bị cáo sẽ được HĐXX xem xét khi nghị án.
- Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án: Trước khi HĐXX vào nghị
án, bị có được quyền nói lời sau cùng, bị cáo được trình bày về những vấn đề
mà họ cho là cần thiết nhất đối với mình để hội đồng xét xử xem xét khi nghị
án. Khi bị cáo nói lời sau cùng, HĐXX không được hạn chế thời gian trình
bày của bị cáo nhưng có quyền yêu cầu bị cáo không nói lại chi tiết những
vấn đề đã được xét hỏi và những vấn đề không liên quan đến vụ án. Trường
hợp, sau phần xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, bị cáo thấy chưa trình bày
hết nội dung vụ án mà khi được nói lời sau cùng bị cáo mới trình bày thêm
những tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án thì HĐXX quyết định
trở lại việc xét hỏi, sau đó lại tranh luận về những vấn đề mới được xét hỏi.
- Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án: Khi HĐXX tuyên
án, xét thấy bản án đã tuyên không đúng với hành vi phạm tội của bị cáo, mức
hình phạt đã tuyên nặng so với hành vi phạm tội theo quy định … thì bị cáo
có quyền kháng cáo toàn bộ hay một phần bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tòa án tuyên án đối với trường hợp bị cáo có mặt tại phiên tòa hoặc trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án đối với trường hợp bị cáo vắng
mặt tại phiên tòa. Quy định này đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho bị cáo,
hạn chế oan sai.
- Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt
Nam rất rộng, thường xuyên hoàn thiện thông qua việc sửa đổi, bổ sụng Bộ
luật, văn bản hướng dẫn thi hành, nên việc cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng không phải lúc nào cũng áp dụng pháp luật chính xác, tuyệt
đối. Chính vì vậy, khi thực hiện quyền này, bị cáo có thể khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng lên các


18


chủ thể có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật, để đảm bảo
quyền lợi ích hợp pháp cho bị cáo và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện
nghiêm chỉnh, thống nhất.
Khoản 2 Điều 64 BLTTHS 2015, bổ sung một số quyền mới của bị cáo
như sau:
- Quyền được “Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan
và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Khi
tiến hành xét xử công khai, các chứng cứ, tài liệu, đồ vật được thu thập được
đưa ra để tiến hành kiểm tra, đánh giá công khai tại phiên tòa. Bị cáo được
quyền trình bày về chứng cứ, tài liệu này để xác định các chứng cứ, tài liệu,
đồ vật đó có căn cứ chứng minh trong vụ án hình sự không. Căn cứ buộc tội
hay gỡ tội, có ý nghĩa đánh giá là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS hay
không và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án.
- Quyền được “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải
đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Phải
đối mặt với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, không phải bị
cáo nào cũng giữ được thái độ bình tĩnh và tư duy sáng suốt để trả lời những
câu hỏi của HĐXX, quyền này đảm bảo được quyền “im lặng” của bị cáo khi
thấy có lý do gì đó mà không thể trả lời ngay câu hỏi của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến nhành tố tụng.
- Quyền “Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham
gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa”. Thực hiện
quyền này thể hiện tính chủ động cho bị cáo, giúp bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của mình được tốt hơn, việc hỏi cũng như đối chất trực tiếp tại phiên tòa
sẽ là căn cứ quan trọng làm cho việc xét xử được khách quan, toàn diện.
- Quyền được “Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ
sung vào biên bản phiên tòa”. Đảm bảo sự khách quan, công bằng trong tố


19


tụng hình sự, hạn chế đến mức thấp nhất việc ghi chép lại quá trình diễn ra tại
phiên tòa có sai sót.
- Bị cáo còn có “Các quyền khác theo quy định của pháp luật”. Những
quyền này sẽ được thể hiện rõ sau khi các văn bản hướng dẫn thi hành và các
luật nội dung khác có liên quan.
1.2.3 Nội dung bảo đảm các quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ
thẩm hình sự
Chương V Hiến pháp năm 2013 có quy định [45] “Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” và “Người bị buộc tội được coi là không
có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết
tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” đã toàn diện hơn so với quy định tại
Điều 72 Hiến pháp năm 1992 “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 2 Điều 20, điều kiện của việc
hạn chế quyền con người “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa
án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ
trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”. Đây
có thể coi là nội dung quan trọng để đảm bảo quyền công dân của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự được đảm bảo tốt hơn kể từ thời điểm Hiến
pháp năm 2013 có hiệu lực và là cơ sở để xây dựng BLTTHS, BLHS và các
đạo luật khác.
Không chỉ dừng lại ở đó, Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ các nội
dung quyền công dân gắn liền với bị cáo khi tham gia quá trình xét xử như:
- Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác.


20


×