Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Quan điểm toàn diện về vấn đề kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.65 KB, 33 trang )

Tiểu luận triết học

Lời mở đầu
Trên góc độ kinh tế học, lạm phát là một thuật ngữ biểu hiện xu hướng
tăng lên của mức giá chung theo thời gian, có nhiều tiêu chí xác định tỷ lệ lạm
phát, nhưng thơng thường tỷ lệ lạm phát được xác định bằng phần trăm thay
đổi của mức giá theo chỉ số điều chỉnh GDP, và chỉ số giá tiêu dùng. Như
vậy, có thể thấy những yếu tố ảnh hưởng tới giá tiêu dùng và GDP đều là
những yếu tố gây ra sự biến động tỷ lệ lạm phát.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, ổn định
kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát không chỉ là vấn đề của một quốc gia mà
là vấn đề mang tính tồn cầu. Đối với Việt Nam, việc chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, đã đưa nền kinh tế
tiến sâu thêm một bước vào quá trình hội nhập kinh tế tồn cầu, vì thế những
biến động kinh tế vĩ mô trở thành một thách thức lớn đặt ra cho các nhà quản
lý kinh tế, và việc làm thế nào để đưa ra một con số chính xác về tỷ lệ lạm
phát là một cơng việc hết sức khó khăn.
Xuất phát từ những biến động chung của nền kinh tế trong thời gian qua, tôi
đã lựa chọn đề tài “Quan điểm toàn diện về vấn đề kiềm chế lạm phát trong
nền kinh tế Việt Nam hiện nay”. Tuy nhiên đề tài chỉ dừng lại nghiên cứu về
mối quan hệ giữa các nguyên nhân gây ra lạm phát và việc kiềm chế lạm phát
hiện nay, hay chính là việc sử dụng quan điểm toàn diện đề xem xét vấn đề
lạm phát trên góc độ triết học.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, nên đề tài còn nhiều hạn chế, rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cơ và các bạn để đề tài hoàn thiện hơn, hy
vọng đề tài này sẽ đóng góp một cách tiếp cận mới về vấn đề kiềm chế lạm
phát hiện nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS.Lê Ngọc Thông đã giúp đỡ tôi hoàn
thành đề tài này!

Phạm Thu Hương - CH 16J




Tiểu luận triết học

Chương I: Cơ sở lý luận về quan điểm toàn diện
và vấn đề lạm phát.
I. Phép biện chứng duy vật và quan điểm toàn diện.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
a.Khái niệm:
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng
đắn hiện thực. Hai nguyên lý khái quát nhất của phép biện chứng duy vật là
nguyên lý về mối liên hệ phổ biển và nguyên lý về sự phát triển. Trong đề tài
này chúng ta sẽ sử dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối
liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách
rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó?
Theo quan điểm biện chứng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau
vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau, và
mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình đó có được là nhờ tính
thống nhất vật chất của thế giới. Nhờ có tính thống nhất đó, nên chúng không
thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển
hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định, chính trên cơ sở đó, triết học duy
vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học, dùng để chỉ
sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng, hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình
thơng qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật
của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các


Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng
khác.
Như vậy, sự tồn tại, vận động và tác động qua lại lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng, các quá trình, chính là nội dung của ngun lý về mối liên hệ phổ
biến.
b. Các tính chất của mối liên hệ.
Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng không chỉ mang tính khách
quan, vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, mà cịn mang tính phổ biến, tính phổ
biến thể hiện:
Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện
tượng khác, khơng có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể,
tuỳ theo điều kiện nhất định, song, dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
Nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới cịn
thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó, dựa vào tính đá dạng đó có thể phân
chia thành các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên trong,
mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ
bản chất, mối liên hệ không bản chất…Mỗi cặp mối liên hệ có những đặc
trưng riêng, song, tùy theo những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các mối liên hệ
tưong ứng với chúng có thể giữ vai trị quyết định, vai trị quyết định đó phụ
thuộc và quan hệ hiện thực xác định.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại
mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xich của mối liên hệ
phổ biến, mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy
theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển

của chính các sự vật.
Sự phân chia thành các loại mối liên hệ cũng chỉ mang tính tương đối,
nhưng sự phân chia đó lại hết sức cần thiết, bởi mỗi loại mối liên hệ lại có vị
Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
trí và vai trị xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy con
người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó đề có cách tác động phù hợp
nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.
2. Quan điểm toàn diện.
Một nguyên tắc phương pháp luận quan trọng rút ra từ nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến đó là quan điểm tồn diện.
Quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối
liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và
trong sự tác động qua lại giữa những sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối
liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận
thức đúng về sự vật. Đồng thời, quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta phải
biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối
liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên…để hiểu rõ bản
chất sự vật, và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao
nhất trong hoạt động của bản thân, đương nhiên, trong nhận thức và hành
động, chúng ta cần lưu ý tới những sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên
hệ ở những điều kiện xác định.
Trong hoạt động thực tếm theo quan điểm tồn diện, khi tác động vào
sự vật, chúng ta khơng những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó
mà cịn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác,
tránh quan điểm phiến diện, chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã
vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của chúng, đồng thời,
chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp các phương tiện khác nhau

để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
II. Cơ sở lý luận về vấn đề lạm phát.
1. Một số khái niệm.
a. Lạm phát.

Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung của nền
kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trưòng hay sự
giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với nền kinh tế khác, lạm phát là sự
phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Như vậy, theo
nghĩa đầu tiên, người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền
kinh tế của một quốc gia, còn theo cách định nghĩa thứ hai, người ta hiểu là
lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu.
Ngược lại với lạm phát là giảm phát, một nền kinh tế có chỉ số lạm phát
bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ được gọi là sự ổn định giá cả.
b. Một số khái niệm liên quan.
Nhắc tới lạm phát, bất kỳ ai cũng nghĩ tới sự tăng lên của mức giá theo
thời gian, hay sự mất giá của đồng nội tệ, hay một cách hiểu thơng thường
nhất đó là giá cả và chi phí sinh hoạt tăng làm ảnh hưởng lớn đến đời sống
của đại đa số bộ phận dân cư, vậy theo nghĩa đó người dân có kỳ vọng vào bất
kỳ một tỷ lệ lạm phát nào không? Trước hết chúng ta cùng tìm hiểu một số
khái niệm liên quan tới sự tăng giảm giá trị đồng tiền.
Thiểu phát: là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp, một số tài liệu cho rằng, tỷ lệ
lạm phát 3-4%/năm trở xuống là thiểu phát, tuy nhiên ở một số nước như
Đức, Nhật thì con số này là hồn tồn trung bình. Một số đặc trưng xác định
thiểu phát đó là: ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời
họ lại đặt ra lãi suất huy động thấp, một tình trạng được coi là thị trường tiền

tệ trì trệ; sản xuất trở nên thiếu sôi động, lạm phát thấp khiến cho tiền cơng
thực tế cao, người lao động vì thế có thể giảm cung lao động, tăng thời gian
nghỉ ngơi, giá cả sản phẩm thấp làm giảm động lực sản xuất.
Lạm phát thấp: Mức độ lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3-7%
một năm.
Lạm phát cao (lạm phát phi mã): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ
tăng giá hai chữ số một năm nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát.

Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
Siêu lạm phát: là lạm phát mất kiểm sốt, một tình trạng giá cả tăng
nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị, chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên.
Các tiêu chí để xác định siêu lạm phát: người dân không muốn giữ tài sản của
mình ở dạng tiền; giá cả hàng hố trong nước khơng tính bằng nội tệ nữa mà
bằng một ngoại tệ ổn định; các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù
thời gian tín dụng là rất ngắn; lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số
giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100%.
2. Các phép đo chỉ số lạm phát.
Thông thường tỷ lệ lạm phát được xác định bằng chỉ số giá tiêu dùng,
hay chỉ số điều chỉnh GDP, tuy nhiên sự thay đổi trong giá cả của hàng hóa
được thể hiện thơng qua nhiều loại chỉ số giá.
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả
của một lượng lớn hàng hoá và dịch vụ trong một nền kinh tế, để đưa ra được
một mức giá cả trung bình, được gọi là mức giá trung bình của một tập hợp
các loại sản phẩm.
Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điềm hiện tại đối với
mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát
thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm của mức giá trung bình hiện tại so

vói mức giá trung bình ở thời điểm gốc.
Khơng tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị
của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa
trong chỉ số cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được
thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
Chỉ số giá sinh hoạt (CLI): là sự tăng lên trên lý thuyết giá cả sinh hoạt
của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng được giả
định một cách xấp xỉ.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi
“ngưịi tiêu dùng điển hình” một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia cơng
Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
nghiệp, những sự thay đổi theo phẩn trăm hàng năm trong các chỉ số này là
con số lạm phát thông thường được nhắc tới.
Chỉ số sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được khơng
tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự
trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được của
các nhà sản xuất khơng bằng với những gì mà ngưịi tiêu dùng đã thanh tốn.
Chỉ số giảm phát GDP, dựa trên việc tính toán tổng sản phẩm quốc nội,
là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế với tổng giá trị GDP năm gốc, từ đó
có thể xác định GPD của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực. Đây là
phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất.
3. Các nguyên nhân gây ra lạm phát.
Lạm phát được xác định thông qua nhiều loại chỉ số giá, mỗi loại chỉ số
giá lại được xác định theo các nhân tố ảnh hưởng khác nhau, vì thế có nhiều
ngun nhân gây ra lạm phát, dưới đây là một số nguyên nhân:
Lạm phát do cầu kéo: Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng
cung ở mức tồn dụng lao động thì sẽ sinh ra lạm phát.

Lạm phát do cầu thay đổi: Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi
trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có
người cung cấp độc quyền và giá cả có tính cứng nhắc phía dưới tức là chỉ có
thể tăng mà khơng giảm, thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn khơng tăng giá,
trong đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá, kết quả là mức giá chung
tăng lên, dẫn tới lạm phát.
Lạm phát do cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền cơng danh
nghĩa cho người lao động, ngành kinh doanh khơng hiệu quả, vì thế, không
thể tăng tiền công cho người lao động trong ngành của mình, nhưng để đảm
bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản
phẩm. Điều này là nguyên nhân gây ra lạm phát.

Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
Lạm phát do xuất khẩu: Xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn
tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khầu khiến lượng cung
sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu.
Lạm phát nảy sinh do mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu.
Lạm phát do nhập khẩu: sản phẩm không tự sản xuất trong nước mà
phải nhập khẩu, thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng, lạm phát hình
thành do mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
Lạm phát tiền tệ: Cung tiền tăng, khiến cho lượng tiền trong lưu thông
tăng lên, là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Lạm phát đẻ ra lạm phát: cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây
giá cả hàng hóa sẽ cịn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại, tổng cầu sẽ trở
nên cao hơn so với tổng cung, gây ra lạm phát.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát, tuy nhiên có
thể nhóm lại thành 3 nhóm nguyên nhân chính gây ra lạm phát: lạm phát do

cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy, và lạm phát do qn tính. Vì vậy, trong
phần tiếp theo của chun đề, chúng ta sẽ xem xét cụ thể vấn đề lạm phát trên
cơ sở 3 nguyên nhân chính này.
4. Các hiệu ứng do lạm phát gây ra.
a. Lạm phát dự kiến.
Trong trường hợp lạm phát có thể dự kiến trước thì các thực thể tham
gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra
những tổn thất cho xã hội.
Chi phí mịn giầy: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ
tiền, và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng vói tỷ lệ lạm phát, nên
lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay giảm cầu về tiề. Khi đó, họ cần
phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng
thuật ngữ “chi phí mịn giầy” đề chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện

Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với
khơng có lạm phát.
Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các
doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do
lạm phát doanh nghiệp này tăng giá, cịn doanh nghiệp khác lại khơng tăng
giá do khơng muốn phát sinh chi phí thực đơn, thì giá cả của doanh nghiệp
giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền
kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã
dẫn tới tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mơ.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái
với ý muốn của ngưòi làm luật, do một số luật thuế khơng tính đến ảnh hưởng

của lạm phát.
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm
thước đo trong tính tốn các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này
co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra quyết định của
mình.
b. Lạm phát khơng dự kiến.
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của
cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, các cam kết tín dụng
thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người
đi vay được hưởng lợi, còn người cho vay bị thiệt hại. Khi lạm phát thấp hơn
dự kiến, người cho vay sẽ được lợi, còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát
không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất
lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mơ của các tác
động tiêu cực của lạm phát, thậm chí cịn cho rằng tổn thất về lạm phát gây ra
là không đáng kể, điều này chỉ đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa
phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động tới xã hội của nó thông qua việc
Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn, và
do vậy, chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát
này.
Nhìn lại những đánh giá trên để thấy rằng tỷ lệ lạm phát ngày một tăng
cao trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề gây tổn thất lớn cho xã hội, tuy
nhiên khơng vì thế mà cho rằng lạm phát chỉ gây ra những tác động tiêu cực
cho xã hội, một tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ kích thích nền kinh tế phát triển,
giải quyết việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế, vì thế để nền
kinh tế tăng trưởng ổn định thì việc kiềm chế lạm phát cần đến một hệ giải

pháp đồng bộ và hiệu quả. Vì vậy trong các chương cịn lại chúng ta sẽ xem
xét sâu hơn về vấn đề nàyy.
5. Mối quan hệ giữa việc sử dụng quan điểm toàn diện trong nghiên cứu
các giải pháp kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay.
Như ta đã phân tích ở phần I, cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Trong phép biện chứng duy vật, mối liên
hệ phổ biến dùng để khái quát các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các
giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng. Cơ sở của nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó các sự vật,
hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng, có khác nhau thế nào đi chăng nữa
cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
Cũng trên cơ sở đó, quan điểm tồn diện địi hỏi muốn nhận thức được bản
chất của sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối
liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh
thể của sự vật, hiện tượng ấy với sự vật, hiện tượng khác.
Liên hệ với vấn để lạm phát hiện nay chúng ta thấy:
Trước hết, có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, mọi sự tác động tới tổng
cung, tổng cầu trong nền kinh tế vĩ mô đều có thể là ngun nhân dẫn tới lạm
phát, vì thế chúng ta cần sử dụng quan điểm toàn diện để xem xét đâu là
Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
nguyên nhân chính, chủ yếu đẩy tỷ lệ lạm phát lên cao vượt lên trên tốc độ
tăng trưởng.
Thứ hai, theo lý thuyết cổ điển lạm phát thuờng được coi là một hiện
tượng của tiền tệ, vì vậy chúng ta cần xem xét tác động của các chính sách
tiền tệ ảnh hưởng tới việc gia tăng lạm phát như thế nào.
Thứ ba, lạm phát hình thành do sự tác động đồng thời của nhiều yếu tố,
vì thế việc sử dụng quan điểm toàn diện để xem xét sự tác động qua lại giữa

các nguyên nhân gây ra lạm phát, từ đó mới có thể rút ra giải pháp hiệu quả
cho việc kiềm chế lạm phát.
Như vậy, tất cả các lý do trên đã giải thích mục đích của chuyên đề
này. Vì vậy, trong chương tiếp theo chúng ta sẽ đi tìm hiểu từng vấn để nêu
trên và các giải pháp đã và đang thực hiện cho việc kiềm chế lạm phát hiện
nay.

Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học

Chương II: Thực trạng về vấn để lạm phát trong thời gian qua.
Giai đoạn 2000-2008.
Trong những năm qua, nước ta đã đạt được một số chỉ tiêu về tốc độ
tăng trưởng kinh tế, và duy trì được một tỷ lệ lạm phát vừa phải, con số hợp lý
là tỷ lệ lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, trong thời gian qua,
chúng ta luôn được cập nhật một số thông tin về chỉ số giá tiêu dùng tăng đột
biến, đặc biệt là từ cuối năm 2007 đến nay, dẫn tới tỷ lệ lạm phát tăng cao.
Theo đánh giá của Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương (CIEM),
thì kịch bản xấu nhất cho con số lạm phát tới cuối năm 2008 là 22,3%, đây là
con số kỷ lục trong vòng 12 năm qua. Trong chương này, chúng ta cùng tìm
hiểu nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong giai đoạn vừa qua.
I. Thực trạng về vấn đề lạm phát do ảnh hưởng từ các nguyên nhân nội
tại.
1. Lạm phát do cầu.
a.Nguyên nhân.
Lạm phát do cầu, hay còn gọi là lạm phát do cầu kéo, xảy ra do tổng
cầu tăng, tổng cung không thay đổi, hay tổng cung tăng nhưng tăng chậm hơn
tổng cầu.

Tổng cầu tăng do một số nguyên nhân:
Do tăng chi tiêu của các hộ gia đình và tăng đầu tư của các doanh
nghiệp. Khi đó, có một lượng tiền lớn được tung ra cho việc mua hàng hóa và
dịch vụ, gây ra một lượng tiền dư ra trong lưu thông, khiến cho đồng tiền bị
mất giá.
Do tăng cán cân thương mại, khiến cho người nước ngồi tăng mua hàng
trong nước, cịn người trong nước giảm mua hàng nước ngoài.

Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
Do Chính phủ tăng chi tiêu và giảm thuế. Việc Chính phủ tăng chi tiêu
của mình cho hàng hóa và dịch vụ, lượng tiền mà Chính phủ chi mua hàng
hóa và dịch vụ sẽ trực tiếp đưa vào nền kinh tế, làm tăng tổng cầu. Nếu Chính
phủ giảm thuế hoặc tăng chi chuyển nhượng thì sẽ làm tăng thu nhập khả
dụng, từ đó làm tăng tiêu dùng của các hộ gia đình, tức là tăng cầu. Hiện nay,
một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát cao là việc tăng chi
tiêu của Chính phủ.
Do việc kiểm soát lượng cung tiền của ngân hàng trung ương cịn hạn
chế. Ngân hàng trung ương khơng kiểm sốt được lượng cung tiền hợp lý,
cung tiền tăng, làm tăng lãi suất, kích thích tăng đầu tư tư nhân, làm tăng cầu.
b. Thực trạng.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc
độ khá nhanh, khoảng 7%-8%/năm, nhưng chất lượng tăng trưởng kém. Hiện
nay nền kinh tế Việt Nam phát triển chủ yếu là theo chiều rộng, tức là tăng
cường khai thác tài nguyên, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nhằm tăng sản
lượng, chưa thực hiện được việc tăng sản lượng bằng việc nâng cao trình độ
sản xuất. Chi tiêu của Chính phủ cịn cao, trong đó một phần khơng nhỏ là
đầu tư cịn kém hiệu quả, thất thốt do tham ơ, tham nhũng, tiền chi ra nhiều

nhưng khơng thu lại được hàng hóa, khiến cho lượng cung tiền quá lớn gây ra
lạm phát.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát ngày một tăng cao:
năm 2004 là 9,4%, năm 2005 là 8,3%, năm 2006 là 7,5%, năm 2007 là 12,6%,
tính đến tháng 2 năm 2008 con số này là 15,7%, và theo dự báo tỷ lệ này cuối
năm 2008 là 19,4% thậm chí lên tới con số 22,3%.

Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
Biểu 1:Tốc độ tăng GDP và lạm phát

Tỷ lệ lạm phát&tốc độ tăng GDP

%

Bảng 1:

25
20

tốc độ
tăng GDP
và lạm

GPD(%)

15


Lạm phát (%)
10
5

phát

0
2004

2005

2006

Năm

2004

2005

GPD(%)

7.79

8.44

Lạm phát (%)

9.4

8.3


2007

2006

2008

Năm

2007

2008

8.17

8.48

7.2

7.5

12.6

19.4

Nguyên nhân của việc tỷ lệ lạm phát gia tăng phải kể đến việc gia tăng
chỉ số giá tiêu dùng, đặc biệt là trong quý I năm 2008, so với 3 tháng đầu năm
của các năm trước, và so với tháng 12 của năm trước.
Bảng 2: Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ các
năm trước và so với tháng 12 của các năm trước (100%)

Năm

CPI so với tháng trước

CPI so với tháng 12 năm

trước
tháng 1
tháng 2
tháng 3
tháng 1
tháng 2
tháng 3
2004
101.1
103.0
100.8
101.1
104.1
104.9
2005
101.1
102.5
100.1
101.1
103.6
103.7
2006
101.2
102.1

99.5
101.2
103.3
102.8
2007
101.05
102.17
99.78
101.5
103.24
103.02
2008
102.38
103.56
102.99
102.38
106.02
109.19
Như vậy so với tháng 12/2007, giá tiêu dùng của tháng 3 đầu năm nay

đã tăng 9,19%, trong đó nhóm hàng lương thực tăng 17,91%, thực phẩm tăng
13,8%; nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 8,01%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng
7,32%, các nhóm khác tăng phổ biến từ 0,6%-4,4%. Bình quân mỗi tháng
trong qúy I năm nay, giá tiêu dùng tăng ở mức 16,38% so với quý I năm
trước, trong đó hàng thực phẩm tăng 28,41%; lương thực tăng 21,53%; nhà ở,
Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
vật liệu xây dựng tăng 17,94%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 10,05%; các

nhóm hàng khác tăng phổ biến từ 2%-7%.
Do giá tiêu dùng tăng cao, đặc biệt là giá lương thực, thực phẩm và các
mặt hàng thiết yếu đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của toàn bộ dân cư,
mặc dù mức lương tối thiểu đã tăng 20% từ tháng 1/2008, nhưng do giá tiêu
dùng tăng mạnh nên tiền lương thực tế của người lao động gần như không
được cải thiện, sức mua giảm.
Về mặt chính sách, các chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương
còn kém phát huy hiệu quả. Cung ứng lượng tiền vượt quá mức đòi hỏi của
nền kinh tế. Chính sách tiền tệ mở rộng được phát huy trong thời gian dài,
khiến lượng cung tiền tăng cao, làm đồng tiền bị mất giá gây lạm phát. Theo
TS Lê Xuân Nghĩa (Vụ trưởng vụ chiến lược, Ngân hàng nhà nước Việt
Nam), thì nguyên nhân trực tiếp của lạm phát trong thời gian gần đây là do
lượng tiền trong lưu thông, đặc biệt là do tình hình thừa USD trong thị trường
tiền tệ Việt Nam gần đây, khiến Ngân hàng nhà nước phải dùng một lượng
lớn VNĐ để mua vào lượng dự trữ USD thừa ra, lượng tiền này được đưa vào
lưu thơng gây tăng cung tiền. Cụ thể, tính riêng tháng 6/2007 Ngân hàng nhà
nước đã bơm ra lưu thông 112.000 tỷ đồng để mua vào 7 tỷ USD, đây là một
con số không nhỏ tạo áp lực tăng tiền trong lưu thông.
Về cán cân thương mại, trong những năm gần đây, nhập khẩu của nước
ta đã tăng mạnh cả về quy mô tuyệt đối, và cả về tỷ lệ so với GDP. Năm 2000
là 15.636,5 triệu USD, bằng 50,1% GDP, thì năm 2007 đã tăng lên tới
62.682,2 triêu USD, bằng 88%GDP và tới năm 2008, mới qua 5 tháng, nhập
khẩu đã lên tới 37.817 triệu USD, tăng 67% so với cùng kỳ năm trước.
Do nhập khẩu tăng cao hơn xuất khẩu, nên nhập siêu trong những năm
gần đây tăng mạnh, nếu năm 2000 mới có 1.153,8 triệu USD bằng 8% tổng
kim ngạch xuất khẩu, và bằng 3,7%GDP thì năm 2007 đã lên tới 14.128,8
triệu USD, bằng 29,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, và bằng 19,8% GDP. Tính

Phạm Thu Hương - CH 16J



Tiểu luận triết học
đến tháng 5 năm 2008, nhập siêu đã lên tới 14.419 triệu USD, cao gấp 3,4 lần
so với cùng kỳ năm trước.
2. Lạm phát do cung.
a. Nguyên nhân.
Lạm phát do cung hay còn gọi là lạm phát do chi phí đẩy, xảy ra khi chi
phí sản xuất gia tăng hay năng lực quốc gia bị giảm sút, trong cả hai trường
hợp đều tạo ra áp lực tăng giá.
Chi phí sản xuất tăng có thể do một số nguyên nhân sau: do sự gia tăng
tiền lương danh nghĩa, tăng giá nguyên, nhiên vật liệu… Do chi phí sản xuất
tăng nên doanh nghiệp buộc phải tăng giá sản phẩm để đảm bảo lợi nhuận,
cuối cùng, thị trường cân bằng tại mức giá cao hơn ban đầu.
Năng lực sản xuất của một quốc gia giảm có thể do một số nguyên nhân: giảm
sút nguồn nhân lực, do sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, do sự biến động
chính trị, chiến tranh, thiên tai… do năng lực sản xuất suy giảm nên khả năng
đáp ứng nhu cầu giảm, gây khan hiếm hàng hóa và tăng giá cả.
b. Thực trạng.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2007 đến tháng 4/2008 đã tăng 21,4%,
nguyên nhân là do giá thực phẩm, giá nhà đất, giá dầu ngày càng tăng.
Nguyên nhân tăng giá của các mặt hàng này do chi phí nguyên vật liệu đầu
vào và chi phí sản xuất tăng cao, điều này làm cho tốc độ tăng sản xuất công
nghiệp quý I thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm trước mặc dù giá trị sản xuất
vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là ngành công nghiệp chế tạo và
công nghiệp chế biến, giá nguyên liệu đầu vào tăng đồng loạt ảnh hưởng đến
tính ổn định, đồng thời tiềm ẩn khả năng rủi ro cao trong sản xuất và tiêu thụ
của ngành công nghiệp. Hơn nữa, trong quý I hàng năm, thường là thời gian
các doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng, đối tác để ký kết các hợp đồng sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy giá nguyên vật liệu tăng cao và khó lường
đã làm cho cả sản xuất và khách hàng đều gặp khó khăn trong việc ký kết các

Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là các hợp đồng có giá trị
lớn, ổn định lâu dài.
Việc giá dầu trên thế giới tăng cao gây bất ổn cho thị trưòng trong
nước, đẩy giá xăng lên cao, ảnh hưởng tới hầu hết tới lĩnh vực sản xuất. Mặt
khác tình trạng thiếu điện, hay việc nới lỏng biên độ giao dịch với VNĐ, tăng
lãi suất và rút tiền tệ ra khỏi hệ thống ngân hàng khiến cho một số mặt hàng
như gas, than đá, xi măng…tăng cao, chưa kể đến một lượng tiền lớn được
đem sử dụng để bình ổn thị trường chứng khốn, hay tình hình cơn sốt ảo của
gạo trên thị trường dẫn tới việc CPI của nhóm hàng lương thực, thực phẩm
tăng lên.
Bên cạnh việc tăng giá tiêu dùng, một nguyên nhân gây ra lạm phát cao
đó là sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu do hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
thấp, hệ số ICOR cao hơn các nước trong khu vực. Thêm vào đó, việc bố trí
đầu tư phát triển chưa tập trung, mà còn phân tán, dàn trải, trên 13.400 cơng
trình, dự án, mới có khoảng 30% cơng trình được hồn thành, cịn lại 70%
cơng trình, dự án dở dang, kéo dài, vơ hình dung tiếp tay cho việc nợ đọng
vốn, lãng phí, thất thốt. Trong khi đó, việc đầu tư của các tập đồn, các tổng
công ty lại gặp phải hai vấn đề lớn: đầu tư tràn lan, không hiệu quả vào những
lĩnh vực không phải sở trưịng, nhiều rủi ro, khơng tập trung vào lợi thế so
sánh của họ do vậy không mang lại hiệu quả, bên cạnh đó việc thành lập ra
các ngân hàng, các cơng ty tài chính thuộc nội bộ của họ là một sai lầm về
mặt quản trị, bởi đầu tư sang lĩnh vực khác mới là hoạt động nhằm đem lại lợi
nhuận, còn việc đem tiền đầu tư vào lĩnh vực mà họ khơng có khả năng để
phục vụ cho chính hoạt động kinh doanh của mình đem lại rủi ro rất lớn.
Một nguyên nhân quan trọng nữa góp phần tăng tỷ lệ lạm phát, đó là
dịng vốn FDI, FII ồ ạt chảy vào Việt Nam trong thời gian qua (trong 7 tháng

đầu năm 2007 tương ứng là khoảng 7,5 tỷ USD, và 6,2 tỷ USD), khiến cho
Ngân hàng nhà nước phải đóng vai trị người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa
thêm tiền đồng vào lưu thông một lượng tương ứng, khiến cho cung tiền tăng,
Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
mặt khác đối với nền kinh tế mà nền kiểm sốt điều hành cịn yếu, thì lượng
vốn ồ ạt sẽ tăng áp lực tăng cung tiền đối với Ngân hàng nhà nước, nơi có khả
năng thanh khoản lớn nhất, vì thế đây cũng chính là ngun nhân gia tăng lạm
phát.
3. Lạm phát do quán tính.
a. Nguyên nhân.
Lạm phát do qn tính hay cịn gọi là lạm phát do dự kiến, là tỷ lệ lạm
phát hiện tại mà mọi người dự kiến nó sẽ tiếp tục trong tương lai. Tỷ lệ này
thường được đưa vào các hợp đồng kinh tế, các kế hoạch hay các thoả thuận
khác. Và chính vì mọi người đều đưa tỷ lệ lạm phát vào các hoạt động của
mình nên cuối cùng nó trở thành hiện thực. Một ví dụ cụ thể của hiện tượng
lạm phát do quán tính là khi nền kinh tế có lạm phát cao, mọi người có xu
hướng chỉ giữ lại một lượng tiền mặt tối thiểu để chi tiêu hàng ngày, họ đem
tiền đổi lấy các loại tiền mạnh khác, vàng hay các loại hàng hóa để tích trữ giá
trị, làm tăng lượng tiền lưu thông trên thị trường, càng làm đồng tiền mất giá
và tăng lạm phát.
b. Thực trạng.
Trong thời gian qua, việc biến động giá vàng, và giá USD trên thị
trường thế giới đã ảnh hưởng không ít tới tâm lý người dân. Tình trạng mua
bán vàng và ngoại tệ trong những tháng đầu năm 2008 trở nên sôi động khi
giá vàng tăng lên trên mức 1,8 triệu đồng/chỉ, thậm chí lên tới 1,9 triệu
đồng/chỉ. Trên thị trường tự do, giá USD chênh lệch so với tỷ giá của liên
ngân hàng khiến cho người dân đổ xô đi mua USD tạo nên cơn sốt USD trên

thị trường, điều này khiến cho đồng nội tệ dường như đang mất giá. Ngoài ra,
sự tụt dốc của thị trường chứng khoán, làm ảnh hưởng tới tâm lý người dân và
họ tin rằng tình hình tài chính đang bất ổn bất ổn.
II. Thực trạng về lạm phát do các nguyên nhân bên ngoài.
Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
1. Ảnh hưởng từ thiên tai, dịch bệnh.
Rét đậm, rét hại trong những tháng đầu năm 2008 ở 33 địa phương
thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và
duyên hải Nam Trung Bộ, đã gây thiệt hại đến hầu hết đến diện tích lúa đã
cấy, mạ đã gieo, rau màu, gia súc, gia cầm và diện tích ni trồng thủy sản.
Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai ước tính gần 700 tỷ đồng.
Cụ thể, do ảnh hưởng của rét đậm, rét hại, đã làm cho 127 nghìn con
trâu bị bị chết, bên cạnh đó dịch cúm gia cầm, lợn tai xanh. lở mồm long
móng ở gia súc xảy ra trên bình diện cả nước làm một trong những nguyên
nhân làm tăng giá mặt hàng lương thực, thực phẩm, khiến cho chỉ số CPI của
nhóm hàng này liên tục tăng trong quý I năm 2008.
2. Ảnh hưởng từ nền kinh tế thế giới.
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, Việt Nam đã và đang trên con đường
hội nhập, vì thế mọi biến động trong nền kinh tế thế giới cũng ít nhiều ảnh
hưởng tới nền kinh tế Việt Nam và vì thế lạm phát của Việt Nam tăng cao còn
do ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới.
Trước hết, tình hình giá nguyên liệu trên thế giới đang nóng lên với sự
tăng giá của dầu thô trên 100$ một thùng, ảnh hưởng mạnh tới tình hình kinh
tế Việt Nam, nhất là trong tình hình sản xuất cịn lãng phí nhiều ngun nhiên
vật liệu có nguồn gốc từ dầu mỏ, chưa có các nguyên nhiên vật liệu thay thế
như năng lượng mặt trời, sức gió, năng lượng hạt nhân…thì việc giá dầu tăng
gây ảnh hưởng đến hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất, điều này làm cho chi

phí sản xuất tăng cao và bắt đầu cho một cơn bão giá, tạo điều kiện cho lạm
phát tăng, ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, sự sụt giảm giá của đồng USD trên thế giới so với các đồng
tiền khác, trong khi đồng nội tệ của nhiều nước, nhất là những nước có buôn
bán lớn với Việt Nam đã điều chỉnh tăng giá so với USD, thì việc mất giá so
với USD, tuy có tạo thuận lợi cho xuất khẩu nhưng cũng làm cho tình trạng
Phạm Thu Hương - CH 16J


Tiểu luận triết học
nhập khẩu lạm phát bị khuyếch đại lên. Mặt khác trong những tháng đầu năm
2008, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh đồng Việt Nam lên giá so với USD,
nhưng do tác động phụ của việc tăng giá đồng nội tệ vào đúng thời điểm nhập
siêu tăng mạnh khiến cho giá USD trong tháng 5/2008 đã tăng lên, trên thị
trường tự do xuất hiện cơn sốt giá USD. Theo tính tốn của ngân hàng thế
giới, 1 USD tại Việt Nam, có sức mua tương đương với 3,4 USD tại Mỹ, điều
này giải thích rằng hàng nhập khẩu vào Việt Nam hiện nay bị đắt kép: vừa đắt
do đơn giá tình bằng USD tăng, trong khi giá USD lại đang giảm mạnh trên
thế giới, lại vừa đắt do giá đồng Việt Nam bị neo giữ vào đồng USD, và vừa
đắt do cánh kéo tỷ giá.
III. Những khó khăn trước mắt đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam.
Nhìn lại tác động của các chính sách quản lý kinh tế hiện nay của nước
ta để thấy những hạn chế trong q trình thực hiện chính sách, chính những
hạn chế này là nguyên nhân gây ra tỷ lệ lạm phát cao và khó kiểm sốt. Trước
hết tác động của lạm phát ảnh hưởng đến bộ phận lớn trong dân cư vì thế nếu
tỷ lệ lạm phát cao, đối tượng trực tiếp và chịu ành hưởng đầu tiên là những
đối tượng có thu nhập thấp và dân nghèo, bởi nó sói mòn tiền lương thực tế.
Thứ hai, hiện nay mục tiêu tăng trưỏng kinh tế phụ thuộc vào 3 nhóm
nhân tố chính: hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư của nhà nước và sự lớn mạnh
của khối kinh tế tư nhân. Hội nhập kinh tế quốc tế lại ảnh hưởng bởi nhập

khẩu, xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngồi, trong khi đó đồng USD lại
đang suy yếu trên toàn cầu, cán cân thương mại lại đang nghiêng về nhập
siêu, dòng vốn FDI, FII và lượng kiều hối chảy mạnh vào Việt Nam trong
những năm gần đây khiến Ngân hàng phải bỏ nhiều tiền ra mua USD gây nên
tăng cung tiền. Về động lực tăng trưởng kinh tế thông qua đầu tư của nhà
nước thì đây là một đặc thù của nền kinh tế Việt Nam bởi đầu tư nhà nước
ln giữ vị trí chi phối trong tổng đầu tư, khi có nhu cầu đầu tư lớn nhà nước
phải đối diện với một cám dỗ rất khó vượt qua đó là tài trợ đầu tư thơng qua
Phạm Thu Hương - CH 16J



×