Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình từ thực tiễn tỉnh Gia Lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH TUẤN ANH

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH TUẤN ANH

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI

Chuyên ngành

: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số


: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu, kết quả đề cập trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng
và chính xác.
Tác giả luận văn

TRỊNH TUẤN ANH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TẠM GIAM, VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

7


1.1. Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn tạm giam theo
quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam

7

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp
tạm giam

17

1.3. Những vấn đề lý luận về áp dụng biện pháp tạm giam đối với
người chưa thành niên phạm tội ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự

23

Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI TỈNH GIA LAI

30

2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp
ngăn chặn tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội

30

2.2. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành
niên phạm tội tại tỉnh Gia Lai


38

Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

57

3.1. Yêu cầu

57

3.2. Giải pháp

66

KẾT LUẬN

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

79


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:


Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

BPNC:

Biện pháp ngăn chặn

BPTG:

Biện pháp tạm giam

CQĐT:

Cơ quan điều tra

CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
CSND:

Cảnh sát nhân dân

TA:

Tịa án

THTT:


Tiến hành tố tụng

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tình hình tội phạm do người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn
tỉnh Gia Lai giai đoạn 2012- 2016

40

Bảng 2.2. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành
niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2012- 2016

45


Bảng 2.3. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành
niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2012-2016 theo
thủ tục pháp lý.

46


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với xu thế hội nhập và đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hố - xã hội mà trước hết là đổi mới về kinh tế. Đảng và Nhà nước ta
trong những năm qua đã chú trọng phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Đó là nhân tố làm biến đổi sâu sắc nền kinh tế
nước ta. Phát triển kinh tế thị trường đã khắc phục được những thiếu sót của thời kỳ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, mặt khác nó phát huy tối đa khả năng năng to
lớn, huy động có hiệu quả cao những tiềm năng vật chất, tinh thần của nhân dân, phát
huy nội lực, tạo ra sự phát triển đáp ứng các nhu cầu của cuộc sống.
Hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường với những mặt tích cực và tiêu
cực đang hàng ngày hàng giờ tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội, làm biến đổi
đời sống xã hội nói chung, Pháp luật nói riêng cũng đang chịu sự ảnh hưởng và chi
phối. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, các điều kiện về xã hội cũng chịu ảnh
hưởng và biến đổi sâu sắc. Một mặt đời sống xã hội ngày càng được cải thiện, mọi
người đều có cơ hội làm giàu và phát huy khả năng. Song, khoảng cách giữa người
giàu và người nghèo ngày càng cách biệt, sự phân tầng xã hội ngày càng rõ nét. Tình
hình xã hội diễn biến phức tạp, tội phạm có chiều hướng gia tăng về số vụ, tội phạm có
tổ chức ngày càng phổ biến và tinh vi, phức tạp, nhất là các tội phạm có tính chất chiếm
đoạt tài sản (Tội cướp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản…) các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con
người, các tội phạm về ma tuý… Đối tượng thực hiện tội phạm ngày càng đa dạng,
phức tạp về thành phần, nghề nghiệp, độ tuổi. Trong đó, tội phạm do người chưa thành

niên thực hiện ngày càng gia tăng, với tính chất và mức độ phạm tội ngày càng nguy
hiểm, sử dụng nhiều thủ đoạn phạm tội tinh vi.
Thời gian qua, trên địa bàn cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Gia Lai nói
riêng, tội phạm do người chưa thành niên thực hiện thường xuyên xảy ra, với tính
chất mức độ ngày càng nghiêm trọng và xảy ra ở hầu hết các huyện, thị xã, thành
phố trong tỉnh.

1


Trước tình hình đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra trên cả nước nói chung và Cơ
quan Cảnh sát điều tra Cơng an tỉnh Gia Lai nói riêng đã có nhiều cố gắng điều tra
triệt phá được nhiều tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Tuy nhiên, tỷ lệ
điều tra khám phá vụ án vẫn chưa được như chỉ tiêu đề ra, chưa đáp ứng kỳ vọng
của nhân dân, cùng với đó vẫn cịn tình trạng vi phạm thủ tục tố tụng, đặc biệt là
khi áp dụng biện pháp tạm giam.
Áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và áp dụng biện pháp tạm giam
nói riêng đối với người chưa thành niên phạm tội là hoạt động quan trọng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất
trong Tố tụng hình sự. Áp dụng biện pháp tạm giam khơng đúng quy định của pháp
luật Tố tụng hình sự sẽ trực tiếp xâm phạm tới các quyền cơ bản của Công dân được
ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật, ảnh hưởng tới uy tín của Cơ
quan Cảnh sát điều tra đồng thời ảnh hưởng tới kết quả giải quyết vụ án hình sự.
Vấn đề then chốt ở chỗ: Đây là loại đối tượng có nhân thân đặc biệt, nếu như khơng
có biện pháp tác động, xử lý linh hoạt phù hợp, mang tính giáo dục và nhân đạo,
chúng ta sẽ không những không giải quyết tốt được vụ án hình sự mà cịn khơng đạt
được mục đích giáo dục, cải tạo đối tượng này, khơng thực hiện được chính sách
hình sự nghiêm khắc nhưng đậm tính nhân đạo của Nhà nước.
Từ phân tích trên cho thấy, việc nghiên cứu, nâng cao nhận thức, hạn chế
những thiều sót, áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên

phạm tội đúng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Cơng an tỉnh Gia Lai là cần thiết. Vì
vậy tác giả đã chọn vấn đề “Áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa
thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình từ thực tiễn tỉnh Gia
Lai” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình khoa học, một số bài viết nghiên
cứu việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội nói riêng trong q trình giải quyết vụ
án hình sự.

2


- Tiến sỹ Nguyễn Vạn Ngun có cơng trình “Các biện pháp ngăn chặn và
những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng” (Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội, 1995);
- Nguyễn Mai Bộ có cơng trình “ Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997);
- Luận án tiến sỹ của Nguyễn Văn Điệp “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm
giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp”;
- Luận văn thạc sỹ của Trương Hồng Sơn “Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên phạm tội của cơ quan cảnh sát điều tra. Thực trạng và
giải pháp nâng cao hiệu quả”;
- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Thu Hoài “Các biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên phạm tội”
Ngồi ra cịn một số cơng trình khoa học, một số bài viết đăng trên các tạp
chí Cơng an nhân dân, tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân, tạp chí Kiểm
sát, tạp chí Tòa án nhân dân cũng đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên cho đến nay

vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với
người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn
tỉnh Gia Lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng áp dụng biện pháp tạm
giam đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
từ thực tiễn tỉnh Gia Lai trong giai đoạn từ 2012 đến 2016, phát hiện những khó
khăn vướng mắc, những thiếu sót trong việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với
người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn
tỉnh Gia Lai. Từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp
tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Gia Lai.

3


- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải
quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
+ Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn nói
chung và biện pháp tạm giam nói riêng theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, cũng như lý luận áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành
niên phạm tội ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
+ Phân tích, đánh giá quy định của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015
về biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội.
+ Làm rõ tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trong thời
gian qua trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Những yếu tố tác động và ảnh hưởng tới việc áp
dụng những biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội của cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai.
+ Khảo sát và đánh giá thực tiễn áp dụng những biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai.

Chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế thiếu sót, những vấn đề khó khăn,
vướng mắc khi áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội
cũng như những vấn đề sẽ phát sinh khi đối tượng phạm tội này ngày một gia tăng
trong giai đoạn hiện nay.
+ Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng về tình hình tội phạm ở người
chưa thành niên, thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam của cơ quan Cảnh sát điều
tra Công an tỉnh Gia Lai đối với đối tượng này. Đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo
đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về việc áp dụng biện
pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý
luận quy định của pháp luật TTHS và thực tiễn liên quan đến việc áp dụng biện
pháp tạm giam đối với đối tượng đặc thù là người chưa thành niên phạm tội.
- Phạm vi nghiên cứu:

4


+ Về nội dung: Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề áp dụng biện pháp tạm giam
đối với người chưa thành niên phạm tội ở giai đoạn điều tra của cơ quan Cảnh sát
điều tra.
+ Về không gian, thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng áp
dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh
Gia Lai từ năm 2012 – 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
về đấu tranh phịng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện nói riêng.

Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê và phương pháp khảo
sát ý kiến chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã góp phần làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về áp dụng
biện pháp ngăn chặn nói chung và áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng đối với
người chưa thành niên phạm tội.
Luận văn đã phân tích, làm rõ được thực trạng tình hình tội phạm do người
chưa thành niên thực hiện và những hạn chế thiếu sót đồng thời chỉ ra được nguyên
nhân, điều kiện của những hạn chế thiếu sót trong việc áp dụng biện pháp tạm giam
đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên
địa bàn tỉnh Gia Lai.
Luận văn đã đưa ra những yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy
định của pháp luật Tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở giai
đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu trong các
trường đại học, các Học viện, các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật. Kết quả nghiên
cứu của luận văn cịn góp phần trang bị những kiến thức chuyên sâu cho cán bộ làm

5


công tác thực tiễn đang công tác tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Cơng an tỉnh Gia Lai
nói riêng cũng như các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án nói chung trong q
trình áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội được
chính xác, khách quan, hiệu quả, đảm bảo quyền con người trong hoạt động tố tụng
hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn tạm giam, về áp
dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội ở giai đoạn điều
tra vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp
ngăn chặn tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội và thực tiễn áp dụng
tại tỉnh Gia Lai.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp
luật Tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở giai đoạn điều tra vụ
án hình sự.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM,
VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn tạm giam theo
quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn
Xuất phát từ yêu cầu giải quyết vụ án hình sự là phát hiện nhanh chóng,
chính xác và xử lý cơng minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, Nhà nước cho phép các cơ quan THTT được áp dụng nhiều
biện pháp có tính cưỡng chế, trong đó có biện pháp ngăn chặn.
Tuy nhiên, việc áp dụng các BPNC như: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi
nơi cư trú…lại tác động trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được quy định
trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Vì vậy, nếu sai lầm khi áp dụng
BPNC sẽ gây ra những hậu quả xấu làm ảnh hưởng đến các quyền cơ bản của cơng
dân, đồng thời ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam, chế định về các BPNC đã được quy

định trong các văn bản pháp luật TTHS nước ta ngay từ sau Cách mạng tháng Tám.
Những biện pháp này được quy định trong luật số 103-SL/005 ngày 20/05/1957 về
đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư
tín của nhân dân, Sắc lệnh số 02-SL ngày 15/03/1957 của Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam đã quy định các BPNC gồm bắt bình thường,
bắt khẩn cấp, bắt người phạm pháp quả tang, tạm giữ và tạm giam. Kế thừa có chọn
lọc và tiếp tục phát triển luật TTHS của nhà nước ta sau Cách mạng tháng Tám đến
nay, BLTTHS hiện hành quy định những biện pháp ngăn chặn trong Chương VI bao
gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để đảm bảo. Kế thừa những quy định của BLTTHS năm 2003,
BLTTHS năm 2015 cũng quy định về BPNC và biện pháp cưỡng chế trong Chương
VII, những BPNC theo BLTTHS 2015 bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn

7


cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để
tạm giam; tạm giữ; tạm giam; bảo lĩnh; đặt tiền để bảo đảm; cấm đi khỏi nơi cư trú;
tạm hoãn xuất cảnh. Những BPNC là những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của
Nhà nước ta trong TTHS để kịp thời ngăn chặn hành vị phạm tội, ngăn ngừa người
phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như đảm bảo thi hành án. Các biện
pháp ngăn chặn là cơ sở pháp lý có ý nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm, đồng thời, là biện pháp hạn chế một số quyền và
tự do cá nhân.
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam có những khái niệm khác nhau về
BPNC. Theo Từ điển Luật học giải thích BPNC là: Biện pháp cưỡng chế về mặt tố
tụng hình sự áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị
khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi
nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật

hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [34,
tr. 69]. Từ điển đã xác định đúng đối tượng và mục đích áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, nhưng khơng chỉ ra chủ thể có quyền áp dụng chúng.
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế cần thiết về mặt tố tụng hình
sự, do các cơ quan và những người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp
dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố khi có căn cứ do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án. Các biện pháp ngăn chặn bao gồm: bắt người, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
[10, tr. 26]. Khái niệm này đã đúng khi chỉ ra bản chất cưỡng chế của biện pháp
ngăn chặn, nhưng lại khơng nói đến mục đích ngăn ngừa tội phạm mới. Ngồi ra,
cịn một số khái niệm khác nữa về biện pháp ngăn chặn của các nhà khoa học
nghiên cứu pháp luật, cán bộ làm công tác thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm được cơng bố trong các giáo trình luật TTHS Việt Nam, sách chuyên
khảo, tạp chí chuyên ngành luật học. Những khái niệm trên đã nêu lên được những

8


khía cạnh của các biện pháp ngăn chặn và tương đối thống nhất đề cập đến bản chất
pháp lý của chúng là sự cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên, nó vẫn chưa đầy đủ, khoa
học chứa đựng tất cả các đặc điểm của biện pháp ngăn chặn. Cho đến nay, trong
BLTTHS 2003 hiện hành hay BLTTHS 2015 vẫn chưa có quy phạm nào định nghĩa
về biện pháp ngăn chặn, bởi vậy, vẫn còn những ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Các BPNC chỉ là các biện pháp hỗ trợ cho việc thực hiện trách nhiệm hình
sự. Đồng thời, càng khơng thể đồng nhất các BPNC với hình phạt. Cơ sở pháp lý
của việc áp dụng hình phạt là việc thực hiện tội phạm, còn cơ sở pháp lý để áp dụng
biện pháp ngăn chặn là những tài liệu, chứng cứ về việc bị can, bị cáo, người bị
nghi liên quan đến tội phạm có thể trốn, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử, hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm việc thi hành án. Hình phạt

là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước ta được quy định trong
LHS chỉ do Tịa án quyết định, cịn các BPNC có thể do CQĐT, VKS, TA hoặc các
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra áp dụng tùy từng
giai đoạn tiến hành tố tụng. Ngoài ra, mục đích của hình phạt “khơng chỉ nhằm
trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý
thức tn theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm
tội mới. Hình phạt cịn nhằm giáo dục người khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh
phịng ngừa và chống tội phạm” (Điều 27 BLHS), trong khi đó mục đích của các
BPNC là nhằm ngăn chăn tội phạm, ngăn ngừa hành vi trốn tránh pháp luật của
người phạm tội và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tố tụng hình sự để làm
rõ tội phạm và xử lý người phạm tội.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là bị can, bị cáo, người phạm tội
quả tang hoặc người mà các cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của
BLTHTT có tài liệu, chứng cứ nghi là họ phạm tội. Khi áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, các cơ quan, người có thẩm quyền chỉ được tiến hành trong phạm vi giới hạn
cũng như thủ tục mà pháp luật TTHS quy định. Thẩm quyền áp dụng biện pháp
ngăn chặn là những người THTT có thẩm quyền thuộc CQĐT, VKS, TA hoặc
người có chức vụ trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số biện pháp

9


điều tra, công dân tham gia vào việc bắt người phạm tội quả tang. Mọi hành vi áp
dụng biện pháp ngăn chặn không đúng đối tượng, thẩm quyền, căn cứ, cũng như thủ
tục đều bị coi là vi phạm pháp luật và có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Từ những tìm hiểu, phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm biện pháp ngăn
chặn như sau: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp mang tính cưỡng chế Nhà nước
trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã,
người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi phạm tội có tính phịng ngừa do cơ
quan, người có thẩm quyền được quy định trong BLTTHS áp dụng, nhằm ngăn chặn

tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có những hành
vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
1.1.2. Khái niệm biện pháp tạm giam
Tạm giam là một trong những BPNC được quy định trong TTHS do cơ quan,
người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp cần
thiết do BLTTHS quy định. Tính nghiêm khắc của biện pháp tạm giam thể hiện ở
chỗ, khi bị áp dụng biện pháp tạm giam, người bị áp dụng biện pháp này sẽ bị hạn
chế một số quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến Pháp và các văn
bản pháp luật khác như: quyền tự do cư trú, quyền tự do đi lại, bị cách ly khỏi xã
hội trong một thời gian nhất định… Chính vì vậy, khi áp dụng BPTG trong quá
trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải
tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật, để bảo đảm các quyền của cơng
dân, góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm.
Đó là, chỉ được áp dụng đối với những đối tượng nhất định và trong những trường
hợp thực sự cần thiết do pháp luật quy định, nhằm ngăn chặn những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc gây cản trở cho các hoạt động
tố tụng.
Mặc dù là một trong những BPNC có tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước ta trong TTHS, nhưng cho đến nay, cũng giống như BPNC vẫn chưa có
quy phạm định nghĩa về khái niệm biện pháp tạm giam. Do đó, việc nhận thức đầy
đủ, thống nhất về biện pháp tạm giam cũng như các quy định của pháp luật TTHS

10


về biện pháp tạm giam sẽ đảm bảo việc áp dụng biện pháp tạm giam trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự (VAHS) đạt hiệu quả.
Theo Điều 88 BLTTHS thì đối tượng bị áp dụng BPTG chỉ có thể là bị can,
bị cáo tức là những “người đã bị khởi tố về hình sự” (Điều 49 BLTTHS) hoặc
“người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử” (Điều 50 BLTTHS). Tuy nhiên,

không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị tạm giam mà chỉ áp dụng biện pháp tạm giam
đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS
quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Khoản 2 Điều 88 BLTTHS quy định: “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có
thai, phụ nữ đang ni con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng
có nơi cư trú rõ ràng thì khơng tạm giam mà phải áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác”, trừ trường hợp bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo Quyết định truy nã; bị
can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố
ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; bị can, bị cáo phạm tội
xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu khơng tạm giam đối với
họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất nhưng tạm giam không phải là hình
phạt tù bởi vì mục đích của tạm giam là ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh
pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi
hành án được tiến hành đúng đắn, cịn hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc của Nhà nước do TA áp dụng không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà cịn
nhằm mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội.
Với mục đích ngăn chặn và phịng ngừa tội phạm, việc quy định BPTG trong
BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng. BPTG góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước, củng cố, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của
chế độ XHCN, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công

11


dân. Áp dụng BPTG đúng các quy định của pháp luật TTHS sẽ góp phần bảo đảm
sự dân chủ, tơn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến

pháp và các văn bản pháp luật khác. Đồng thời còn bảo đảm cho việc đấu tranh
chống và phịng ngừa tội phạm có hiệu quả, bảo đảm hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN trong
việc đấu tranh phịng chống tội phạm.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa về biện pháp tạm giam như sau:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong TTHS do cơ quan, người có
thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội
rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng; phạm tội ít nghiêm
trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục
phạm tội.
1.1.3. Phân biệt biện pháp bắt tạm giam với biện pháp tạm giam
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp mang tính cưỡng chế Nhà nước trong tố
tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã, người
phạm tội quả tang hoặc người bị nghi phạm tội có tính phịng ngừa do cơ quan,
người có thẩm quyền được quy định trong BLTTHS áp dụng, nhằm ngăn chặn tội
phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có những hành vi
gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS thì BPNC gồm các biện pháp: bắt, tạm
giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm.
“Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong TTHS được áp dụng đối với bị can,
bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang
thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn
hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”. [29, tr. 204]

12



Trong biện pháp bắt người có các trường hợp: bắt bị can, bị cáo để tạm giam
(Điều 80 BLTTHS); bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS); bắt
người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82 BLTTHS).
Điều 80 BLTTHS quy định về trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, nhận thức và phân biệt bắt bị can, bị cáo
để tạm giam với biện pháp tạm giam để có sự thống nhất và nâng cao hiệu quả áp
dụng từng biện pháp ngăn chặn cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng theo quy định của pháp luật TTHS trong q trình giải quyết VAHS.
Theo một nhóm tác giả “bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị
khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam
nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”. [29, tr.206], khái niệm này
đã phần nào nói lên được bản chất của biện pháp bắt tạm giam như chỉ ra được đối
tượng có thể bị áp dụng biện pháp bắt tạm giam đó là bị can, bị cáo cũng như mục
đích của việc áp dụng biện pháp bắt tạm giam đó là ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục
phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự. Tuy nhiên lại chưa cho thấy bắt tạm giam là biện pháp ngăn chặn
có tính cưỡng chế của Nhà nước trong tố tụng hình sự và cũng chưa chỉ ra được cơ
quan và người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt tạm giam.
Từ phân tích trên có thể khái niệm: bắt bị can, bị cáo để tạm giam là biện
pháp ngăn chặn trong TTHS, được áp dụng đối với bị can, bị cáo do cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo quy định của luật TTHS
áp dụng nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện
thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Theo quy định tại Điều 80 BLTTHS thì đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có
thể là bị can hoặc bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa
bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử không phải là đối tượng bắt để tạm giam.
Bộ luật TTHS hiện hành không quy định cụ thể việc bắt để tạm giam được
áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp nào nhưng không phải mọi bị
can, bị cáo đều bị bắt tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với những bị can, bị cáo


13


nào xét thấy cần thiết. Như vậy có thể thấy biện pháp bắt tạm giam và biện pháp
tạm giam đều hướng đến mục đích là tạm giam đối với bị can, bị cáo. Cùng với biện
pháp tạm giam, biện pháp bắt tạm giam là những biện pháp ngăn chặn có tính
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước ta trong tố tụng hình sự. Cả hai biện
pháp này khi được áp dụng đều tạm thời tước bỏ một số quyền cơ bản của công dân
được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật như: quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, quyền tự do cư trú, quyền tự do đi lại, cách ly bị can, bị cáo khỏi
xã hội trong một thời gian nhất định…Vì vậy, khi quyết định áp dụng 2 biện pháp
này cơ quan, người có thẩm quyền cần xác định có cần thiết khơng? Thông thường
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thường căn cứ vào tính chất
của tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các đặc điểm nhân thân cũng như
thái độ chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án.
Điều 80 BLTTHS không quy định căn cứ bắt tạm giam mà chỉ nêu thủ tục,
thẩm quyền áp dụng biện pháp này. Theo khoản 1 Điều 80 BLTTHS thì những
người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam đó là:
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát
qn sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án Tồ án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tồ, Phó Chánh tồ Tịa phúc thẩm Tồ án
nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp
này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Khoản 2 và 3 Điều 80 BLTTHS quy định cụ thể thủ tục bắt bị can, bị cáo để
tạm giam, thủ tục đó gồm:
- Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh;
họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra

lệnh và có đóng dấu.
Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của
người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.

14


Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền
xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành
bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó
làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của
đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
- Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội
quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ
luật này.
Thực tiễn các CQĐT và VKS cũng đã căn cứ vào quy định ở Điều 88
BLTTHS để áp dụng biện pháp bắt tạm giam. Việc làm trên đã mặc nhiên được
chấp nhận. Vấn đề này, cịn có nhiều quan điểm khác nhau và cần nhận thức thống
nhất, phân biệt rõ ràng giữa biện pháp bắt tạm giam và biện pháp tạm giam.
Có quan điểm cho rằng, biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam theo quy
định tại Điều 80 BLTTHS là một biện pháp ngăn chặn độc lập so với biện pháp tạm
giam. Điều 80 BLTTHS không quy định rõ căn cứ, thời hạn áp dụng biện pháp bắt
bị can, bị cáo để tạm giam, nhưng có thể bắt để tạm giam phải thỏa mãn các căn cứ
tạm giam ở Điều 88 BLTTHS. Do vậy, sau khi CQĐT có thẩm quyền ra lệnh bắt bị
can, bị cáo để tạm giam thì khơng cần ra thêm quyết định tạm giam nữa. Quan điểm
này đúng khi cho rằng biện pháp bắt tạm giam là biện pháp độc lập với biện pháp
tạm giam. Tuy nhiên, việc cho rằng có thể áp dụng tương tự căn cứ theo Điều 88
BLTTHS là khơng phù hợp. Bởi vì, điều đó vi phạm nguyên tắc pháp chế quy định
tại Điều 3 BLTTHS. Đó là mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố
tụng phải được tiến hành theo quy định của bộ luật này. BLTTHS không quy định

việc áp dụng tương tự, nên không thể tùy nghi áp dụng như trường hợp nêu trên. Để
bảo đảm pháp chế, nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt tạm giam cần bổ sung
Điều 80 BLTTHS theo hướng quy định về căn cứ, thời hạn bắt tạm giam như Điều
88 BLTTHS.
Đồng thời, bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một biện pháp độc lập so với biện
pháp tạm giam nhưng biện pháp bắt tạm giam là một biện pháp kép bao gồm biện

15


pháp bắt người và biện pháp tạm giam. Điều này cho thấy đây là biện pháp được áp
dụng đối với các bị can, bị cáo chưa bị bắt, chưa bị cách ly khỏi xã hội, khi có đủ căn
cứ và cần thiết phải bắt để tạm giam nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn
ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự. Để có thể áp dụng biện pháp bắt tạm giam đối với bị can, bị
cáo ngồi việc cần phải có đầy đủ căn cứ tạm giam, thời hạn tạm giam cần phải bảo
đảm đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật TTHS về việc bắt người như: không
được bắt người vào ban đêm, khi tiến hành bắt người phải có người chứng kiến, phải
đọc lệnh bắt… Cịn biện pháp tạm giam là một biện pháp ngăn chặn đơn, được áp
dụng đối với bị can, bị cáo đã bị bắt có thể trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang hoặc bắt người đang bị truy nã. Khi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền ra
lệnh tạm giam thì bị can, bị cáo đó đã bị cách ly với xã hội nên khơng cần phải bắt,
đồng thời có thể bị can, bị cáo đó đang bị áp dụng biện pháp tạm giữ.
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam
- Mục đích: Mục đích áp dụng là vấn đề mà các cơ quan tiến hành tố tụng cần
đạt được khi áp dụng biện pháp tạm giam. Ngoài mục đích chung là ngăn chặn khơng
để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc
giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định việc áp dụng biện pháp tạm
giam cịn có mục đích riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ
quan áp dụng. Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo

điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ
từ lời khai của bị can một cách thuận lợi nhất, đồng thời cũng giúp cho việc quản lý
giám sát bị can được chặt chẽ, khơng để bị can có điều kiện thơng cung.
- Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp tạm giam: Với vai trò là một biện pháp
ngăn chặn, tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh và phòng chống các
loại tội phạm cũng như bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân, cụ thể:
+ Một là, tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố
tăng cường pháp chế XHCN, thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong việc đấu
tranh phòng chống tội phạm; đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, pháp luật

16


được giữ vững, chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ, các quyền cũng như lợi ích
hợp pháp của công dân được tôn trọng.
+ Hai là, tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng
các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Đảm bảo
không một công dân nào bị tạm giam trái pháp luật, khi áp dụng biện pháp tạm
giam không đúng pháp luật quy định, cơng dân có quyền khiếu nại đến các chủ thể
có thẩm quyền.
+ Ba là, tạm giam là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Bởi đây là biện pháp bảo đảm
sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan THTT, đảm bảo sự
chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục
phạm tội hoặc tìm cách xóa dấu vết phạm tội, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ
án. Ngoài ra, tạm giam còn đảm bảo cho việc thi hành đúng pháp luật và hiệu lực
của bản án đã được tuyên.
Cuối cùng, tạm giam thể hiện tính ưu việt của Nhà nước ta. Đó là biện pháp
bảo đảm cho mọi cơng dân được sống trong xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp
của họ được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn cơng, xâm hại từ phía các đối

tượng nhất định, bảo đảm cho mọi công dân yên tâm sinh sống, học tập, làm việc
tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao nhất.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp
tạm giam
1.2.1. Về căn cứ áp dụng
BLTTHS 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam mà chỉ quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung.
Điều 79 BLTTHS 2003 quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bao gồm:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm.
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử.
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.

17


- Để đảm bảo thi hành án.
Như vậy căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam bao gồm:
+ Căn cứ thứ nhất: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
+ Căn cứ thứ hai: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
+ Căn cứ thứ ba: Để đảm bảo thi hành án.
1.2.2. Về đối tượng áp dụng
Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định: “Tạm giam có thể được áp dụng
đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ
luật Hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có
thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.
- Thứ nhất, bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất

nghiêm trọng. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm
năm tù, tù chung thân hoặc tử hình; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến
mười lăm năm tù (Khoản 3 Điều 8 BLHS). Nếu bị can, bị cáo thuộc những trường
hợp này, người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể tạm giam ngay mà khơng
cần có thêm căn cứ nào khác.
- Thứ hai, bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà
BLHS quy định hình phạt từ trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Theo
quy định của BLTTHS, tạm giam chỉ áp dụng đối với những bị can, bị cáo phạm tội
ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm. Đối với bị can, bị cáo
phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt từ hai năm trở xuống hoặc
hình phạt khác khơng phải là hình phạt tù thì khơng áp dụng biện pháp tạm giam.
Nếu xét thấy cần thiết, thì CQTHTT có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác như
cấm đi khỏi nơi cư trú, bão lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong

18


trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà
BLHS quy định tù trên hai năm, để tạm giam họ cần có thêm điều kiện thứ hai đó
là, căn cứ cho rằng họ có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
có thể tiếp tục phạm tội.
Thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa Khoản 2 Điều 88 BLTTHS 2003
quy định những trường hợp không được áp dụng biện pháp tạm giam, gồm:
+ Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang ni con dưới ba mươi sáu
tháng tuổi.
+ Người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng.
Tuy nhiên, những người này vẫn có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm

giam trong những trường hợp sau:
+ Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
+ Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục
phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
+ Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho
rằng nếu khơng tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
1.2.3. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng
Khoản 3 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định: “Những người có thẩm quyền ra
lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam.
Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ
luật này phải được Viện kiểm sát cung cấp phê chuẩn trước khi thi hành”.
Như vậy, theo quy định tại Khoản 1 Điều 80 BLTTHS 2003, những người
sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
- Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS nhân dân và VKS quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tịa Tịa phúc thẩm Tịa án
nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này, lệnh
tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

19


×