VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀNG TUYẾN
TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀNG TUYẾN
TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH THUẬN
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, hoàn toàn
do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Trung Thành. Các
trích dẫn và số liệu được sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ
chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Tác giả luận văn
NGUYỄN HOÀNG TUYẾN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRANH
LUẬN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ............................... 8
1.1. Những vấn đề lý luận về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự .... 8
1.2. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về tranh luận tại phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................................................... 19
Chương 2: THỰC TRẠNG TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI
PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BÌNH THUẬN ............................................................................................... 33
2.1. Khái quát tình hình xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại tỉnh Bình Thuận
......................................................................................................................... 33
2.2. Những kết quả đạt được từ thực tiễn tranh luận của Kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................................... 35
2.3. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân trong hoạt động tranh luận của
Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ........................................... 44
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CHẤT LƯỢNG
TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ .......................................................................................... 51
3.1. Yêu cầu tăng cường chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................................................... 51
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................................................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
BLHS
Bộ luật Hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
HĐXX
Hội đồng xét xử
HSST
Hình sự sơ thẩm
KSND
Kiểm sát nhân dân
KSV
Kiểm sát viên
KSXX
Kiểm sát xét xử
TAND
Tòa án nhân dân
THQCT
Thực hành quyền công tố
TTHS
Tố tụng hình sự
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
Bảng 2.1
nhân dân hai cấp tỉnh Bình Thuận từ năm 2012
33
đến năm 2016
Số lượng vụ án và tỷ lệ Luật sư tham gia phiên tòa
Bảng 2.2
sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bình
43
Thuận từ năm 2013 đến năm 2016
Bảng 2.3
Tình hình số vụ án có Luật sư tham gia và tỷ lệ
quan điểm bào chữa được chấp nhận
47
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên khi THQCT trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tranh luận có vai trò quan trọng trong việc xác
định sự thật khách quan của vụ án, kết quả tranh luận tại phiên tòa có ý nghĩa
quan trọng để HĐXX thảo luận trong khi nghị án, cân nhắc khi ra bản án,
quyết định. Yêu cầu cải cách tư pháp đòi hỏi phải nâng cao chất lượng tranh
tụng nói chung và tranh luận của KSV tại phiên tòanói riêng, HĐXX phải bảo
đảm việc tranh luận bình đẳng, dân chủ giữa các bên buộc tội và gỡ tội; việc
xác định sự thật khách quan của vụ án chủ dựa vào kết quả tranh luận tại
phiên tòa. Đó là định hướng lớn, là quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
về cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 08NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW). Thực hiện chủ trương trên, ngày
06/4/2016 Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành Chỉ thị số 09/CTVKSTC về “Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng tranh luận của
KSV tại phiên tòa”, theo đó, trong những năm qua, ngành KSND đã thực hiện
nhiều giải pháp tích cực nhằm tạo sự chuyển biến trong hoạt động tranh luận
của KSV tại các phiên tòa hình sự, một mặt bảo vệ quan điểm truy tố của
Viện kiểm sát, mặt khác đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm [41].
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, BLTTHS 2003 đã
quy định cụ thể và đầy đủ hơn về trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ
thẩm (từ Điều 217 đến 221). Vì vậy, hoạt động tranh luận, đối đáp tại phiên
1
toà nói chung và của KSV nói riêng đã có những chuyển biến tích cực, góp
phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các vụ án hình sự những năm gần đây cho
thấy chất luợng, hiệu quả xét xử nói chung và hoạt động tranh luận tại các
phiên toà hình sự nói riêng chưa cao, còn nhiều bất cập về quy định của pháp
luật, hạn chế trong hoạt động tranh luận của KSV, chưa đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Tình trạng này do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan khác nhau như BLTTHS 2003 đã bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập; các quy định về trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên toà
không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tham gia tranh luận;
nhận thức về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chưa đầy
đủ; kỹ năng của các chủ thể tham gia tranh luận còn nhiều hạn chế, tinh thần
trách nhiệm chưa cao.
Với những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Tranh luận của Kiểm
sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Thuận”
để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Theo tìm hiểu của tác giả, liên quan đến đề tài này, từ trước đến nay đã
có nhiều công trình nghiên cứu ở các phạm vi, góc độ khác nhau, thể hiện
dưới hình thức là các công trình nghiên cứu mang tính đại cương như “Giáo
trình Tố tụng hình sự Việt Nam” (của Trường Đại học luật Hà Nội), “Giáo
trình kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự” (của Học viện Tư pháp); các công
trình nghiên cứu chuyên sâu như Luận án Tiến sĩ luật học “Bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 2015
của tác giả Hoàng Văn Thành; Luận văn Thạc sĩ luật học “Tranh luận tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ
2
thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Học viện Khoa học xã hội năm 2016 của tác
giả Đỗ Thị Thu Trang; Luận văn Thạc sĩ luật học “Tranh luận tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Học viện Khoa học xã hội năm 2016 của tác
giả Nguyễn Thái Lam; Luận văn Thạc sĩ luật học “Tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Bình Định”, Học viện Khoa học xã hội năm 2016 của tác giả Võ Thị Kiều
Ngân; Luận văn Thạc sĩ luật học “Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ
An”, Học viện Khoa học xã hội năm 2017 của tác giả Hồ Xuân Hợp và một số
đề tài khác. Nội dung các công trình này đã làm rõ thêm các khái niệm tranh
tụng, tranh luận, vai trò, đặc điểm của tranh luận và nguyên tắc tranh luận
trong xét xử hình sự; phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ở một số địa phương và đề xuất các giải pháp
đảm bảo tranh tụng trong xét xử sơ thẩm.
Một số đề tài khoa học cấp Bộ như “Tranh luận tại phiên tòa - một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trường đào tạo các chức danh tư pháp - Bộ
tư pháp (năm 2003). Nội dung đề tài đã làm rõ các vấn đề lý luận có liên quan
đến tranh luận tại phiên tòa. Đánh giá đúng thực trạng tranh luận và đề ra giải
pháp nhằm mở rộng tranh luận tại phiên tòa, định hướng cho việc xây dựng
và thực hiện các chương trình đào tạo chức danh tư pháp ở Việt Nam. Đề tài
khoa học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh luận tại
phiên tòa” của Viện KSND tối cao (năm 2004). Nội dung đề tài đã chỉ ra một
số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống tranh luận qua phương pháp so sánh với
hệ thống TTHS thẩm vấn; chỉ ra những quy định trong BLTTHS 2003 cần
sửa đổi bổ sung để đáp ứng yêu cầu tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
Tác phẩm “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của Tiến sĩ Dương Thanh Biểu,
3
Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2007. Nội dung tác phẩm viết về những vấn đề lý
luận, vận dụng kiến thức pháp luật, các trình tự, nội dung liên quan đến tranh
luận tại phiên tòa sơ thẩm, đã nêu lên được những tồn tại, thiếu sót của KSV
trong việc tranh luận tại phiên tòa. Đề tài khoa học “Chuyên đề tranh luận và
những giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận của KSV trong xét xử hình
sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Viện KSND tối cao (năm 2014).
Nội dung của đề tài đã làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tranh luận tại
phiên tòa, đánh giá thực trạng hoạt động tranh luận của KSV và đề ra giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh luận của KSV.
Ngoài ra, còn một số bài viết đăng trên báo, tạp chí như: “Bảo đảm
quyền của bị can, bị cáo trong phiên tòa mở rộng tranh luận” của PGS.TS
Nguyễn Văn Huyên, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 08/2003;
“Bản chất của tranh luận tại phiên tòa” của PGS.TS Trần Văn Độ, đăng trên
Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2004; “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng tranh luận trong phiên tòa hình sự” của tác giả Nguyễn Kim Chi, đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 191/2011; “Vấn đề tranh tụng và tăng
cường tranh tụng trong Tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” của
tác giả Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 8/2008); “Bình
luận về nguyên tắc tranh tụng trong dự thảo BLTTHS (sửa đổi)”, của tác giả
Nguyễn Thái Phúc, đăng trên Tạp chí Kiểm sát (số 5/2015); “Một số vấn đề
về nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS 2015” của tác giả Trần Văn Tuân,
đăng trên Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, (số 33/2016); “Yêu cầu cải cách
tư pháp đối với các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng, chống oan sai và
bỏ lọt tội phạm” của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết, đăng trên Tạp chí Khoa học
Kiểm sát (số 3/2014); “Một số quy định mới về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
và vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét
4
xử sơ thẩm vụ án hình sự” của tác giả Lê Đức Xuân, đăng trên Tạp chí Kiểm
sát (số 16/2016).
Qua nghiên cứu các công trình, bài viết nêu trên thấy rằng, hoạt động
tranh tụng nói chung và tranh luận của của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự nói riêng đã được quan tâm nghiên cứu nhiều, tuy nhiên thực tiễn đặt
ra cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ một cách có hệ thống, toàn diện và đầy
đủ hơn về lý luận, pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động tranh luận của
KSV. Qua đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
chất lượng hoạt động tranh luận của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và quy định của
pháp luật về tranh luận của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, thực
trạng tranh luận của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trong thời gian
từ năm 2012 đến 2016 tại tỉnh Bình Thuận, từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tranh luận của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về hoạt động tranh luận của
KSV khi THQCT tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự như: Khái niệm, đặc
điểm của tranh luận; quy định của pháp luật về tranh luận tại phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về hoạt động tranh luận của KSV tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Thuận trong 5 năm gần
nhất (từ 2012 đến 2016), qua đó chỉ ra những kết quả đạt được cũng như
những tồn tại, hạn chế trong hoạt động tranh luận của KSV tại phiên tòa.
5
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng hoạt
động tranh luận của KSV, luận văn nêu ra yêu cầu và đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng tranh luận của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của
pháp luật về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn hoạt
động tranh luận của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh
Bình Thuận.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá vấn đề tranh luận
theo quy định của BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015; thực tiễn hoạt động
tranh luận của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận, trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý luận
và thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích tổng hợp.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của các bộ
môn khoa học khác như phương pháp so sánh, thống kê để giải quyết vấn đề
đặt ra trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong
phú, hoàn thiện thêm lý luận chuyên ngành khoa học luật TTHS về tranh luận
tại phiên tòa.
Về mặt thực thực tiễn, luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu,
tham khảo trong các trường đại học, các cơ sở đào tạo pháp luật, các khóa đào
6
tạo nghiệp vụ đối với các chức danh tư pháp; là tài liệu tham khảo cho Thẩm
phán, KSV khi tiến hành tố tụng và người bào chữa khi tham gia tố tụng tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, các từ viết
tắt, danh mục bảng biểu, nội dung luận văn được trình bày thành 3 chương,
gồm:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tranh luận tại phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2. Thực trạng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp tăng cường chất lượng tranh luận của
Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
Thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc cơ bản
của pháp luật TTHS Việt Nam. Trong thủ tục xét xử sơ thẩm và xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự đều có phần tranh luận,được nối tiếp sau khi kết thúc phần
xét hỏi và kết thúc trước khi bị cáo trình bày lời nói sau cùng.
Theo Từ điển Luật học thì: “Tranh luận tại phiên tòa hình sự là các bên
(Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng) đưa ra quan điểm về giải
quyết vụ án, nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án” [37, tr 258].
Trong phần tranh luận, dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên toà, các
chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra các chứng cứ, quan điểm, lập
luận của mình về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án để làm cơ sở cho
HĐXX đưa ra phán quyết về vụ án bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử lần thứ nhất do Toà án được giao thẩm
quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, mọi tài liệu chứng
cứ của vụ án do CQĐT, VKS thu thập đều được xem xét một cách công khai,
những người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được
tranh luận, chất vấn những điều mà CQĐT chưa làm rõ. Xét xử sơ thẩm được
coi như là đỉnh cao của quyền tư pháp, tại phiên toà, quyền và nghĩa vụ của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách
công khai, đầy đủ. Việc xét xử được thực hiện một cách công bằng, khách
8
quan, có căn cứ và đúng pháp luật sẽ góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, góp
phần đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngược lại, nếu việc xét xử không
chính xác, không công bằng, không khách quan sẽ dẫn đến tình trạng bỏ lọt
tội phạm, làm oan người vô tội, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tính nghiêm minh của pháp luật cũng như trật tự xã hội. Do vậy, tại
phiên tòa HSST thì ý nghĩa và nội dung của tranh luận được thể hiện một
cách đầy đủ và rõ nét nhất.
Hoạt động tranh luận tại phiên toà sơ thẩm được bắt đầu bằng việc KSV
trình bày lời luận tội. Luận tội của KSV được hiểu là hoạt động của KSV theo
quy định của pháp luật để thực hiện chức năng buộc tội đối với bị cáo tại
phiên tòa sơ thẩm. Nếu cáo trạng là sự mở đầu cho giai đoạn xét xử vụ án
hình sự, thì lời luận tội của KSV (hình thức pháp lý thể hiện quan điểm của
VKS về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án) là sự mở đầu phần tranh luận,
đối đáp giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa. Sau phần luận tội
của KSV thì bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì
người này trình bày lời bào chữa và bị cáo bào chữa bổ sung; người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày, bổ sung ý kiến. KSV
phải đáp lại tất cả ý kiến của những người tham gia tranh luận đồng thời phải
đưa ra những chứng cứ, lập luận của mình để phản bác ý kiến của bị cáo,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trái với nội dung luận
tội và quan điểm giải quyết vụ án của VKS. Nếu những người tham gia tranh
luận không còn ý kiến gì khác, Chủ tọa phiên toà tuyên bố kết thúc phần tranh
luận và cho phép bị cáo nói lời sau cùng. Như vậy, phần tranh luận tại phiên
toà sơ thẩm được kết thúc trước khi bị cáo nói lời sau cùng (tức là lời nói sau
cùng của bị cáo không thuộc phần tranh luận).
9
Trên cơ sở các phân tích trên, có thể rút ra một số nhận xét sau: (1)
Tranh luận là một thủ tục bắt buộc của phiên toà sơ thẩm và có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với quá trình xét xử vụ án. Các quan điểm khác nhau của
các bên về vụ án giúp cho HĐXX có thể xác định được đầy đủ và toàn diện
các tình tiết khách quan của vụ án để có phán quyết đúng đắn, chính xác về
các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. (2) Hoạt động tranh luận tại phiên toà
sơ thẩm vụ án hình sự được bắt đầu bằng việc KSV trình bày lời luận tội và
kết thúc trước khi bị cáo nói lời sau cùng. (3) Ý nghĩa và nội dung của tranh
luận được thể hiện một cách đầy đủ và rõ nét nhất tại phiên toà sơ thẩm.
Từ những phân tích và nhận xét nêu trên, có thể rút ra khái niệm về tranh
luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự như sau: “Tranh luận tại phiên tòa sơ
thẩmvụ án hình sựlà thủ tục bắt buộc của phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, trong đó các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra quan điểm,
lập luận của mình về các chứng cứ, các tình tiết của vụ án đã được làm rõ tại
phần xét hỏi và đề nghị HĐXX chấp nhận quan điểm của mình và bác bỏ
quan điểm của bên đối lập về hướng giải quyết các vấn đề trong vụ án giúp
cho HĐXX ra phán quyết về vụ án đúng pháp luật”.
Tranh luận tại phiên tòa hình sự có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất,tranh luận tại phiên tòa có sự bình đẳng giữa KSV THQCT với
bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác. Sự bình đẳng ở đây là
bình đẳng trên cơ sở quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
Hay nói cách khác, sự bình đẳng giữa các bên tranh tụng, không phải là sự
bình đẳng thực tế về địa vị pháp lý, hay bình đẳng về quyền và nghĩa vụ như
nhau, vì bên buộc tội và bên gỡ tội thực hiện hai chức năng khác nhau trong
TTHS, nhất là tại phiên tòa. Do đó, quyền bình đẳng ở đây được hiểu là bình
10
đẳng về phương diện tố tụng khi cả hai đều có tư cách tố tụng, đều được pháp
luật quy định cho những quyền và nghĩa vụ nhất định để thực hiện chức năng
của mình. Bình đẳng trong tranh luận là một biểu hiện của tính minh bạch,
công khai và dân chủ của TTHS, đồng thời còn thể hiện bản chất dân chủ của
Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Việc
tranh luận, đối đáp của KSV với bị cáo, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác sẽ làm cho phiên tòa khách quan, sống động hơn, qua đó
nângcao uy tín của Tòa án, VKS cũng như củng cố niềm tin của nhân dân vào
công lý.
Thứ hai,tranh luận tại phiên tòa HSSTlà sự tranh luận trực tiếp, công
khai giữa các chủ thể bên buộc tội và chủ thể bên bào chữa, việc tranh luận
khôngbị hạn chế về mặt thời gian. Có thể nói tranh luận là phương thức hữu
hiệu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, các bên sẽ đưa ra những lập luận
và chứng cứ chứng minh cho lập luận buộc tội và bào chữa, làm cơ sở cho
Tòa án ra phán quyết. Do đó, tranh luận tại phiên tòa không giới hạn về mặt
thời gian và bên buộc tội cũng như bên gỡ tội có quyền tranh luận dân chủ,
công khai theo quy định của pháp luật. HĐXX phải có phương pháp điều
hành hợp lý và tạo điều kiện cho các bên tranh luận, tránh việc thiên vị với bất
cứ bên nào hoặc hạn chế thời gian tranh luận. Tuy nhiên HĐXX cũng có
quyền cắt ý kiến của các bên nếu lặp lại ý kiến đã phát biểu tranh luận trước
đó, vì một vấn đề chỉ được tranh luận một lần.
Thứ ba, kết quả tranh luận tại phiên tòa là căn cứ quan trọng nhất để
HĐXX ra phán quyết. Phán quyết của HĐXX căn cứ vào kết luận điều tra qua
hồ sơ vụ án, căn cứ vào cáo trạng truy tố và quan trọng hơn nữa là căn cứ vào
kết quả tranh luận tại phiên tòa, cho dù kết quả này có thể khác so với toàn bộ
hoặc một số tình tiết cụ thể trong kết luận điều tra, bản cáo trạng.
11
1.1.2. Nội dung tranh luận
Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, xét đến cùng là tranh
luận giữa bên buộc tội và bên bào chữa (gỡ tội). Trong các chủ thể của bên
buộc tội, KSV là chủ thể chính trong việc thực hiện chức năng buộc tội trong
TTHS. Ngoài KSV, các chủ thể khác thuộc bên buộc tội (người bị hại, nguyên
đơn dân sự, người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của họ) cũng tham gia
vào việc tranh luận. Những người này có các quyền và nghĩa vụ nhất định khi
tham gia tố tụng, trong đó có quyền trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi
ích của mình khi tham gia tranh luận.
Các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự gồm: bị cáo, người bào chữa, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của họ. So với các chủ thể khác
thuộc bên bào chữa thì bị cáo luôn là chủ thể giữ vị trí trung tâm và cũng là
chủ thể có địa vị pháp lý bất lợi nhất. Vì vậy, để bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể này, pháp luật đã dành cho bị cáo có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình, các CQTHTT có trách nhiệm bảo
đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa theo quy định của pháp luật. Trọng
tâm nội dung tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là tranh luận giữa
KSV với bị cáo, nếu có người bào chữa thì KSV tranh luận với người bào
chữa.
Ngoài bị cáo, người bào chữa, các chủ thể khác thuộc bên bào chữa (bị
đơn dân sự, người đại diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền lợi của họ)
cũng có quyền tranh luận với KSV và các chủ thể khác về các vấn đề liên
quan đến bồi thường thiệt hại hoặc các vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa
vụ của mình. Tuy nhiên, vai trò của họ trong việc thực hiện chức năng bào
chữa nói chung và tranh luận tại phiên tòa hình sự nói riêng rất hạn chế.
12
Nội dung tranh luận tại phiên tòa hình sự bao gồm toàn bộ các quan
điểm, lập luận về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án hình sự mà các chủ
thể của bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra tại phiên toà, đề nghị HĐXX
chấp nhận hoặc bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án. Nội dung tranh luận của
các chủ thể tại phiên toà sơ thẩm hình sự cũng xoay quanh các vấn đề cần
chứng minh trong vụ án, bao gồm: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không,
thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người
thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng
lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự củabị cáo và những đặc điểm
nhân thân của bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra.
Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV thay mặt Nhà nước thực hiện quyền công tố
nhằm buộc tội bị cáo và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét
xử. Vì vậy, tranh luận và đáp lại ý kiến của các chủ thể khác tham gia tranh
luận tại phiên toà không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của KSV. Mở đầu
phần tranh luận, KSV trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ
hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn và đề xuất với
HĐXX về hướng giải quyết các vấn đề cụ thể trong vụ án. Như vậy, phụ
thuộc vào diễn biến phiên toà tại phần xét hỏi mà lời luận tội của KSV sẽ thực
hiện theo một trong ba hướng sau: giữ nguyên, thay đổi nội dung buộc tội (rút
một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn) hoặc rút toàn
bộ quyết định truy tố. Có thể thấy rằng, nếu quyết định truy tố (cáo trạng) của
VKS là căn cứ phát sinh giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thì lời luận
tội của KSV tại phiên tòa sơ thẩm là cơ sở để các bên tiến hành tranh luận về
các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Tại phiên toà KSV có thể thay đổi nội
dung buộc tội, tức là kết luận khác (so với quyết định truy tố) về nội dung,
13
tính chất của hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, vai trò
của bị cáo trong vụ án, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, nguyên nhân điều kiện phạm tội … và đề xuất hướng
giải quyết cụ thể về vụ án. Nội dung luận tội này của KSV (theo hướng có lợi
cho bị cáo) là cơ sở để xác định giới hạn xét xử vụ án tại phiên toà. Vì vậy,
nội dung tranh luận, đối đáp của người bào chữa, bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác chủ yếu tập trung vào nội dung lời luận tội của KSV trình
bày tại phiên toà.
Khi tranh luận với KSV và những người tham gia tố tụng khác, người
bào chữa đưa ra lý lẽ phân tích, đánh giá tính hợp pháp và độ tin cậy của các
chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra công khai tại phiên toà để làm cơ sở cho
các lập luận của mình và đề nghị HĐXX chấp nhận quan điểm của mình về sự
vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, về tội danh, điều
khoản BLHS và hình phạt áp dụng, bác bỏ quan điểm của KSV và của các
chủ thể khác về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Vai trò của người bào
chữa tại phiên toà cũng như ở phần tranh luận là rất quan trọng, tại đây người
bào chữa chứng minh về sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị cáo; giúp bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế XHCN. Ngoài ra, sự tham gia
của Luật sư bào chữa tại phiên toà còn bảo đảm tính dân chủ, sự bình
đẳnggiữa các bên tranh tụng cũng như để mọi hành vi tố tụng phải tuân thủ
các quy định của pháp luật.
Chất lượng và hiệu quả tranh luận tại các phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau như: sự hoàn thiện của
pháp luật; trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp và tinh thần
trách nhiệm của Thẩm phán, KSV; trình độ dân trí, hiểu biết của chủ thể khác
tham gia tranh luận.
14
1.1.3. Phân biệt tranh luận với tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự
Trong những năm gần đây, thuật ngữ “tranh tụng” được sử dụng khá phổ
biến trong khoa học pháp lý. Xét về khía cạnh thuật ngữ pháp lý, tranh tụng
được hiểu theo ba nội dung khác nhau: thứ nhất, được hiểu là một mô hình tố
tụng; thứ hai, được hiểu là một nguyên tắc TTHS; thứ ba, được hiểu là một
phương thức, là giai đoạn thực hiện vai trò của các chức năng đối lập nhau.
“Dù hiểu theo nghĩa nào thì tranh tụng luôn có bản chất là phương thức đi
tìm sự thật khách quan của vụ án mà hoạt động tố tụng hình sự muốn hướng
đến” [32, tr. 25-31]. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật của nước ta từ
trước đến nay nói chung và trong TTHS nói riêng đều ít đề cập đến thuật ngữ
“tranh tụng”. Thực tế là trong khoa học pháp lý có nhiều quan điểm, nhận
thức khác nhau về các khái niệm “tranh tụng” và “tranh luận” tại phiên toà.
Quan điểm thứ nhất cho rằng “Tranh tụng chính là quá trình tranh luận,
trao đổi giữa các bên. Trong tranh tụng, các quan điểm pháp lý khác nhau
được cọ sát và chân lý khách quan xuất hiện” [37, tr. 262]. Theo quan điểm
này thì “tranh tụng” và “tranh luận” tại phiên tòa là hai khái niệm đồng nhất
với sự tham gia đồng thời và đầy đủ của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên
bào chữa và Tòa án.
Quan điểm thứ hai cho rằng “Tranh luận là một thủ tục, một phần độc
lập của phiên tòa sơ thẩm … Thủ tục tranh luận thể hiện rõ nét nhất, tập
trung nhất nội dung của nguyên tắc tranh tụng. Tranh luận có nội hàm hẹp
hơn tranh tụng, là một phần của tranh tụng” [10, tr. 6-8]. Theo quan điểm
này, “tranh tụng” bao gồm không chỉ phần tranh luận tại phiên tòa mà còn cả
các phần khác của hoạt động xét xử (xét hỏi và nghị án), trong đó phần tranh
luận công khai tại phiên tòa thể hiện một cách tập trung và rõ nét nhất quá
trình tranh tụng.
15
Quan điểm thứ ba cho rằng “Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt
động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng,
nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của
phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung
gian, trọng tài” [37, tr. 807-808]. Quan điểm này là phù hợp khi cho rằng quá
trình tranh tụng bao gồm toàn bộ quá trình xét xử vụ án tại phiên tòa hình sự
bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên toà và kết thúc sau khi công bố phán
quyết của Toà án.
Như vậy, có thể khẳng định rằng “tranh tụng” và “tranh luận” tại phiên
tòa hình sự là các khái niệm không đồng nhất. Giữa chúng có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau, trong đó “tranh tụng tại phiên tòa” là cái chung (tổng thể) còn
“tranh luận tại phiên tòa” là cái riêng (bộ phân cấu thành). Khái niệm “tranh
tụng” có nội hàm rộng hơn, bao gồm không chỉ phần tranh luận mà cả các
phần khác của quá trình xét xử vụ án hình sự (thủ tục phiên toà, xét hỏi, nghị
án và tuyên án), còn “tranh luận” chỉ là một bộ phận cấu thành của “tranh
tụng”.
Xét về phạm vi, tranh tụng tại phiên tòa được bắt đầu từ thời điểm khai
mạc phiên tòa và kết thúc sau khi HĐXX công bố phán quyết về vụ án. Còn
tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm được bắt đầu bằng lời luận tội của KSV và
kết thúc trước khi bị cáo nói lời sau cùng.
Xét về chủ thể trong tranh tụng tại phiên tòa, tham gia và quá trình tranh
tụng tại phiên tòa gồm có bên buộc tội, bên bào chữa, HĐXX và cả những
chủ thể khác như người giám định, người phiên dịch, .... Còn chủ thể trong
tranh luận thì chỉ có bên buộc tội và bên bào chữa.
Xét về nội dung, tranh tụng bao gồm tất cả các vấn đề khác nhau cần giải
quyết trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án hình sự (từ khi khai mạc cho đến
khi kết thúc phiên toà) như: đề nghị triệu tập thêm người làm chứng, đưa ra
16
vật chứng hoặc tài liệu mới, thay đổi thành viên HĐXX, KSV, Thư ký Tòa
án, người giám định, người phiên dịch, … (ở phần thủ tục phiên tòa); HĐXX
và các bên tham gia vào quá trình điều tra công khai (xét hỏi) nhằm kiểm tra
xác minh các chứng cứ và các tình tiết về vụ án dưới sự điều khiển của Chủ
tọa phiên toà (ở phần xét hỏi); các bên đưa ra quan điểm, lập luận của mình
về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án (về đánh giá chứng cứ, về tội danh,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về áp dụng pháp luật,
hình phạt đối với bị cáo, về phần dân sự, về xử lý vật chứng,…) đề nghị
HĐXX chấp nhận hay bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án (ở phần tranh luận);
các thành viên HĐXX thảo luận về từng vấn đề cần giải quyết trong vụ án,
chấp nhận hay bác bỏ đề nghị cụ thể của các bên và ra phán quyết về vụ án
theo quyết định đa số (ở phần nghị án). So với tranh tụng, tranh luận tại phiên
tòa có nội dung hẹp hơn rất nhiều và chỉ bao gồm các vấn đề mà các bên tranh
luận, đối đáp với nhau ở phần tranh luận.
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa của tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự
Mục đích của tranh luận tại phiên tòa HSST là nhằm làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án. Dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa, các chủ thể
thuộc bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra quan điểm, lập luận của mình về
các tình tiết khách quan và hướng giải quyết vụ án nhằm thuyết phục HĐXX
chấp nhận đề nghị của mình và bác bỏ quan điểm, lập luận của phía bên kia.
Như vậy, có thể thấy tranh luận tại phiên tòa HSST có vai trò và ý nghĩa
rất lớn đối với quá trình xét xử vụ án thể hiện ở một số điểm sau đây: (1)
Tranh luận tại phiên tòa thể hiện tính minh bạch, công khai và dân chủ của
TTHS, qua đó chứng minh bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. (2) Việc tranh luận, đối
đáp của KSV với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
17
khác sẽ làm cho phiên tòa khách quan, sống động hơn, góp phần xóa bỏ tình
trạng xét xử theo kiểu “án bỏ túi” đã tồn tại trước đây mà dư luận xã hội đã
từng phê phán, đồng thời nâng cao uy tín của VKS, Tòa án cũng như củng cố
niềm tin của nhân dân vào công lý .
1.1.5. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên trong phần tranh luận tại phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự
Trong các chủ thể của bên buộc tội, KSV là chủ thể chính, có vai trò
trung tâm trong việc thực hiện chức năng buộc tội tại phiên tòa. Tại phiên tòa
KSV thay mặt Nhà nước thực hiện quyền công tố nhằm buộc tội bị cáo ra
trước Tòa án đồng thời KSV kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với hoạt
động xét xử. Vì vậy, tranh luận và đối đáp lại ý kiến của các chủ thể khác
tham gia tranh luận tại phiên toà không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của
KSV.
Tại phiên tòa HSST, ngoài việc công bố cáo trạng và tham gia xét hỏi,
mở đầu phần tranh luận KSV trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo
toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn và đề
xuất với HĐXX về hướng giải quyết các vấn đề cụ thể trong vụ án. Luận tội
phải hướng vào việc phân tích đánh giá các chứng cứ một cách khách quan,
toàn diện, đầy đủ; đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm, hậu quả gây ra, vai trò, trách nhiệm và nhân thân của bị cáo, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để đề xuất áp dụng pháp luật và vận dụng chính
sách xử lý cho phù hợp; khi nêu hành vi phạm tội phải viện dẫn các chứng cứ
để chứng minh bảo đảm logic và sắc bén. Phải phân tích, phê phán thủ đoạn
phạm tội của bị cáo; phân tích bác bỏ những quan điểm không phù hợp với vụ
án của những người tham gia tố tụng khác làm sáng tỏ sự thật, bảo vệ chính
sách pháp luật, thể hiện tính đấu tranh và tính thuyết phục của luận tội. Khi
phân tích bác bỏ các quan điểm không phù hợp phải viện dẫn các chứng cứ để
18
chứng minh. Phải xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, tuyên truyền
giáo dục pháp luật góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, vi
phạm pháp luật [37].
Ngoài việc luận tội,KSV còn phải đưa ra chứng cứ, lập luận để bác bỏ ý
kiến không có căn cứ của người bào chữa, bị cáo và những người tham gia
tranh luận khác nhằm làm sáng tỏ các tình tiết và sự thật khách quan của vụ
án để bảo vệ quan điểm truy tố của VKS. Việc đối đáp về từng vấn đề của
KSV phải rõ ràng, chặt chẽ về pháp lý và có sức thuyết phục cao trên cơ sở
tôn trọng sự thật khách quan, tránh suy luận chủ quan, mất bình tĩnh hoặc sử
dụng lời lẽ không phù hợp với văn hoá pháp đình.
1.2. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về tranh luận
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Tranh tụng nói chung và tranh luận tại phiên tòa hình sự nói riêng, từ sau
cách mạng tháng tám năm 1945 đến khi ban hành BLTTHS Việt Nam đầu
tiên (năm 1988), được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật khác
nhaunhư: Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945, Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946,
Sắc lệnh số 21 ngày 14/02/1946; Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992;
Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 1960; Thông tư số
16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án tối cao.
Đến năm 1988, BLTTHS đầu tiên của nước ta ra đời đã quy định tương
đối đầy đủ và cụ thể về trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên tòa (từ Điều 191
đến Điều 195). Tuy nhiên, sau gần 15 năm thực hiện (đã được 3 lần sửa đổi
bổ sung vào các năm 1990, 1992 và 2000), các quy định của BLTTHS năm
1988 nói chung và các quy định liên quan đến tranh luận tại phiên toà nói
riêng đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế không đáp ứng được yêu cầu cải cách
tư pháp ở nước ta trong tình hình mới. Vì vậy, ngày 26/11/2003, Quốc hội đã
19