Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh hải dương (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.68 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ HUYÊN

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội

Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐINH THỊ MAI

Phản biện 1: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ
Phản biện 2: PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học Viện Khoa học Xã hội vào lúc: ...... giờ, ngày......
tháng.... năm 2017


Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viên học viện khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người gắn chặt với hoạt động xã hội và các mối
quan hệ xã hội. Chính vì thế, quyền con người luôn được quy định và
bảo đảm thực hiện trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Tuyên ngôn
độc lập của Mỹ năm 1776 đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều sinh
ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền
được tự do và mưu cầu hạnh phúc”.
Thực tế, trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
của TAND, một số người tiến hành tố tụng chưa thực sự quan tâm
đến quyền của bị cáo, đặc biệt là đối với những bị cáo phạm tội xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người
hay các tội phạm về ma túy… Một số người cho rằng cần phải trừng
trị nghiêm khắc và có thái độ kỳ thị đối với những bị cáo phạm loại
tội này. Vì vậy, quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử
còn có lúc chưa được đảm bảo.
Tỉnh Hải Dương nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng sông
Hồng, thuộc tam giác kinh tế trọng điểm, là điểm chung chuyển giữa
thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải Phòng, là địa bàn có nhiều khu
công nghiệp, thu hút lao động từ nước ngoài và các tỉnh trên địa bàn
cả nước. Chính vì vậy, tình hình tội phạm ở Hải Dương diễn biến
phức tạp, người phạm tội đến từ nhiều nơi khác nhau. Trước yêu cầu
của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ
thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự, tác giả chọn đề tài: “Bảo đảm quyền con

người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh

1


Hải Dương” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Luật hình sự và tố
tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề này nhiều công trình đã được công bố
có nội dung đề cập đến vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự nói chung, và bảo đảm quyền con người của bị cáo
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng. Cụ thể có nhiều công
trình, bài tham luận như: GS.TS. Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích
Khiêm, Quyền con người trong thế giới hiện đại; Đỗ Trung Hiếu,
Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay;
Nguyễn Văn Vĩnh, Triết học chính trị về quyền con người; GS.TS.
Trần Ngọc Đường, Quyền con người, quyền công dân trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; TS. Tường Duy Kiên,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm
quyền con người; PGS. TS. Đinh Văn Mậu, Chuyên khảo “Quyền lực
Nhà nước và quyền con người”…
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng,
cũng như những tri thức về nhân thân người phạm tội trong các công
trình nghiên cứu mà mình tiếp cận được, tác giải sẽ vận dụng đi sâu
nghiên cứu về việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hải Dương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là phân tích chỉ rõ những kết quả
cũng như hạn chế, bất cập trong bảo đảm quyền của bị cáo trong giai

đoạn xét xử sơ thẩm của TAND tỉnh Hải Dương từ đó đưa ra những
giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm VAHS.
2


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền
của bị cáo, bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, đánh giá pháp luật tố tụng
hình sự về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét
xử sơ thẩm của Việt Nam nói chung và thực tế trên địa bàn tỉnh Hải
Dương nói riêng, để rút ra những khó khăn, vướng mắc của pháp luật
hiện hành và tìm ra nguyên nhân khắc phục những bất cập đó.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử
sơ vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan tới quyền con người, quyền của bị cáo, bảo đảm quyền
con người của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi
không gian trên lãnh thổ tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi tòa án: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi các tòa
án cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi hoạt động xét xử của tòa án: trong phạm vi hoạt

động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
- Phạm vi thời gian: trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến
năm 2016.
3


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở lấy quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật XHCN và
quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần
củng cố nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ cho những người
tiến hành tố tụng (Thẩm phán, HTND, KSV, Luật sư, Thư ký), trong
việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự, góp phần hoàn thiện về nghiên cứu lý luận
và nghiên cứu thực tiễn đối với các quy định liên quan đến bảo đảm
quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm. Đồng thời, kết
quả nghiên cứu được đề cập trong luận văn này sẽ là một trong
những tài liệu khoa học hữu ích cho việc giảng dạy, học tập, nghiên
cứu pháp luật liên quan. Đối với các cơ quan nhà nước, luận văn có
thể là tài liệu tham khảo có giá trị trong quá trình xây dựng, áp dụng
và thực hiện pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 03 Chương:
Chương 1. Khái quát chung về bảo đảm quyền con người của
bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hải Dương
Chương 3. Các giải pháp bảo đảm quyền con người của bị

cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

4


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người
của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1

Khái niệm quyền con người
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì Quyền con

người là tổng hợp các quyền và các tự do cơ bản để đánh giá về địa
vị pháp lý của cá nhân. Nhưng có ý kiến cho rằng “Quyền con người
là những đặc quyền (nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có
của con người) được thừa nhận và bảo hộ bằng luật quốc tế và pháp
luật quốc gia. Quyền con người là quyền của tất cả mọi người [15, tr
27].
Ban bố những quyền của dân, cho dân:
a) Nhân quyền;
b) Tài sản (quyền sở hữu);
c) Dân quyền: Quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân
chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại),
dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền.
1.1.2

Khái niệm bị cáo

Khái niệm bị cáo tiếp tục được mở rộng để phù hợp với xu

hướng phát triển, hội nhập quốc tế của thời đại. Chính vì vậy
BLTTHS 2015 ra đời quy định chi tiết, đầy đủ, rõ nét hơn về bị cáo.
Khoản 1 Điều 61 BLTTHS 2015 quy định: Bị cáo là người hoặc
pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ
của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
5


1.1.3

Khái niệm bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự
Với những nhận thức trên, theo tác giả, khái niệm bảo đảm
quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được
phát biểu như sau:
Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự là sự bảo đảm cho người đã bị Tòa án quyết định đưa ra
xét xử được thực hiện trên thực tế một cách đầy đủ và hợp pháp các
quyền được đề cập trong các quy định của BLTTHS bởi các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các cơ quan khác được
pháp luật quy định.
1.2. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm
hình sự
1.2.1. Các quyền con người, quyền công dân của bị cáo trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
Điều 85 BLTTHS 2015, đã bổ sung thêm những vấn đề phải

chứng minh trong vụ án hình sự: “…Nguyên nhân và điều kiện
phạm tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt”, để giảm nhẹ một phần trách nhiệm
hình sự và tạo sự công bằng cho người bị buộc tội. Song song với
việc thu thập tài liệu chứng cứ liên quan đến việc buộc tội thì cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải thu thập tài liệu chứng
cứ liên quan đến việc gỡ tội để tránh oan sai.
1.2.2.

Các quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự
- Quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết
định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định
6


đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng
khác. Như vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bị cáo được nhận tất
cả các quyết định tố tụng liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của
bị cáo.
- Quyền tham gia phiên tòa, với quy định này thì bị cáo phải
tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án, nếu vắng mặt
không có lý do chính đáng thì bị áp giải, nếu vắng mặt có lý do thì
phải hoãn phiên tòa, nếu bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm
nghèo khác thì HĐXX tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi
bệnh.
- Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ: trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng khi làm việc với người bị buộc tôi trong
các giai đoạn tố tụng là phải giải thích cho họ về quyền và nghĩa vụ

pháp lý của họ. Tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền
và nghĩa vụ cho bị cáo trong thủ tục bắt đầu phiên tòa.
- Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch: trong quá trình tham gia tố tụng, nếu có
căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng người giám định, người
phiên dịch không vô tư trong quá trình giải quyết vụ án thì bị cáo có
quyền đề nghị thay đổi. Quyền này thể hiện sự công bằng, bình đẳng
trong TTHS.
- Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu: BLTTHS 1988 quy
định, bị cáo có quyền đưa ra “chứng cứ và những yêu cầu”, khắc
phục khó khăn cho bị báo về việc xác định thế nào là “chứng cứ” để
đưa ra và giao nộp cho cơ quan tiến hành tố tụng, BLTTHS 2003 quy
định mở rộng hơn mang tính hoàn thiện và phù hợp với thực tế.
- Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa: quyền
bào chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS, bị cáo khi
7


thực hiện quyền này sẽ đưa ra căn cứ để gỡ tội cho bản thân hoặc nhờ
người bào chữa cho mình nếu không thể tự mình bào chữa. Người
bào chữa phải là người có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa: Bị cáo khi
thực hiện quyền này sẽ đưa ra tài liệu, đồ vật, quan điểm của mình để
tranh luận lại với lời luận tội của Kiểm sát viên khi thực hành quyền
công tố. Quan điểm tranh luận của bị cáo sẽ được HĐXX xem xét khi
nghị án.
- Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án: Trước khi
HĐXX vào nghị án, bị có được quyền nói lời sau cùng, bị cáo được
trình bày về những vấn đề mà họ cho là cần thiết nhất đối với mình
để hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

- Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án: Khi
HĐXX tuyên án, xét thấy bản án đã tuyên không đúng với hành vi
phạm tội của bị cáo, mức hình phạt đã tuyên nặng so với hành vi
phạm tội theo quy định …
- Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật Việt Nam rất rộng, thường xuyên hoàn thiện thông qua việc
sửa đổi, bổ sụng Bộ luật, văn bản hướng dẫn thi hành, nên việc cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không phải lúc nào
cũng áp dụng pháp luật chính xác, tuyệt đối.
1.2.3

Nội dung bảo đảm các quyền con người của bị cáo trong

xét xử sơ thẩm hình sự
Chương V Hiến pháp năm 2013 có quy định “Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” và
8


“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật” đã toàn diện hơn so với quy định tại Điều 72 Hiến
pháp năm 1992 “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
1.2.4.

Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong xét


xử sơ thẩm hình sự
1.2.4.1. Bảo đảm về pháp lý
- Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý cao nhất trong hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam.
- Tiếp đến là cơ sở pháp lý chuyên ngành: Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003; Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày
05/11/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba
"Xét xử sơ thẩm" của BLTTHS 2003. Kể từ ngày 01/01/2018, Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 sẽ có hiệu lực, là cơ sở pháp lý thay
thế cho BLTTHS 2003.
1.2.4.1. Bảo đảm về mặt tổ chức
1.2.4.2. Bảo đảm về mặt nhận thức
Kết luận chương 1
Xét xử sơ thẩm vụ án là giai đoạn cuối cùng trong quá trình
giải quyết vụ án. Trong giai đoạn này, hoạt động tố tụng để đưa ra
chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội cơ bản là của Viện kiểm sát
nhân dân và Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn này, bị cáo đã và đang
bị áp dụng một biện pháp ngăn chặn, có thể là cấm đi khỏi nơi cư trú,
tạm giam, hạn chế một phần quyền tự do của con người. Sau khi bị
kết án, tư cách tham gia tố tụng của bị cáo thành bị án, có thể tiếp tục
bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam, hay được trả tự do tại
phiên tòa, hoặc có thể đợi ngày bản án có hiệu lực pháp luật thì đi
9


chấp hành án, vì vậy bị cáo là chủ thể có nguy cơ dễ bị xâm hại về
quyền con người. Cùng với quá trình phát triển và hội nhập, Việt
Nam đã có những công cụ pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền của
bị cáo trong xét xử sơ thẩm được quy định tại Hiến pháp năm 2013,

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật tổ chức TAND 2014, Luật tổ
chức Viện KSND 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ
CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG
2.1. Tổng quan thực trạng xét xử sơ thẩm hình sự trên địa bàn
tỉnh Hải Dương
Trong tổng số 1687 bị cáo bị xét xử sơ thẩm, Tòa án hai cấp
đã tuyên Miễn trách nhiệm hình sự 41 bị cáo, phạt tiền 112 bị cáo,
cải tạo không giam giữ 168 bị cáo, cho hưởng án treo 323 bị cáo (chủ
yếu tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và trộm cắp tái sản ít nghiêm
trọng), tù dưới 3 năm 847 bị cáo, tù từ 3 năm đến dưới 7 năm 116
bị cáo, tù từ 7 năm đến dưới 15 năm 60 bị cáo, tù từ 15 năm đến 20
năm 12 bị cáo, phạt tù chung thân 07 bị cáo; Tổng hợp hình phạt tù
trên 20 năm 01 bị cáo và hình phạt bổ sung là phạt tiền 137 trường
hợp.
Tình hình xét xử các vụ án hình sự tại Hải Dương cho thấy
tình hình tội phạm chủ yếu tập trung vào các loại tội phạm về ma túy;
tội Trộm cắp tài sản; Cướp tài sản; tội Đánh bạc; Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản; tội Cố ý gây thương tích; Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ ... Có một số ít là tội phạm công
10


nghệ cao, chiếm đoạt tài sản qua mạng; Tội phạm về tham nhũng,
kinh tế chức vụ.
2.2. Thực trạng thực hiện quyền con người của bị cáo trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các tòa án trên địa bàn tỉnh Hải
Dương

2.2.1.

Những kết quả đạt được
- Tòa án nhân dân hai cấp của tòa án nhân dân tỉnh Hải

Dương chấp hành nghiêm túc các quy định của Nhà nước về đảm
bảo quyền cơ bản của bị cáo.
- Để đảm bảo sự tranh tụng giữa bên buộc tội, gỡ tội, 100%
phòng xử án trên địa bàn tỉnh Hải Dương được bố trí theo mô hình
cải cách tư pháp thể hiện sự trang nghiêm, an toàn, bảo đảm sự bình
đẳng giữa người thực hành quyền công tố và luật sư, người bào chữa.
- Bảo đảm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng.
- Bảo đảm đầy đủ các quyền của bị cáo như: tham gia phiên
tòa; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa…
- Thành phần HĐXX tuân thủ theo đúng quy định của pháp
luật. Các nguyên tắc cơ bản theo quy định của BLTTHS được bảo
đảm thực hiện.
- Cơ chế giám sát hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự được chú
trọng. Giám sát của HĐND, Mặt trận tổ quốc, đối với hoạt động tư
pháp được hiểu là giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về
hình sự, tố tụng hình sự … giám sát hoạt động của Công an, TAND,
VKSND cùng cấp trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án …
11


2.2.2.


Những khó khăn, vướng mắc
- BLTTHS hiện hành không quy định cụ thể thời gian nghị

án là bao lâu, dẫn tới có trường hợp HĐXX tiến hành nghị án kéo
dài, trong khi tài liệu, chứng cứ không có gì mới.
- Hội thẩm nhân dân chưa được quan tâm tập huấn khi có sửa
đổi, bổ sung về BLTTHS, BLHS và các văn bản khác có liên quan.
- Hoạt động giám sát của HĐND cùng cấp: Thông qua hoạt
động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp có nội dung liên quan đến
hoạt động tư pháp. Nội dung chất vấn tập trung vào những vấn đề
lớn, nổi cộm, bức xúc được dư luận xã hội quan tâm.
- Hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc cùng cấp về bảo
vệ quyền con người của bị cáo: Đảng và Nhà nước Việt Nam có cơ
chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản
biện xã hội”.
2.3. Thực trạng các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con người
của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các tòa án trên
địa bàn tỉnh Hải Dương
2.3.1

Cơ sở pháp lý và triển khai hướng dẫn pháp luật về thực

hiện quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự
* Cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ quyền con người của
bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự:
- BLTTHS 2003 đang có hiệu lực; BLTTHS 2015 sửa đổi bổ
sung có hiệu lực từng phần theo hướng có lợi cho người bị buộc tội,
đến ngày 01/01/2018 sẽ có hiệu lực toàn bộ.


12


- Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định chung"
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003;
- Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ ba "Xét xử sơ thẩm" của Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003.
- Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc
hội;
- Luật Bồi thường Nhà nước;
- Luật Khiếu nại, Tố cáo;
2.3.2

Yếu tố về mặt tổ chức, cơ chế thực hiện quyền con người

của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luật tổ chức Tòa án nhân dân, và Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 2014 có hiệu lực, có thay đổi về tổ chức như: Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức gồm 4 cấp theo thẩm
quyền xét xử.
Điều 3 Luật tổ chức TAND 2014 quy định về Tổ chức tòa án
nhân dân:
“Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án
quân sự”.
2.3.3.Yếu tố về mặt nhận thức, năng lực thực hiện của chủ thể

thực hiện quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự thể hiện qua các quy định về trách nhiệm của người tiến hành
tố tụng.
13


Điều 12 BLTTHS 2003 quy định về trách nhiệm của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: “trong quá trình tiến hành
tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải
nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu
trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình; Người làm trái
pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”; Điều 14 quy định về “Bảo
đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố
tụng”; Điều 19 quy định về “Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa
án”; Điều 39, 40 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định
của mình”.
Kết luận chương 2
Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự là việc Nhà nước ghi nhận bằng pháp luật các quyền của bị
cáo. Đồng thời thông qua hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
để bị cáo được tiếp cận và có điều kiện thực hiện các quyền của họ
theo quy định. Hiện nay, tình hình diễn biến về tội phạm trên địa bàn
tỉnh Hải Dương có xu hướng tăng và có tính chất phức tạp. BLTTHS

2015 sửa đổi có hiệu lực ngày 01/01/2018, tạo cơ chế mới đảm bảo
tốt hơn về quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm.

14


Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Định hướng và quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm
quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Việt Nam đang hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN, của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là tập trung,
thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Năm 1945, ngay từ khi ra đời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, nhà nước ta đã đề cao quyền con người. Bản Tuyên ngôn Độc
lập ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản
tuyên ngôn còn khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
3.2. Giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật, cơ chế bảo đảm
thực hiện và hướng dẫn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền
con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
* Hoàn thiện pháp luật:

Hoàn thiện pháp luật nói chung và hoàn thiện pháp luật tố
tụng hình sự nói riêng về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
15


xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phù hợp với quy chuẩn quốc tế về
quyền con người.
Hiến pháp 2013 đã tiếp tục hiến định quyền của người bị
buộc tội, cùng với những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan tiến hành tố tụng khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Trên cơ sở
Hiến định, BLTTHS 2015 đã cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản, các
quyền và nghĩa vụ của bị cáo, quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Để
hoàn thiện chính sách, pháp luật, bảo đảm quyền con người của bị
cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Nhà nước cần ban hành kịp
thời các văn bản hướng dẫn áp dụng BLTTHS 2015, để đến ngày
01/01/2018, BLTTHS 2015 có hiệu lực pháp luật sẽ được áp dụng
mà không gặp vướng mắc, như:
- Điểm đ, khoản 2, Điều 61 BLTTHS 2015 quy định, bị cáo
có quyền “đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Tuy nhiên,
Điều 86 quy định về chứng cứ “Chứng cứ là những gì có thật, được
thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định...”. Như vậy,
cần hướng dẫn cụ thể để bị cáo thực hiện quyền đưa ra chứng cứ, tài
liệu thế nào để đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo pháp luật quy
định.
- Điểm i, khoản 2 Điều 60 BLTTHS 2015 quy định bị can có
quyền: “Đọc, ghi chép bản sáo tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên
quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan
đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu”. Tuy
nhiên, Điều 61 BLTTHS 2015, không quy định về quyền của bị cáo

trong việc tiếp cận tài liệu chứng cứ mới phát sinh trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử. Cần quy định thêm quyền này của bị cáo cho đầy đủ
để đảm bảo quyền tranh tụng của bị cáo trong xét xử.
16


- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa quy
định về quyền của người bào chữa của bị cáo trong Hiến pháp năm
2013 và chế định bào chữa trong BLTTHS 2015.
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa chế
định về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong BLTTHS
2015 nhằm bảo đảm quyền của bị cáo.
- Đổi mới thủ tục hành chính tư pháp nhằm đảm bảo công
khai minh bạch trong các hoạt động của Tòa án, tạo điều kiện thuận
lợi cho bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thực hiện các quyền
của mình. Cần quy định rõ các chế tài cụ thể đối với việc làm trở
ngại, gây khó khăn cho luật sư khi cấp giấy chứng nhận bào chữa.
Quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của luật sư khi gặp bị caó trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm, cơ chế bảo đảm cho việc luật sư tiếp cận bị cáo.
Thủ tục hành chính tư pháp công khai, minh bạch nhanh chóng góp
phần đẩy nhanh tiến độ giải quyết án, tạo môi trường bình đẳng trong
hoạt động tố tụng.
- Cải tiến phương thức chỉ đạo, điều hành của Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân theo hướng phân công công việc và xác
định rõ trách nhiệm của Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký, lãnh đạo
của hai ngành Tòa án và Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ
án và chỉ đạo điều hành.
- Hoàn thiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành
Tòa án nhân dân, và Viện kiểm sát nhân dân trong thực hiện nhiệm
vụ giải quyết, xét xử các loại vụ án hình sự.

Trên cơ sở rà soát hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành
trong tất cả các lĩnh vực có liên quan đến quyền con người của công
dân, để tổng hợp, nghiên cứu và chọn lọc các quyền con người của bị
cáo chưa được quy định trong BLTTHS 2015 để tiếp tục hoàn thiện.
17


* Hoàn thiện cơ chế:
- Nâng cao vai trò của Quốc hội và HĐND các cấp: Tăng
cường cơ chế Quốc hội, HĐND các cấp về việc giám sát hoạt động tố
tụng của các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng, nhằm bảo đảm
quyền con người của người bị buộc tội.
Nghiên cứu thành lập cơ quan bảo vệ nhân quyền để giải
quyết các vấn đề về nhân quyền đang tồn tại cần được quan tâm của
đất nước.
3.3. Giải pháp đối với thực tiễn xét xử sơ thẩm hình sự trên địa
bàn tỉnh Hải Dương
Thứ nhất, Triển khai kịp thời các Nghị quyết của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về công tác tư pháp và cải cách tư pháp trong
đó nhấn mạnh Tòa án là trung tâm trong quá trình xét xử, bảo đảm
các nội dung liên quan tới quyền con người của bị cáo trong các vụ
án hình sự.
Thứ hai, nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự,
đảm bảo các phán quyết của Tòa án đúng người, đúng tội, đúng quy
định của pháp luật, không kết án oan người vô tội, hoặc bỏ lọt tội
phạm. Chú trọng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo tính
khách quan, và bảo đảm cho quyền con người của bị cáo được thực
hiện. Hiến pháp Việt Nam đã ghi nhận: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị
truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về
vật chất và phục hồi danh dự”. Bộ luật dân sự cũng quy định “Cơ

quan nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cán bộ của
mình quản lý gây ra trong khi thi hành công vụ”.
Thứ ba, tiếp tục triển khai Chỉ thị 03-CT/TW ngày
14/5/2011 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh kết hợp cuộc vận động “nâng cao
18


phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ thẩm
phán, cán bộ, công chức ngành tòa án nhân dân”, gắn với phong trào
thi đua “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương chấm
“phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.
Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán của ngành
TAND.
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện đội ngũ Thẩm phán đủ về
số lượng, có năng lực, trình độ, bản lĩnh, đạo đức. Nhà nước có chính
sách ưu tiên về phụ cấp đối với Thẩm phán khi tiến hành tố tụng.
Nghiêm cấm và xử lý các hành vi cản trở, đe dọa, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của Thẩm phán.
+ Hoàn thiện quy trình về tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm
phán. Đối mới công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp.
Khuyến khích học tập nâng cao trình độ đáp ứng nhiệm vụ bảo đảm
quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
+ Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo chuyên
sâu về luật hình sự, TTHS, kỹ năng nghiệp vụ xét xử như: kỹ năng
nghiên cứu, phân tích, đánh giá, nghiên cứu, tổng hợp, kỹ năng tổ
chức điều khiển phiên tòa; kỹ năng xét hỏi… cho đội ngũ Thẩm
phán.
Thứ năm, nâng cao chất lượng HTND tham gia xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự.

+ Xây dựng tiêu chuẩn về Hội thẩm nhân dân phù hợp với
các cấp Tòa án.
+ Kịp thời tổ chứ các khóa bồi dưỡng về nghiệp vụ để nâng
cao trình độ chuyên môn, kỹ năng giải quyết vụ án hình sự sơ thẩm
bảo đảm việc xét xử và phán quyết khách quan, đúng quy định của
pháp luật và bảo đảm quyền của bị cáo.
19


+ Hàng năm, tổ chức Hội nghị tổng kết công tác xét xử của
HTND, qua đó đánh giá kết quả đã đạt được, kịp thời khắc phục khó
khăn vướng mắc trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Thứ sáu, Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Thứ bẩy, thực hiện việc ban hành quyết định đưa vụ án ra
xét xử, đảm bảo đủ thời gian để Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ, nắm
chắc nội dung vụ án trước khi tham gia xét xử, để đảm bảo theo
đúng tinh thần cải cách tư pháp, phát huy nguyên tắc độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật. HTND là thành phần bắt buộc trong Hội
đồng xét xử sơ thẩm hình sự, có tính quyết định đến phán quyết
của tòa án. Sự có mặt của HTND trong quá trình xét xử các vụ án
hình sự sơ thẩm thể hiện quyền giám sát của nhân dân trong hoạt
động tư pháp.
Thứ tám, tiếp tục đổi mới thủ tục hành chính tư pháp,
phân công, phân cấp hợp lý và xác định trách nhiệm cá nhân trong
các vụ việc vi phạm quyền con người của bị cáo hình sự trong các
phiên tòa sơ thẩm. Đảm bảo cán bộ tòa án Hà Nội thực hiện
nghiêm túc Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án
nhân dân.
Thứ chín, Tăng cường sự phối hợp của hệ thống Mặt trận

tổ quốc; Hội đồng nhân dân các cấp đối với TAND và VKSND
trong công tác giám sát hoạt động tư pháp để bảo đảm quyền của
bị cáo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự.
Tăng cường công tác giám sát của các cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội, của nhân dân đối với hoạt động xét xử của thẩm
phán. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức thành viên tập trung làm tốt công tác giám sát. Kịp
20


thời phát hiện những hạn chế, tồn tại trong hoạt động tư pháp, qua
đó kiến nghị để khắc phục, sửa chữa.
Kết luận chương 3
Những vấn đề lý luận chung được nghiên cứu ở chương 1,
trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng ở chương 2, cho phép tác giả
đưa ra những kiến nghị hoàn thiện những nguyên tắc cơ bản của tố
tụng hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả việc bảo đảm quyền
con người của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự.
Thực tiễn việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hải
Dương là cơ sở phản ánh trung thực việc áp dụng và thực thi pháp
luật bảo đảm quyền con người đối với bị cáo. BLTTHS 2015 đã bổ
sung quy định về quyền của bị cáo, bổ sung thêm các nguyên tắc có
lợi cho người bị buộc tội và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 BLTTHS
2015 sẽ hoàn thiện các quy định về quyền con người, quyền bị cáo
theo quy định của các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt
Nam là quốc gia thành viên. Những quy định mới của BLTTHS
2015, cũng cần được cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và các cơ quan giám sát kịp thời nghiên cứu thực hiện, tránh
những trường hợp hoạt động theo quy định của BLTTHS cũ.

Chính vì vậy, các giải pháp về hoàn thiện pháp luật, đổi mới
cơ chế là cần thiết. Đồng thời kịp thời nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ đối với những người tiến hành tố tụng. Và yếu tố quan
trọng tiếp theo là đảm bảo việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật,
nâng cao nhận thức hiểu biết của người dân đối với những quy định
của pháp luật.
21


KẾT LUẬN
1. Luận văn đã góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lí luận
chung về bảo đảm QCN trong TTHS, làm rõ khái niệm, đặc điểm của
người bị buộc tội.
2. Luận văn đã phân tích có hệ thống các quy định của
BLTTHS hiện hành về bảo đảm quyền của người bị buộc tội. Trên cơ
sở đánh giá thực tiễn việc áp dụng các quy định của pháp luật và bảo
đảm các quyền của người bị buộc tội, đã đưa ra những kết quả đạt
được trong quá trình người bị buộc tội tham gia vào quá trình TTHS.
Đồng thời nêu lên những hạn chế, bất cập còn tồn tại cũng như
những nguyên nhân đối với những hạn chế đã nêu ra.
3. Trên cơ sở nghiên cứu từ những bất cập và hạn chế còn
tồn tại, tôi mạnh dạn đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam, nâng cao hơn nữa hiệu
quả của việc thực hiện bảo đảm quyền của người bị buộc tội. Cùng
với việc hoàn thiện pháp luật, cũng cần thực hiện các giải pháp khác
nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
Để bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội,
BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, hệ thống
theo những nội dung cơ bản như sau: 1/ Hoàn thiện các quy định về

các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; 2/ Cần thực hiện các giải
pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng trong bảo đảm
quyền con người của người bị buộc tội. Trong số đó, các giải pháp
quan trọng là: nâng cao ý thức pháp luật, trình độ, năng lực, nhận
thức của người tiến hành tố tụng; tăng cường giải thích, hướng dẫn
áp dụng thống nhất pháp luật TTHS; nâng cao năng lực, vị thế của
đội ngũ luật sư; hoàn thiện chế độ trách nhiệm của cơ quan, người
22


tiến hành tố tụng đối với việc xâm phạm quyền con người trong
TTHS nói chung, của người bị buộc tội nói riêng; kiện toàn tổ chức
đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tư pháp.
Bảo đảm quyền con người của bị cáo còn được thể hiện
thông qua hoạt động của thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát
viên, thư ký tòa án khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ và người bào
chữa khi thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình ghi nhận, tôn
trọng và bảo đảm thực hiện các quyền của bị cáo.
BLTTHS 2015 có hiệu lực ngày 01/01/2018, đã bổ sung
nhiều quy định nhằm làm rõ các cơ chế để bảo đảm quyền con người
đối với bị cáo trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy
định mới đòi hỏi phải có thời gian để những người tiến hành tố tụng
như thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký, kiểm sát viên, kịp thời
nghiên cứu và áp dụng, hạn chế thấp nhất tình trạng nhận thức theo
pháp luật cũ. Đồng thời phải tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật
tới người dân bảo đảm cho người dân trong xã hội luôn sống và làm
việc theo pháp luật. Đảm bảo mọi người dân trong xã hội đều biết và
hiểu quy định “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, để bảo
đảm các quyền cho bị cáo trong quá trình xét xử vụ án hình sự.


23


×