Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Thực hành quyền công tố đối với tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.6 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ HỒNG PHƢƠNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
TỘI GIẾT NGƢỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ HỒNG PHƢƠNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
TỘI GIẾT NGƢỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG
Chuyên ngành

: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số

: 60.38.01.04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của tôi;
các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

Võ Hồng Phƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI .................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố đối với tội giết người ..........7
1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố đối với tội giết người .....17
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI
GIẾT NGƢỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG ........................................28
2.1. Đánh giá chung tình hình tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Tiền Giang ...28
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố đối với tội giết người tại Tiền Giang........30
2.3. Đánh giá kết quả, những hạn chế và nguyên nhân của hoạt động thực hành
quyền công tố đối với tội giết người ........................................................................51
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI ...............55

3.1. Yêu cầu của thực hành quyền công tố đối với tội giết người từ thực tiễn tại
Tiền Giang ................................................................................................................55
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố đối với tội giết người
từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang .....................................................................................57
KẾT LUẬN ................................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................74
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

- Bộ luật hình sự

BLTTHS

- Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

- Cơ quan điều tra

ĐTV

- Điều tra viên

KSHĐTP

- Kiểm sát hoạt động tư pháp


KSV

- Kiểm sát viên

HĐTP

- Hoạt động tư pháp

THQCT

- Thực hành quyền công tố

QCT

- Quyền công tố

VKS

- Viện kiểm sát

VKSND

- Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình thụ lý và giải quyết án giết người.
Bảng 2.2: Tình hình đội ngũ kiểm sát viên Viện KSND tỉnh Tiền Giang.
Bảng 2.3: Tình hình đội ngũ kiểm sát viên phòng Thực hành quyền công tố,

kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án tham nhũng, kinh tế, chức vụ và trật tự
xã hội (Phòng 2) - Viện KSND tỉnh Tiền Giang.
Bảng 2.4: Tình hình VKS phê chuẩn quyết định tố tụng về tội giết người.
Bảng 2.5: Tình hình VKS yêu cầu CQĐT khởi tố về tội giết người từ năm
2012 đến năm 2016.
Bảng 2.6: Tình hình VKS yêu cầu CQĐT khởi tố bị can trong vụ án về tội gây
rối trật tự công cộng, che giấu tội phạm... từ năm 2012 đến năm 2016.
Bảng 2.7: VKS yêu cầu CQĐT thay đổi tội danh từ tội Cố ý gây thương tích
sang tội Giết người.



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hành quyền công tố (THQCT) trong tố tụng hình sự là hoạt động quan
trọng, cơ bản của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), nhằm thực hiện một trong ba
chức năng của tố tụng hình sự: Chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng
xét xử.
Ở Việt Nam, chức năng THQCT của VKSND đã được ghi nhận trong các nghị
quyết của Đảng. Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, theo đó: “VKS các cấp thực hiện tốt
chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội. Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác” [3].
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020, trong đó có nội dung: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt

động của VKS theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố..." [4]. Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, đã xác định rõ: “Trước mắt, Viện kiếm sát nhân dân giữ nguyên
chức năng như hiện nay là THQCT (...), tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt
động điểu tra” [5].
Các đường lối của Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 2013 và Luật tổ
chức VKS nhân dân năm 2002, Luật tổ chức VKSND (sửa đổi, bổ sung năm 2014)
về đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của
VKSND trong tình hình mới.
Trong những năm qua, Tiền Giang đã đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Bên cạnh đó tình hình tội phạm cũng gia tăng, diễn
1


biến phức tạp, với tính chất phạm tội ngày càng nghiêm trọng hơn đặc biệt là tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người. Cùng với cả nước công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm ở Tiền Giang cũng đạt được kết quả đáng ghi nhận.
Bên cạnh những kết quả đạt được, từ thực tế giải quyết các vụ án về tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Tiền Giang nói chung và
tội giết người nói riêng, chúng tôi nhận thấy từng lúc, từng nơi các cơ quan tố tụng
có nhận thức pháp luật khác nhau, chưa có sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng
pháp luật khi giải quyết vụ án, vì giữa lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn có sự
khác nhau, đặc biệt là các quy định liên quan đến chức năng THQCT của VKS.
Ngoài ra một số KSV được phân công nhiệm vụ THQCT chưa nắm vững các quy
định của pháp luật, năng lực trình độ tổng hợp, phân tích, đánh giá chứng cứ còn
hạn chế, thiếu toàn diện dẫn đến hệ quả như: Việc định tội danh sai; Tòa án xét xử
khác tội danh, khung hình phạt VKS truy tố; Vụ án bị Tòa án cấp trên tuyên hủy án
điều tra lạicòn xảy ra… đã ảnh hưởng nhiều đến công tác đấu tranh, phòng chống
tội phạm trên địa bàn tỉnh thời gian qua. Vì vậy, việc nghiên cứu, làm rõ thực trạng,
qua đó đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác THQCT đối với tội

giết người trên địa bàn tỉnh Tiền Giang trong thời gian tới là một yêu cầu có tính
cấp bách, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Thực hành quyền công
tố đối với tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Tiền Giang” làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đề tài THQCT được nhiều nhà khoa học pháp lý cũng
như những người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Qua tìm hiểu, tác giả
nhận thấy các công trình nghiên cứu như:
- Sách chuyên khảo: THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra do tác giả Lê Hữu Thể làm chủ biên [16]. Quyển sách này chú trọng
nhiều đến hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự và so
sánh mô hình tố tụng với nhiều nước, chưa phân tích sâu về hoạt động THQCT.
2


- Sách chuyên khảo: Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp
của tác giả Nguyễn Hải Phong [11]. Cuốn sách chủ yếu đề cập đến giải pháp tăng
cường trách nhiệm công tố găn với hoạt động điều ra vụ án hình sư.
- Luận án tiến sĩ luật học: QCT ở Việt Nam của Lê Thị Tuyết Hoa [6]. Đây là
công trình nghiên cứu mang tính lý luận về QCT từ lịch sử phát triển đến thực trạng
THQCT ở Việt Nam qua các thời kỳ. Luận án tiến sĩ luật học: THQCT trong tố tụng
hình sự từ thực tiễn tỉnh Nghệ An của Tôn Thiện Phương [12] chủ yếu đề cập đến lý
luận về thực hành quyền công tố và khái quát thực trang THQCT trong vụ án nói
chung tại Nghệ An.
- Luận văn thạc sĩ: THQCT trong giai đoạn điều tra VAHS từ thực tiễn tỉnh
Kiên Giang của tác giả Huỳnh Minh Khởi [9]; THQCT trong giai đoạn điều tra
VAHS từ tiễn tỉnh Tây Ninh của tác giả Lê Quốc Cường [2];THQCT ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang của tác

giả Trần Thị Ngọc Thức. Những công trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến cơ
sở lý luận của QCT, THQCT hoặc chỉ nghiên cứu THQCT ở một giai đoạn tố tụng
nhất định như giai đoạn điều tra, giai đoạn xét xử vụ án hình sự, chưa nghiên cứu
THQCT suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự về một tội danh cụ thể.
Đề tài “Thực hành quyền công tố đối với tội giết người theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang” là đề tài nghiên cứu THQCT chuyên
sâu về một tội danh và suốt quá trình giải quyết vụ án. Dạng đề tài này được một số
tác giả nghiên cứu và các công trình khoa học đã được công bố như:
- Sách chuyên khảo: Cơ sở lý luận, thực trạng của điều tra và truy tố cáctội
phạm về ma túy của Nguyễn Thị Mai Nga [10].
- Luận văn thạc sĩ: THQCT đối với tội Buôn lậu từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh của tác giả Đỗ Thị Quí [13]. Luận văn thạc sĩ: Nguyên nhân, điều kiện của tội
giết người trên địa bàn tỉnh Tiền Giang của tác giả Trần Chí Tâm [18].
Các công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Mai, Đỗ Thị Quí mặc dù đã
đề cập đến THQCT về tội danh cụ thể nhưng lại nghiên cứu đối với vụ án buôn lậu,
3


ma túy. Trong khi đó luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Chí Tâm nghiên cứu về tội
Giết người trên địa bàn tỉnh Tiền Giang nhưng lại đánh giá tình hình, nguyên nhân
và giải pháp phòng ngừa đối với tội giết người, phục vụ cho công tác đấu tranh
phòng ngừa tội phạm, mà không đề cập đến chức năng, nhiệm vụ, cũng như chưa đi
sâu làm rõ về mặt lý luận của VKS về THQCT đối với tội giết người trong suốt quá
trình giải quyết vụ án từ khi tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố; trong giai đoạn điều tra; truy tố và xét xử.
Như vậy, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu thực hành quyền công tố
các vụ án hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu, khảo sát về thực trạng
thực hành quyền công tố đối với tội Giết người từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang trong
những năm vừa qua. Trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng, cũng như
những tri thức về thực hành quyền công tố các vụ án hình sự nói chung cũng như

các vụ án hình sự về một tội danh cụ thể, tác giả s vận dụng đi sâu nghiên cứu về
thực hành quyền công tố đối với tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về THQCT tội giết người theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam; đánh giá đúng thực trạng công tác THQCT đối với tội giết
người từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang, từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
THQCT tội giết người trong thời gian tới phù hợp với thực tiễn tỉnh Tiền Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã nêu trên, luận văn phải nghiên cứu những vấn
đề như sau:
- Nghiên cứu nhằm làm rõ một số vấn đề về lý luận và pháp luật vềTHQCT
đối với tội giết người;
- Nghiên cứu thực trạng của công tác THQCT đối với tội giết người trên địa
bàn tỉnh Tiền Giang từ năm 2012 đến 2016;

4


- Nghiên cứu và làm rõ nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong
hoạt động THQCT đối với tội giết người người trên địa bàn tỉnh Tiền Giang; từ đó
đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện đúng quy định
THQCT đối với tội giết người trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về THQCT, thực trạng áp dụng
những quy định về THQCT theo BLTTHS năm 2003 vào thực tiễn giải quyết đối
với tội giết người trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
Khi phân tích có đối chiếu, so sánh quy định của BLTTHS năm 2003 với

BLTTHS năm 2015 và chỉ ra những điểm mới, sửa đổi bổ sung đã được khắc phục
những quy định pháp luật cũ không phù hợp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ cho phép, luận văn chỉ nghiên cứu về lý luận, pháp luật THQCT và
thực tiễn công tác THQCT ở các giai đoạn giải quyết nguồn tin tội phạm; giai đoạn khởi tố,
điều tra; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với tội giết người theo quy định
BLTTHS năm 2003 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang trong 05 năm (từ năm 2012 đến năm
2016).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng về nhà nước và pháp luật nói chung và tổ chức, hoạt động của VKS nhân dân
nói riêng.
Để thực hiện các nội dung nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể
như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên
cứu.
6.Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài hy vọng góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn
đề lý luận cơ bản về THQCT;
5


Trên cơ sở khảo sát thực tế, đánh giá, phân tích thực trạng công tác THQCT
đối với tội giết người ở tỉnh Tiền Giang, luận văn tìm ra các giải pháp nâng cao chất
lượng THQCT đối với các VAHS nói chung và đối với các vụ án giết người nói
riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
học tập và nghiên cứu liên quan đến hoạt động THQCT cũng như đối với các nhà
hoạch định chính sách pháp luật và đặc biệt là cán bộ VKSND tỉnh Tiền Giang
trong công tác thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố đối
với tội giết người.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố đối với tội giết người từ thực
tiễn tỉnh Tiền Giang.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật về thực hành
quyền công tố đối với tội giết người.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố đối với tội giết
ngƣời
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, việc xác định Quyền công tố (QCT) và
theo đó là THQCT có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Điều này
giúp chúng ta nhận thức đầy đủ chính xác vị trí, vai trò của VKS trong hệ thống cơ
quan nhà nước nói chung và trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp nói riêng,
cũng như chức năng, nhiệm vụ của VKS đặc biệt là trong tố tụng hình sự. Tuy
nhiên vấn đề THQCT, đối tượng, phạm vi và nội dung của nó cũng như mối quan
hệ giữa chức năng THQCT và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự còn chưa rõ ràng.
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố đối với tội giết người
*Khái niệm quyền công tố
Công tố, theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là:“điều tra, truy tố, buộc tội kẻ
phạm pháp trước Tòa án ”[21, tr.204].Từ điển Luật học định nghĩa quyền công tố:
“là quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với người phạm tội”[1, tr.188].

Trong các tài liệu pháp lý của nước ta, hiện nay còn có nhiều ý kiến khác nhau
về khái niệm QCT và nội dung QCT: Một số nhà nghiên cứu tiếp cận khái niệm
QCT dưới góc độ rất rộng, có tác giả cho rằng, mọi hoạt động kiểm sát tuân theo
pháp luật đều là THQCT, coi công tố không phải là chức năng độc lập của VKSND,
mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo
pháp luật [19, tr.85-87]. Chúng tôi cho rằng quan điểm này là chưa chính xác vì đã
đồng nhất QCT với chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật (nay là KSHĐTP) của
VKS, không phân định hai chức năng cơ bản VKS mặc dù có mối quan hệ nhau
nhưng hoàn toàn độc lập nhau đó là THQCT và KSHĐTP.
Quan điểm khác cho rằng QCT là quyền của VKS khi xuất hiện các hành vi
vi phạm pháp luật và nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân. QCT
7


không chỉ xuất hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà là sự cáo buộc của Nhà nước
đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm pháp luật hành
chính, vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế và luật hình sự [24, tr. 82-88]. Theo quan
điểm này việc tiếp cận QCT dưới góc độ như trên là quá rộng, xóa nhòa ranh giới
và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác, đồng nhất QCT
với các quyền năng, nhiệm vụ khác của VKS.
Một số tác giả lại có xu hướng thu hẹp khái niệm QCT. Có quan điểm cho
rằng, QCT chỉ là việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà án, thực hiện sự buộc tội tại
phiên toà [25, tr.11]. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò duy nhất của VKS trong
việc thực hiện QCT trong tố tụng hình sự và chỉ được thực thi ở giai đoạn xét xử, là
chưa phù hợp thực tế, bởi l trên thực tế QCT còn được thực hiện trong suốt quá
trình giải quyết vụ án hình sự, ngay từ khi Cơ quan điều tra (CQĐT) tiếp nhận tin
báo, tố giác tội phạm.
Như vậy QCT chính là sự buộc tội của nhà nước, phát sinh khi có tội phạm tức hành vi nguy hiểm xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo
vệ xảy ra. Đó là quan hệ giữa một bên là nhà nước (bên có quyền lực và đứng ra
buộc tội) và người phạm tội (là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự). QCT chỉ

xuất hiện trong tố tụng hình sự, bởi nó gắn liền với chức năng buộc tội của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội, không có trong các hoạt động tố tụng khác như: Hành chính, dân sự…
Từ các phân tích nêu trên chúng tôi thống nhất cao với quan điểm cho rằng:
“Quyền công tố là một loại quyền lực nhà nước, do cơ quan có thẩm quyền (ở Việt
Nam là Viện kiểm sát) thực hiện, nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm
tội ra trước Toà án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà”. [12, tr.28].
*Khái niệm thực hành quyền công tố đối với tội giết người
Ở nước ta, từ Hiến pháp 1959 cho đến Hiến pháp 2013, VKS là thiết chế duy
nhất trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng THQCT. Để thực hiện chức năng
này có hiệu quả, VKS có quyền áp dụng các biện pháp luật định với mục đích cao
nhất là không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. QCT
8


chỉ là một dạng quyền năng, được cụ thể hóa trong các quy phạm pháp luật và chỉ
phát huy hiệu quả trong thực tiễn khi được triển khai thực hiện bởi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Để đảm bảo thực thi QCT trong thực tiễn, nhà nước ban hành
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về nhiệm vụ, quyền hạn mà cơ
quan nhà nước có thẩm quyền được phép áp dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người thực hiện hành vi phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó trước Tòa án.
Việc thực hiện quyền năng đó trong thực tiễn chính là THQCT.
Tiến sỹ Lê Hữu Thể đã đưa ra khái niệm về THQCT: “THQCT là việc sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT để thực hiện việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố
và xét xử” [17, tr.57].
Khái niệm THQCT nêu trên về cơ bản phù hợp quy định tại Điều 13 và 17
Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Điều 112 BLTTHS năm 2003; được quy định
mới nhất tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014: “THQCT là hoạt
động của VKS nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện buộc tội của Nhà nước

đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác tin báo về tội
phạm, kiến nghị khổi tố và trong suốt qua trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự” [15].
Tuy nhiên chúng tôi thấy rằng khái niệm THQCT của tác giả Lê Hữu Thể
chưa nêu ra yếu tố chủ thể THQCT là VKS nhân dân. Trong khi đó Điều 3 Luật tổ
chức VKSND năm 2014 quy định THQCT được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố… là chưa đầy đủ. Bởi l trên thực tế
hoạt động THQCT của VKS phát sinh không chỉ từ khi giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm và kiến nghị khởi tố mà trong các trường hợp khác như: khi người phạm
tội ra tự thú, hoặc khi cơ quan có thẩm quyền điều tra (Cơ quan điều tra, Cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) trực tiếp phát hiện người
phạm tội quả tang… và ra Quyết định tạm giữ người, khi đó VKS đã tham gia
THQCT, cụ thể: xem xét tính có căn cứ của quyết định tạm giữ hoặc phê chuẩn
quyết định gia hạn tạm giữ trong trường hợp này. Điều này phù hợp với quy định
9


tại Điều 159 BLTTHS năm 2015: VKSTHQCT từ khi cơ quan có thẩm quyền giải
quyết nguồn tin về tội phạm (chứ không phải giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố). Vì vậy tác giả luận văn cho rằng THQCT được thực hiện từ
khi Cơ quan có thẩm quyền điều tra (Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra) giải quyết nguồn tin về tội phạm là mang tính
chất toàn diện và đầy đủ nhất.
Từ những phân tích trên, đồng thời qua nghiên cứu những khái niệm về
THQCT và các quan điểm khác nhau cũng như quy định pháp luật hiện hành, tác
giả luận văn có thể đưa ra khái niệm THQCT như sau:“Thực hành quyền công tố là
hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi cơ quan có thẩm
quyền điều tra (Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra) giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
Con người với tư cách là thực thể của tự nhiên và xã hội, luôn là đối tượng
được quan tâm và bảo vệ hàng đầu trong mọi nhà nước, đặc biệt là ở các nhà nước
hiện đại thì vấn đề con người càng được quan tâm, xã hội càng phát triển thì việc
bảo vệ con người và các lợi ích của con người càng được chú trọng [7].
Tính mạng của con người là giá trị cao nhất của con người. Quyền được sống,
được tôn trọng vào bảo vệ là quyền cơ bản, hàng đầu của con người, của công
dân.Hiến pháp nước ta quy định mọi người có quyền sống. Tính mạng của con
người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật (Điều
19 Hiến pháp năm 2013).
Tội giết người (Điều 93 BLHS năm 1999, Điều 123 BLHS năm 2015) được
hiểu là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác bằng mọi hình
thức. Tội phạm này xâm trực tiếp đến quyền được sống của con người. Đối tượng
tác động của tội phạm là con người đang sống đang tồn tại trong thế giới khách
quan với tư cách là thực thể tự nhiên và xã hội. Mặt khách quan của tội phạm giết
người được thể hiện ở hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác
10


bằng mọi hình thức, bằng các công cụ, phương tiện khác nhau. Hậu quả của tội giết
người là gây ra cái chết (dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm), nếu hành vi
tước đoạt tính mạng của người khác được thực hiện nhưng vì những nguyên nhân
khách quan khác nhau mà hậu quả chết người không xảy ra thì hành vi đó được coi
là giết người chưa đạt. Chủ thể của tội phạm giết người là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do pháp luật quy định.Tội phạm được thực hiện với lỗi
cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp với động cơ và mục đích khác nhau
nhưng đây không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm [31, tr.60-61].
Như vậy, có thể khái niệm tội phạm giết người là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999 (Điều 123 BLHS năm 2015)
do người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý xâm

phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người khác được Hiến pháp và
pháp luật hình sự ghi nhận, bảo vệ.
Từ các phân tích nêu trên tác giả luận văn mạnh dạn đưa ra khái niệm THQCT
đối với tội giết người như sau:
“Thực hành quyền công tố đối với tội giết người là hoạt động của VKS trong
tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Điều 93 của BLHS 1999 (Điều 123
BLHS năm 2015), xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của
người khác; được thực hiện từ khi cơ quan có thẩm quyền điều tra giải quyết nguồn
tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án; nhằm
đảm bảo không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”.
1.1.2.Đặc điểm của thực hành quyền công tố đối với tội giết người
Từ khái niệm trên chúng ta có thể đưa ra những đặc điểm chung, cơ bản của
THQCT đối với tội giết người như sau:
Thứ nhất, THQCT trong đối với tội giết người chỉ do VKS tiến hành. Dưới góc độ
chức năng của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì THQCT là chức năng mà
nhà nước chỉ giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng duy nhất là
VKS.Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác không có chức năng này.
11


Cơ sở lý luận là những nguyên lý của V.I. Lênin về pháp chế xã hội chủ nghĩa và
vai trò của VKS, về vai trò và bổn phận của ủy viên công tố; cơ sở pháp lý được
đưa ra là các quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKS từ năm 1959 đến nay,
thì chức năng THQCT được giao cho cơ quan VKS [8, tr 11].
Thứ hai, hoạt động THQCT đối với tội giết người chỉ tồn tại trong lĩnh vực
TTHS, là hoạt động thực hiện quyền truy cứu TNHS đối với người phạm tội, quyết
định việc buộc tội và gỡ tội, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn... đối với
người phạm tội, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án, không có trong lĩnh vực kiểm sát hoạt động tư pháp.

Thứ ba, như đã phân tích QCT chỉ là một dạng quyền năng và được cụ thể hóa
trong các quy phạm pháp luật. Để thực hiện có hiệu quả chức năng THQCT phải do
Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND và BLTTHS quy định, VKS được sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT được quy định trong BLTTHS,
Luật tổ chức VKSND, BLHS... để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội giết người. Vì vậy THQCT đối với tội giết người không chỉ áp dụng pháp luật
đối với người phạm tội mà còn tuân thủ đúng về trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định.
Nắm được đặc điểm này đòi hỏi mỗi KSV khi THQCT hiểu rằng bản thân
mình không chỉ áp dụng pháp luật buộc tội người khác mà còn phải tuân thủ pháp
luật khi thi hành nhiệm vụ.
Thứ tư, THQCT đối với tội giết người không chỉ thực hiện việc buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội mà còn không làm oan người vô tội. Như vậy
THQCT hướng tới mục đích nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội
phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm
và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn
chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Cơ sở pháp lý đặc điểm nêu trên được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức
VKSND và BLTTHS. Nghị quyết số 08-NQ/TW, về một số nhiệm vụ trọng tâm
12


công tác tư pháp trong thời gian tới nêu:“VKS các cấp thực hiện tốt chức năng
THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp… nhằm đảm
bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội” [3].
Nắm được đặc điểm này của THQCT đối với tội giết người có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong thực tiễn, giúp cho người tiến hành tố tụng, đặc biệt là KSV hiểu
rõ chức năng, bổn phận của mình, ngoài thu thập, đánh giá chứng cứ buộc tội còn
phải chú trọng đến những chứng cứ gở tội; đảm bảo đánh giá chứng cứ một cách

toàn diện, khách quan khi THQCT trong vụ án giết người để không để xảy ra oan,
sai hoặc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; bảo vệ quyền con người. Theo đó
THQCT không chỉ là thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội.
Thứ năm, trong số các vụ án hình sự mà VKS THQCT thì tội giết người là một
trong các tội có tính chất đặt biệt nghiêm trọng với mức án cao nhất là tử hình bởi l
nó xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người khác - một
trong những quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người. Giết người là tội
phạm mà người phạm tội thường sử dụng để thực hiện các tội phạm khác (Giết
người để cướp tài sản) hoặc giết người để che giấu tội phạm khác (Hiếp dâm xong
giết người). Dưới góc độ định tội danh, hậu quả chết người do hành vi phạm tội gây
ra, ngoài định tội danh theo Điều 93 BLHS còn phải xem xét, đối chiếu so sánh với
nhiều cấu thành tội phạm khác: Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng, giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh, cố ý gây thương tích
dẫn đến chết người…Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng và phức tạp nêu trên. Vì
vậy THQCT đối với tội giết người là một trong những hoạt động đòi hỏi Kiểm sát
viên phải có kỹ năng nghiệp vụ, trình độ và tiêu chuẩn nhất định mới đáp ứng
nhiệm vụ đặt ra.
1.1.3. Đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố đối với tội giết người
* Đối tượng của thực hành quyền công tố đối với tội giết người
Đối tượng của THQCT không phải mọi hành vi vi phạm pháp luật mà chỉ là
hành vi xâm phạm những quan hệ xã hội quan trọng, được nhà nước bảo vệ và được
quy định trong BLHS. THQCT chỉ tác động vào những hành vi xâm phạm quan hệ
13


pháp luật hình sự và người đã thực hiện hành vi đó. Vì vậy, đối tượng của THQCT
nói chunglà tội phạm và người phạm tội.
Đối tượng của THQCT đối với tội giết người là yếu tố mà THQCT tác động
tới nhằm thực hiện mục đích truy cứu TNHS và buộc tội những người có hành vi
xâm hại tính mạng con người nhằm làm triệt tiêu quyền được sống của người khác.

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về tội giết người, trách nhiệm chứng
minh tội phạm và người phạm tội thuộc trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến thành tố tụng. Những vấn đề cơ bản cần phải chứng minh như: Có
hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của
hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi,
lỗi vô ý hay cố ý, có năng lực TNHS hay không, mục đích, động cơ phạm tội;
những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng TNHS và những đặc điểm về nhân
thân; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Trong đó, làm rõ hai
vấn đề nhằm mục đích xác định có tội phạm hay không có tội phạm, ai là người
thực hiện hành vi phạm tội là đối tượng THQCT [9, tr.16 ].
* Phạm vi thực hành quyền công tố đối với tội giết người
Xác định đúng đắn phạm viTHQCT có ý nghĩa quan trọng để nâng cao hiệu
quả hoạt động này, nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Hiện nay đề cập đến phạm vi THQCT có nhiều ý kiến khác nhau. Có quan
điểm cho rằng, THQCT bắt đầu từ khi có quyết định truy tố và kết thúc ở phiên tòa
sơ thẩm, không có ở giai đoạn điều tra. Quan điểm này đã thu hẹp phạm vi THQCT,
bởi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là cả một quá trình, bắt
đầu từ khi tội phạm xảy ra, mặt khác VKS còn phải thực hiện nhiệm vụ này trong
các phiên tòa phúc thẩm... Cũng có quan điểm khác cho rằng, THQCT bắt đầu từ
khi khởi tố vụ án và kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án. Xác định
phạm vi THQCT như trên vừa quá rộng, vừa không đầy đủ, vì THQCT không chỉ
xuất hiện từ khi khởi tố vụ án mà xuất hiện trước đó; tuy nhiên cũng không nên mở
rộng quá phạm vi THQCT đến khi người phạm tội thi hành xong bản án bởi vì ở
giai đoạn thi hành án không có việc điều tra, thu thập chứng cứ để buộc tội, không
14


có việc áp dụng pháp luật để kết tội.
Về nguyên tắc chung, khi có tội phạm giết người xảy ra và cơ quan chức năng
tiếp nhận thông tin về tội phạm thì xuất hiện QCT. Các hoạt động phê chuẩn hoặc

không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, huỷ bỏ
quyết định tạm giữ, huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án và yêu cầu khởi tố vụ
án... là hoạt động THQCT của VKS và có thể thực hiện trước khi khởi tố vụ án
hình sự. Như vậy, thời điểm bắt đầu của hoạt động THQCT xuất hiện từ trước khi
khởi tố vụ án. Tiếp đó, THQCT tiếp tục được thực hiện trong giai đoạn khởi tố,
điều tra, truy tố cho đến khi vụ án được xét xử và có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên,
không phải trong mọi trường hợp, phạm vi THQCT đều kéo dài đến giai đoạn xét
xử, có những căn cứ có thể làm chấm dứt việc THQCT như: không có sự việc
phạm tội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực TNHS,
đã hết thời hiệu truy cứu TNHS, đình chỉ vụ án... dẫn đến vấn đề triệt tiêu THQCT
ở giai đoạn tố tụng sớm hơn.
Trên thực tế hoạt động THQCT của VKS phát sinh không chỉ trong trường
hợp Cơ quan điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố mà
trong các trường hợp khác, như: khi người phạm tội ra tự thú, hoặc khi cơ quan có
thẩm quyền điều tra trực tiếp phát hiện người phạm tội quả tang (đây không phải là
tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố) và ra Quyết định tạm giữ người. Việc
VKS phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, huỷ bỏ quyết định tạm giữ trong
trường hợp này cũng thuộc nội dung THQCT. Vì vậy chúng tôi cho rằng thời điểm
bắt đầu THQCT từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết nguồn
tin về tội phạm là đầy đủ nhất (không phải chỉ trong trường hợp giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố).
Trên cơ sở phân tích như trên, chúng tôi cho rằng, phạm vi THQCT đối với tội
giết người bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết nguồn
tin về tội phạm và chấm dứt khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo,
kháng nghị, hoặc khi vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

15


1.1.4. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư

pháp trong quá trình giải quyết vụ án giết người
- Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm
2015, Luật tổ chức VKSND năm 2014, VKSND có hai chức năng là THQCT và
kiểm sát HĐTP. Như vậy, THQCT và Kiểm sát HĐTP trong quá trình giải quyết vụ
án giết người là hai chức năng độc lập của VKSND, có sự khác nhau nhất định,
đáng chú ý như sau:
+ Về mục đích: hoạt động THQCT là nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội và
người phạm tội giết người đều phải được phát hiện và xử lý. Trong khi đó, mục
đích của kiểm sát HĐTP là kịp thời phát hiện mọi vi phạm pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án giết người, có biện pháp xử lý kịp thời, nghiêm minh.
+ Về nội dung: Hoạt động THQCT đối với tội giết người là các hoạt động phê
chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền
trong tố tụng hình sự; Yêu cầu hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động tố tụng;
Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa; Kháng nghị bản án, quyết
định của Tòa án trong trường hợp VKS nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm,
người phạm tội. Trong khi đó, nội dung của kiểm sát HĐTP quá trình giải quyết vụ
án giết người thể hiện dạng như là yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm loại trừ vi
phạm pháp luật.
- Tuy nhiên giữa hoạt động THQCT và KSHĐTP trong quá trình giải quyết vụ
án giết người có mối quan hệ chặt ch , biện chứng với nhau, có tác dụng hỗ trợ cho
nhau. Xét góc độ chung nhất cả hoạt động THQCT và KSHĐTP có chung một mục
đích bao quát là nhằm bảo đảm cho hành vi phạm tội giết người được xử lý kịp thời,
việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Trong thực tiễn, hoạt động THQCT dựa trên kết quả của hoạt động kiểm sát
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Các quyết định như khởi tố vụ án, khởi tố
bị can; hủy quyết định khởi tố vụ án; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn; hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT
16



được củng cố thêm về sự chính xác và bảo đảm tính khách quan khi dựa trên kết
quả của hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật, tức là quá trình kiểm tra tính có căn
cứ và hợp pháp trong các tình tiết của vụ án để từ đó thực hiện các quyền năng
thuộc phạm vi QCT. Ngược lại, hoạt động THQCT chính là sự thể hiện quyền năng
của VKS trong tố tụng hình sự, là một trong những biện pháp để bảo đảm tính khả
thi trong hoạt động phát hiện và loại trừ vi phạm pháp luật như: khi phát hiện vi
phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, của người tiến hành tố tụng cố ý làm
sai lệch hồ sơ vụ án, bức cung, nhục hình…, VKS có thẩm quyền khởi tố, điều tra
và xử lý theo quy định pháp luật.
1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố đối với tội giết
ngƣời
1.2.1. Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố tội giết người
BLTTHS năm 2003 chỉ quy định chung về chức của VKS trong kiểm sát giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tại Điều 101, 103 BLTTHS
năm 2003 và hướng dẫn tại Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCABQP-BTC- BNN&PTNT-VKSNDTC của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài
chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, VKS nhân dân tối cao mà chưa quy
định rõ quyền năng cụ thể của VKS và cơ chế pháp lý để bảo đảm cho VKS thực
hiện tốt quyền năng đó. Chính vì vậy, Điều 12 Luật tổ chức VKS nhân dân năm
2014 và đặc biệt là tại các điều 145, 146, 147, 148, 150 BLTTHS năm 2015 đã có
nhiều sửa đổi quan trọng theo hướng quy định cụ thể hơn, chính thức ghi nhận hoạt
động THQCT trong giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi
tố; quy định rõ nội dung của THQCT trong giai đoạn này, cụ thể:
- Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện
pháp khác:
Theo quy định tại Điều 81, Điều 87 BLTTHS năm 2003, VKS có quyền quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, gia hạn tạm
giữ nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, bảo đảm người bị tình nghi
17



không bỏ trốn, cản trở quá trình xác minh tin báo hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Ngoài ra cần lưu ý là tại Điều 110, Điều 118 BLTTHS năm 2015, biện pháp
bắt khẩn cấp đã được thay thế bằng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Quy định này nhằm phù hợp với Điều 20 Hiến pháp 2013 "Không ai bị bắt nếu
không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS
nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang" [14]. Theo quy định tại BLTTHS
năm 2015, trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp
hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai và ra
quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho VKS cùng cấp hoặc
VKS có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê
chuẩn.
- Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ
quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố:
Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS năm 2003, trong quá trình thực hiện chức
năng THQCT, khi xét thấy quyết định tạm giữ không có căn cứ hoặc trái pháp luật,
VKS có quyền hủy bỏ quyết định tạm giữ và quyết định trả tự do ngay cho người bị
tạm giữ. Quyền năng này được giữ nguyên tại Điều 117 BLTTHS năm 2015; Điều
12, Điều 22 Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014. Đây là quyền năng quan trọng
của VKS nhằm bảo vệ quyền công dân, quyền con người theo Hiến pháp 2013.
Ngoài ra BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm một số quyền năng thuộc chức
năng THQCT của VKS trong giai đoạn này như: Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh
và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố thực hiện; Hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ trong trường hợp quyết định
tạm đình chỉ giải quyết tin báo không có căn cứ; Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật

nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS nhân dân đã yêu cầu nhưng
18


×