Về hình tượng người lính trong bài Tây Tiến, có ý kiến cho rằng: người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thưở trước; ý kiến khác thì nhấn mạnh: hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người lính thời kháng chiến chống Pháp. từ những cảm nhận của anh c
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.87 KB, 4 trang )
1
Taây Tieán – Quang Duõng
Quang Dũng là người chiến sĩ kiêm nhà thơ thời kháng chiến chống Pháp. Ông là người
đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Hồn thơ của ông lãng mạn và tài hoa, nhà thơ
của “Xứ Đoài mây trắng”, thơ giàu chất nhạc, chất họa. Ông từng là đại đội trưởng trong
đoàn quân Tây Tiến. Năm 1948, ông chuyển sang đơn vị mới, nhớ về đơn vị cũ và sáng tác bài
thơ “Nhớ Tây Tiến” tại Phù Lưu Chanh. Sau đó in lại và đổi tên thành “Tây Tiến”. Về bài thơ
này có ý kiến cho rằng “Người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thuở trước”. Bên cạnh đó, có
ý kiến khác thì nhấn mạnh “Hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người lính thời kháng
chiến chống Pháp”.
Về ý kiến thứ nhất “Người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thuở trước” thì muốn nói
người lính Tây Tiến mang nét đẹp của đấng trượng phu, giàu tính ước lệ. Hình ảnh này mang
dáng dấp của tráng sĩ chinh phu thời trung đại. Đây là những người quyết ra đi trả nợ anh hùng,
“hai vai gánh vác cả đôi sơn hà”. Về ý kiến thứ hai “Hình tượng người lính mang đậm vẻ
đẹp của người lính thời kháng chiến chống Pháp”, hình tượng người lính ở đây có nét đẹp thân
thuộc từ đời sống chiến trường của anh vệ quốc quân thời kháng chiến chống Pháp. Đó là người
trai phải quyết ra đi chiến trận phen này, để lập chiến công, để bảo vệ đất nước mặc dù hoàn
cảnh chiến đấu khó khan gian khổ, bệnh tật hoành hành.
Hình ảnh người lính Tây Tiến mang dáng dấp của tráng sĩ thưở trước. đó là dáng vẻ oai
phong lẩm liệt, hào khí ngút trời.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu là dữ oai hùm”
Những người lính Tây Tiến trọc đầu vì sốt rét nhưng không phải vì thế mà tinh thần họ đi xuống.
Chính cái hình dạng kì dị đó đã làm tăng thêm vẻ độc dữ cho “đoàn binh”. Tác giả dùng từ
“đoàn binh” ở đây gợi cho ta thấy người lính ở đây không đơn độc mà là cả một đoàn người.
Ngoài ra cũng chính từ Hán Việt “đoàn binh” gợi lại không khí thời Trung Đại – đó là cảnh đoàn
binh ra trận với khí thế anh dung nhưng đầy sự oai nghiêm. “Quân xanh” ở đây muốn ám chỉ
những người lính đang bị bệnh sốt rét, nhưng họ hiện lên với một bộ mặt “dữ oai hùm”. Nhà
thơ muốn đề cao tinh thần bất diệt của họ. Từ “hùm” chỉ loài hổ - chúa sơn lâm. Không phải ở
đây Quang Dũng muốn “động vật hóa” người lính mà muốn nói rừng núi Tây Bắc này do người
lính Tây Tiến làm chủ. Qua đó nhà thơ muốn khẳng định quyết tâm bảo vệ đất nước của người
lính Tây Tiến nói riêng và của nhân dân nước ta nói chung. Đây cũng là một hình ảnh của người
lính thời Trung Đại. Đó là người anh hùng:
“Hoành sóc giang san cáp kỉ thu
Tam quan kì hổ khí thôn ngưu”
Những đấng trượng phu khi xưa đều xem cái chết nhẹ tựa lông hồng:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Từ “đời xanh” muốn chỉ người lính Tây Tiến còn trẻ lắm và thực sự là họ là như vậy. Họ là những
thanh niên, những học sinh đất Hà thành còn trẻ nhưng họ hiểu rằng:
“Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho những ngôi nhà, ngọn núi con sông”
2
Taây Tieán – Quang Duõng
Và chính vì thế họ chẳng “tiếc đời xanh” của họ. Đó là tiêu biểu cho chí khí của những tráng sĩ
thuở trước.
Không những tác giả xây dựng hình ảnh người lính Tây Tiến mang dáng dấp của những tráng
sĩ thời Trung Đại mà ông cũng gây dựng nên một không gian cũng rất tiền sử. Đây là không
gian đầy không khí bi hùng cổ xưa, là cái nơi lam chướng nghìn trùng. Câu thơ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
Gợi lên cảnh người lính hành quân tới một vùng đất mới mẻ, đầy nguy hiểm. Từ “sương lấp”
gợi lên cảnh đoàn quân hành quân trong điều kiện bị sương mù che lấp nhưng sương ở đây đâu
phải là bình thường mà đây là sương muối. Chính nó đã làm tăng thêm sự mệt mỏi cho đoàn
quân. Ngoài ra chính từ “sương” gợi lên cảnh những làn khói trên sông, một hình ảnh của cổ
thi.
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
Qua đó thể hiện nổi nhớ quê hương của người lính. Không gian núi rừng Tây Bắc hiện lên đầy
vẻ hoa lệ, đó là một vực sâu vạn trượng bên cạnh một :
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Tác giả đã sử dụng cách ngắt nhịp 4/3 và nghệ thuật đối giữa “lên” và “xuống” kết hợp với từ
chỉ sự ước lệ “ngàn thước” đã bẻ đôi câu thơ. Qua đó nhà thơ đã để lại cho người đọc một bức
tranh hai vách núi vút lên rồi đổ xuống rất nguy hiểm tạo cảm giác gợn người. Đây cũng là một
hình ảnh Trung cổ:
“Nhật chiếu hương lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên”
Ngoài ra cái nổi buồn thi vị, man mác của cảnh vật thời Trung cổ được tái hiện lại qua cảnh
sông nước hoang dại như một bờ tiền sử: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Bên bờ lau dọc dòng
sông, tác giả đã cảm nhận những cánh lau một cách tinh tế qua hai từ “hồn lau”. Đó là những
cây lau không còn là vô tri, vô giác mà ở chúng đã có linh hồn. Phải là một nhà thơ nhạy cảm,
tinh tế, tài hoa, lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ây.
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn của mùa thu đi
Ngàn lau xao xác trắng”
Với chiến trường là mồ viễn xứ biên ải, ngôn ngữ thơ trang trọng ước lệ. Câu thơ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
Và
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
đã tái hiện lại vẻ đẹp về sự hy sinh của người lính. Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt “biên cương”,
“viễn xứ”, “áo bào” đã tạo nên sắc thái cổ kính, trang trọng và làm giảm sự bi thương của
những cái mồ rải rác ở nơi viễn xứ biên thùy. Câu thơ:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
làm ta nhớ lại hình ảnh người anh hùng Kinh Kha năm xưa đứng trên bờ sông Dịch chuẩn bị
thực hiện xứ mệnh của đời trai trẻ. Đó là bảo vệ đất nước với tinh thần “Nhất khứ bất phục
hoàn”.
3
Taây Tieán – Quang Duõng
“Gió hiu hắt chừ Dịch thủy hàn
Tráng sĩ ra đi chừ bất phục phản”
Sông Mã hôm nay mang dáng dấp của sông Dịch năm xưa và cả hay dòng sông đều tấu lên
“khúc độc hành” để đưa tiển hay làm tăng nhuệ khí của những người anh hùng, những người
tráng sĩ.
Không những thế, người lính Tây Tiến còn mang vẻ đẹp của anh vệ quốc quân thời đại kháng
chiến chống Pháp với tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Họ là những người không
thoái chí sờn lòng, không bỏ cuộc.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Trên con đường hành quân đầy vất vả, nhiều người lính đã ngã xuống vì kiết sức nhưng dường
như họ chưa chịu rời bỏ cuộc hành quân cùng đồng đội. Bằng chứng là họ chỉ “bỏ quên đời” khi
“không bước nữa”. Đó là cái chết bi hùng, tuy chết nhưng tay vẫn cầm chặt sung, vẫn luôn nhớ
nhiệm vụ. Họ là “Những con người mỗi khi nằm xuống. Vẫn nằm trong tư thế tấn công”.
Tuy trong cuộc hành quân gặp nhiều gian khổ nhưng họ vẫn trẻ trung tinh nghịch.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Hai từ láy “heo hút” càng làm tăng thêm sự “heo hút” ấy. Cách nói đùa tiếu “súng ngửi trời”
thể hiện trí tưởng tượng của người lính. Đó là hình ảnh họ đang hành quân trên núi cao và
cao tới mức súng của họ đeo trên vai có thể chạm trời. Từ đó cho ta thấy được tinh thần lạc
quan yêu đời của người lính Tây Tiến. Hằng ngày họ phải lăn lộn trận mạc đầy mất mác hy
sinh nhưng họ vẫn đa cảm, đa tình. Câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” cho thấy
họ - người chàng trai đất Hà thành vẫn đang nhớ về Hà Nội, vẫn đang nhớ về “dáng kiều
thơm” ở quê hương mình. Họ thật lãng mạn.
Người lính Tây Tiến dồi dào tình yêu thiên nhiên:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Trên đỉnh Sài Khao mà con người mà con người chìm trong “sương lấp”, họ vẫn cảm nhận được
vẻ đẹp của núi rừng trong đêm. Đó là những cánh hoa rơi trong đêm tối khắc nghiệt (đêm hơi).
Từ đó đã toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp. Ở họ có sự
hòa quyện giữa chiến sĩ và thi sĩ. Không chỉ là tình yêu thiên nhiên, họ còn có tình quân dân và
tình yêu đồng đội.
“Doanh trại bùng lên ngọn đuốc hoa
Kìa em xiêm tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đó là những đêm liên hoan văn nghệ đầy tình quân dân. Từ “bừng lên” gợi cảm giác ấm áp, gợi
niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi đã thành đêm hội, ngọn đuốc nứa, đuốc lau đã thành đuốc hoa
mà đuốc hoa còn gọi là ngọn “hoa chúc” – cây nến dược đốt trong đêm tân hôn. Từ đó đã gợi
lên một không khí ấm cúng, gia đình. Từ “bừng” ấy còn chỉ ánh sáng của ngọn đuốc hoa, của
lửa trại sáng bừng lên, cũng có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Từ
“kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên của những anh vệ quốc quân trước vẻ đẹp của những cô gái
vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Phải chăng đó
có phải là sự rung cảm trước vẻ đẹp của các thiếu nữ Thái, thiếu nữ Mường, các cô gái Lào hay
là họ nhớ về “dáng kiều thơm” của mình. Nhưng dù sao thì sự xuất hiện của các cô gái ấy trong
bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính
trẻ. Đó phải chăng là sự cứu cánh cho tâm hồn người lính khi họ đang đối mặt với gian khổ.
Hình tượng người lính thời chống Pháp gắn chặt với sự kiện lịch sử là cuộc hành quân về biên
4
Taây Tieán – Quang Duõng
giới Tây Bắc với những địa danh xác thực, những cảnh trí đậm sắc thái riêng của rừng núi hiểm
trở, thơ mộng. Cái sự hiểm trở ấy thể hiện ở:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Quang Dũng đã từng kể lại trong lúc đến Mường Hịch thì người dân nơi đây cho biết ở đây có
một con hổ đã thành tinh và thường xuống làng để bắt gia súc và thậm chí là đã ăn thịt người.
Người dân này biết là đoàn binh có súng và ngỏ ý muốn họ giúp tiêu diệt hổ. Những người lính
Tây Tiến vốn gan dạ nên đã đi tìm hổ để diệt. Họ đã giết được hổ nhưng bị thương rất nhiều
người. Chính vì thế mà nhà thơ rất có ấn tượng với địa danh này mặc dù nó xa xôi, hẻo lánh.
Còn về sự thơ mộng, nhà thơ đã viết:
“Trôi dòng nước lũ hoa đông đưa”
Đây là hình ảnh những cánh hoa rụng lã tả trôi theo dòng nước hay là những chùm hoa chạm
mặt nước và đong dưa theo dòng nước chảy.
Cả hai ý kiến đều đúng. Tuy có nội dung khác nhau, tưởng đối lập nhau nhưng bổ sung
cho nhau, khẳng định sự hòa hợp giữa vẻ đẹp cổ điển với vẻ đẹp tráng sĩ hiện đại để làm nên
một hình tượng toàn vẹn của bài thơ. Nhà thơ đã kế thừa những con người truyền thống, sử
dụng bút pháp lãng mạn. Đồng thời ông cũng mang vào thơ không khí thời đại, hiện thực chiến
trường đời sống trận mạc mà chính tác giả là người trong cuộc.
Đó đều là những ý kiến đúng về bài thơ Tây Tiến. Hình tượng người lính Tây Tiến tiêu
biểu cho hình tượng người lính bi tráng. Đây là một tượng đài thơ ca bất diệt trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Ngoài ra, hình tượng đó còn mang dáng dấp của người tráng sĩ ngày xưa với
tinh thần quyết ra đi trả nợ anh hùng để trả ơn cho đất nước hay để thỏa chí tang bồng. Chính
sự tinh anh và tài năng về thi, nhạc, văn, họa của Quang Dũng mới tô đậm thêm được vẻ đẹp
người Tây Tiến. Xin được mượn bốn câu thơ của Giang Nam để thay cho lời kết:
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”.