Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Địa vị pháp lý của thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.83 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ MỸ GIANG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Lê Thị Mỹ Giang



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ
PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ ....................................................................................................................8
1.1. Lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự .........................................................................................................................8
1.2. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự ...............................................................................................14
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI ........................................44
2.1. Những kết quả đạt được .....................................................................................45
2.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân .....................................................53
CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...........70
3.1. Tăng cường triển khai các biện pháp bảo đảm thực hiện Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 về địa vị pháp lý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ............................70
3.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý
của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự .........................................71
3.3. Các giải pháp khác .............................................................................................74
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự


HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tòa án nhân dân

TPCTPT

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1:

Tình hình thụ lý và giải quyết án hình sự sơ thẩm tại tỉnh
Quảng Ngãi

Trang

46

2.2:

Tổng hợp các vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung

48

2.3:

Tổng hợp các vụ án có kháng cáo, kháng nghị

54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Xét xử các vụ án hình sự là một hoạt động thực hiện chức năng của Tòa án
theo Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Hoạt động này có vai trò quan
trọng đối với toàn bộ quá trình TTHS vì nó có khả năng kiểm soát việc thực hiện
các hoạt động tố tụng như điều tra, kiểm sát, giám định tư pháp, bào chữa... nhằm
đảm bảo đạt được mục đích chung của TTHS. Vì vậy, xét xử vụ án hình sự có vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, là một trong những hình thức thực hiện quyền lực
Nhà nước - quyền tư pháp.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện cải cách tư pháp một cách
toàn diện. Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết xác định Tòa án giữ vai trò
trung tâm trong hệ thống tư pháp, hoạt động của Tòa án là trọng tâm của hoạt động
tư pháp nên nhiệm vụ của hệ thống Toà án là rất quan trọng. Để thực hiện được mục
tiêu chung của chiến lược cải cách tư pháp thì hệ thống Tòa án phải "đổi mới việc tổ
chức phiên tòa xét xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân
chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây
là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [8]. Điều này tạo cho hệ thống Toà án Việt
Nam nhiều cơ hội song cũng đặt ra nhiều thách thức.
Việc xác định địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự nói chung
và trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng, xét cả dưới
góc độ lý luận và thực tiễn, không những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống
lý luận về hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức, hoạt động của các chức danh tư
pháp nói riêng, mà còn góp phần xây dựng các văn bản pháp luật về Tòa án, về
Thẩm phán cũng như việc hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của hệ thống
1



Tòa án. Trong TTHS, chế định địa vị pháp lý của Thẩm phán không chỉ liên quan
và ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án mà còn liên quan đến những chế
định quan trọng khác. Vì thế, có thể nói rằng hiệu quả của thủ tục TTHS phụ thuộc
một phần không nhỏ vào việc xác định đúng đắn địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự.
Mặt khác, địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay chưa
có cách hiểu thống nhất. Mặc dù Điều 39 Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán và quy định này đã được thực
hiện trong nhiều năm với những hiệu quả nhất định, song qua thực tiễn thi hành cho
thấy quy định này đã bộc lộ một số bất cập. Những bất cập này phần lớn đã được
sửa đổi bổ sung trong Điều 45 của Bộ luật TTHS năm 2015 và sắp được thi hành
với quy định mới về một số nhiệm vụ, quyền hạn của TPCTPT đang cần phải được
làm rõ để thực hiện có hiệu quả hơn.
Quảng Ngãi là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, có tổng
diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 5.153 km2, dân số 1,28 triệu người. Giai đoạn
2012 – 2016, thu ngân sách ước đạt 128.190 tỷ đồng, tăng bình quân 16,9%/năm.
Từ một tỉnh nghèo, Quảng Ngãi vươn lên thành một trong 10 địa phương thu ngân
sách cao, có điều tiết cho ngân sách trung ương. Thu nhập bình quân đầu người năm
2016 ước đạt 2.485 USD.
Hòa cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của địa phương, trải qua 27 năm xây
dựng và trưởng thành, hệ thống Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ngãi cũng đã
có những bước phát triển vượt bậc. Hằng năm, hai cấp Toà án đã thụ lý giải quyết
trên bốn nghìn vụ án các loại. Tuy số lượng các loại án năm sau luôn cao hơn năm
trước với nhiều vụ án rất phức tạp, nhưng tỉ lệ giải quyết các loại án của từng năm
luôn đạt và vượt chỉ tiêu đề ra; chất lượng giải quyết án luôn được nâng cao. Trong
xét xử án hình sự, hầu hết đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật, không
kết án oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tình hình các loại
tội phạm trong tỉnh có xu hướng diễn biến xấu; thủ đoạn phạm tội ngày càng xảo
quyệt, tinh vi, phạm tội có đồng phạm với nhiều vai trò thường chiếm tỷ lệ cao, hậu

2


quả do tội phạm gây ra tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đội ngũ
Thẩm phán Tòa án hai cấp tỉnh Quảng Ngãi hiện nay đã được trẻ hóa, được đào tạo
bài bản nhưng vẫn còn thiếu kinh nghiệm nên việc giải quyết các mâu thuẫn xã hội
khi giải quyết án hình sự vẫn còn những hạn chế nhất định. Một trong những
nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này thuộc về trách nhiệm của HĐXX, mà
trước hết và chủ yếu là thuộc về TPCTPT.
Chính vì những lý do trên, học viên chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” để làm
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ nhằm làm rõ thêm vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời, đề tài
cũng cho chúng ta cái nhìn khách quan về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật qua xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và các giải pháp khác bảo đảm thực hiện tốt địa vị pháp lý của TPCTPT
sơ thẩm vụ án hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến luận văn này, có một số công trình nghiên cứu sau:
+ Đề tài KX.04.06 (thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước 20012005): “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng
cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân” do Bộ Tư pháp chủ trì, được nghiệm thu năm 2007, Hà Nội.
Đề tài nghiên cứu sự phát triển nhận thức về quyền tư pháp và thực trạng
thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam; làm rõ những nội dung cơ bản của cải cách tư pháp
[3].
+ Đề tài mã số LH – 08 - 09/ ĐHL (Tháng 01/2009): “Hoàn thiện pháp luật
tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp”, chủ
nhiệm đề tài: Hoàng Thị Minh Sơn, Hà Nội.
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự nói chung và các chế
định của Bộ luật TTHS nói riêng về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, đánh giá thực tiễn

xét xử nhằm làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực tiễn, tìm ra những hạn chế vướng
mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật trong xét xử các vụ án
3


hình sự, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả
công tác xét xử các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp [44].
- Một số bài tham luận, bài viết trong các Hội thảo và bài viết đăng trên các
tạp chí chuyên ngành luật học:
+ Bài viết "Một số quy định của Bộ luật TTHS về quyết định của Tòa án
trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng" của tác giả PGS.TS
Hoàng Thị Minh Sơn đăng trên Tạp chí Luật học số 7/2009, Hà Nội.
Bài viết nghiên cứu, trao đổi về những bất cập trong thực tiễn áp dụng các
quy định của Bộ luật TTHS về quyết định của Tòa án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
[29].
+ Bài viết “Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ Thẩm phán trong tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Trần Thu Hạnh đăng trên Tạp
chí khoa học ĐHQGHN - khoa Luật số 25/2009, Hà Nội.
Bài viết nêu rõ, hoạt động xét xử là nơi thể hiện rõ nét nhất chất lượng xét xử
và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp, nơi thể hiện rõ nhất bản chất nhân dân, tính
công bằng, công lý và dân chủ trong hoạt động tư pháp trong đó thẩm phán có vai
trò trung tâm, là thành phần chính tạo nên chất lượng xét xử. Chất lượng xét xử và
hiệu quả hoạt động xét xử không chỉ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của hệ thống pháp
luật, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các thẩm phán mà còn phụ thuộc vào
trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ
thẩm phán [9].
+ Bài viết “Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của Thẩm phán trong
hoạt động xét xử” của tác giả Nguyễn Minh Sử đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân
số 14/2011, Hà Nội.
Kết quả đề tài và các bài viết trên rất đáng trân trọng, đã lý giải một số vấn

đề khá sâu sắc về chế định Thẩm phán và đề ra một số giải pháp cho việc hoàn thiện
pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán, tác giả các đề tài và các bài viết nghiên
cứu những vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của TPCTPT chủ yếu ở góc độ lý
luận hoặc tiếp cận một cách gián tiếp, mà chưa có một công trình nào nghiên cứu
đầy đủ, có hệ thống để giải quyết một cách toàn diện các vấn đề về địa vị pháp lý
4


của TPCTPT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự ở cả hai bình diện lý luận và
thực tiễn. Vì vậy, tác giả đã đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện
pháp luật về địa vị pháp lý của TPCTPT trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo
yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự [31].
Các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố trên đây là những tài
liệu tham khảo có giá trị, là cơ sở, nền tảng để nghiên cứu và thực hiện luận văn
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý
của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự, phản ánh thực trạng thực hiện những quy định
đó trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn
thiện pháp luật và các giải pháp khác bảo đảm thực hiện tốt địa vị pháp lý của
TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích mà luận văn đề ra, các nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra
là:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm địa
vị pháp lý của TPCTPT trong TTHS Việt Nam..., phân tích các quy định của pháp
luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của TPCTPT sơ thẩm vụ án
hình sự;

- Phân tích, đánh giá thực trạng về địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án
hình sự ở tỉnh Quảng Ngãi; làm rõ những mặt tích cực, những mặt còn hạn chế,
vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện quy định của pháp luật về địa vị pháp lý
của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự ở tỉnh Quảng Ngãi;
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, các quy định của pháp luật về
địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện ở tỉnh Quảng
5


Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện
hành (Bộ luật TTHS năm 2003) về địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự
trong mối liên hệ với Bộ luật TTHS năm 2015. Do Bộ luật TTHS năm 2015 đang lùi
thời điểm thi hành nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy
định của Bộ luật TTHS năm 2003 về địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án
hình sự tại tỉnh Quảng Ngãi.
Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp
luật về địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Quảng Ngãi từ
năm 2012 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về
cải cách tư pháp, về tổ chúc bộ máy nhà nước...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp như: Hệ
thống, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đi sâu nghiên cứu có hệ thống lý luận và
thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Quảng
Ngãi. Do đó luận văn bao hàm những ý nghĩa sau:
6.1. Ý nghĩa lý luận: Thông qua kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận và
quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự,
tác giả mong muốn góp phần vào việc phát triển lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm
phán, đồng thời gợi mở một số vấn đề để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần lưu
tâm trong việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đúng với mục
tiêu mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị đã đề ra.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở đánh giá thực trạng trong việc thực hiện quy
6


định của pháp luật về địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự và đề xuất
các giải pháp hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình
sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, luận văn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ đang
công tác tại Tòa án, đặc biệt là các Thẩm phán được phân công giải quyết án hình
sự sơ thẩm. Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng trong việc giảng dạy, nghiên
cứu khoa học tại các trường có đào tạo chuyên ngành luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, trang phụ bìa,
mục lục, danh mục bảng, luận văn có bố cục 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự;
Chương 2: Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Quảng Ngãi;

Chương 3. Các giải pháp đảm bảo thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ở tỉnh Quảng Ngãi.

7


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP
LÝ CỦA THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm địa vị pháp lý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, địa vị pháp lý nói
chung [47] là “tổng thể các điều kiện pháp lý mà pháp luật đòi hỏi để xác định cho
một chủ thể có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập”.
Theo từ điển Luật học [45] thì địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là vị trí
của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các
quy định của pháp luật. Là sự thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong
các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật
này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng
của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật.
TTHS được chia ra nhiều giai đoạn khác nhau. Tương ứng với mỗi giai đoạn
đó có các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, VKS, Toà án và một số
cơ quan được tiến hành một số hoạt động tố tụng như Kiểm lâm, Bộ đội biên
phòng... Đối với mỗi cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật quy định những người có

thẩm quyền thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật
TTHS và những người đó được gọi là những người tiến hành tố tụng với địa vị pháp
lý rất khác nhau. Những người tiến hành tố tụng có chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn riêng, nhưng đều có trách nhiệm là phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý
8


công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội.
Theo từ điển Luật học [45] và theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân [48] định nghĩa "Thẩm phán là người
được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và
giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án".
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của TTHS trong đó Tòa án có
thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo
quy định của pháp luật [30, tr.343]; phiên tòa hình sự sơ thẩm là hình thức tố tụng
của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Phiên tòa hình sự sơ thẩm là nơi mà các bên thực
thi chức năng tố tụng của mình một cách công khai và đầy đủ nhất. KSV tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm là người thực hiện chức năng buộc tội - thực hành quyền công
tố trước phiên tòa. Bị cáo và người bào chữa của họ là bên thực hành chức năng bào
chữa; Tòa án sẽ nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử, là chủ thể phán
xét, xác định bị cáo có tội hay không có tội cũng như áp dụng loại và mức hình phạt
cụ thể trong trường hợp bị cáo có tội [51].
Địa vị pháp lý của TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự bao gồm vị trí, vai trò,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm mà pháp luật TTHS quy định nhằm bảo đảm để
TPCTPT thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm này được phát sinh từ thời
điểm Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên toà để xét xử vụ án và kết thúc sau
khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
1.1.1.2. Đặc điểm địa vị pháp lý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm

vụ án hình sự
Như đã phân tích trên, TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự là người được bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử; được Chánh án phân
công giải quyết, xét xử vụ án hình sự và có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán được quy định trong Bộ luật TTHS. Địa vị pháp lý của
TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự có đặc điểm sau:
+ TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự là một chức danh tư pháp quan trọng, là
9


người thực hiện quyền tư pháp.
+ TPCTPT là người thực hiện quyền xét xử chính tại một phiên tòa có thể là
chủ tọa một mình trong trường hợp vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc một
thành viên trong HĐXX gồm một Thẩm phán, hai Hội thẩm hoặc gồm hai Thẩm
phán, ba Hội thẩm;
+ TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự là người điều khiển phiên tòa xét xử, đảm
bảo mọi thủ tục, trình tự diễn ra theo quy định của pháp luật;
Với vị trí chủ tọa phiên tòa, TPCTPT là người điều khiển toàn bộ hoạt động
tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng khác, đồng thời thay mặt HĐXX công bố những quyết định tố tụng, tuyên án
và ký phát hành bản án. Với tư cách là người điều khiển phiên tòa, TPCTPT là
người tổ chức và chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng
tại phòng xử án.
+ TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự thực hiện việc xét xử một cách không
thiên vị tại phiên tòa công khai (trừ trường hợp xử kín) theo quy định của pháp luật;
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, người bị VKS truy tố và Toà án quyết định
đưa vụ án ra xét xử thì vẫn chưa bị coi là người có tội, nên họ chỉ bị hạn chế một số
quyền công dân. Trong hoạt động tố tụng, TPCTPT không được mang định kiến
chủ quan áp vào bị cáo, đặc biệt TPCTPT phải đảm bảo các quyền của bị cáo tại
phiên tòa như quyền được tự bào chữa và bào chữa, quyền được trình bày, quyền

cung cấp chứng cứ..., không được mớm cung, dụ cung, đảm bảo sự bình đẳng giữa
bên buộc tội và gỡ tội trong việc tranh tụng tại phiên tòa để đảm bảo cho hoạt động
chứng minh tội phạm được thực hiện một cách khách quan, toàn diện nhằm đảm
bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm địa vị pháp lý của TPCTPT sơ
thẩm vụ án hình sự như sau:
Địa vị pháp lý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là vị
trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán từ thời điểm được
phân công giải quyết, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đến khi kết thúc thời hạn kháng
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
10


1.1.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự
- Trong việc thực hiện quyền tư pháp
Thẩm phán có vị trí rất quan trọng và có vai trò không thể thay thế trong việc
thực hiện một trong những quyền lực nhà nước - quyền tư pháp. Trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, TPCTPT có vị trí trung tâm trong việc thực hiện nhiệm vụ xét
xử và có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Để đảm bảo thực hiện tốt vai trò của mình, khi tiến hành các hoạt động tố tụng
TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như: Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân; không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật; tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật; xác định sự thật khách quan của vụ án.
- Trong việc thực hiện chức năng xét xử

TPCTPT là người thay mặt cho Nhà nước thực hiện chức năng xét xử, vì vậy
thông qua hoạt động xét xử của mình, Thẩm phán có vai trò (góp phần) bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân. Hoạt
động của TPCTPT là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng hoạt động
xét xử nói chung cũng như hoạt động của cơ quan tư pháp.
- Trong việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
Trong quá trình xét xử, Thẩm phán có vai trò quyết định trong việc bảo đảm
chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Tại phiên tòa, TPCTPT có vai
trò trọng tài hướng dẫn, điều khiển, tạo điều kiện để bên buộc tội và bên gỡ tội thực
hiện quyền tranh tụng theo quy định của pháp luật. Thông qua kết quả tranh tụng,
cùng với HĐXX, TPCTPT đánh giá chứng cứ do các bên trình bày để xác định sự
thật khách quan của vụ án, làm cơ sở cho việc ra bản án, quyết định đúng pháp luật.
11


Ngoài những vai trò, trên TPCTPT còn có vai trò trong việc tuyên truyền,
phổ biến pháp luật; vai trò trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án; vai trò
trong việc thực hiện các nguyên tắc khác của tố tụng hình sự...
1.1.3. Mối quan hệ giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự với một số chức danh tư pháp khác
- Quan hệ giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự với
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án
Trong hoạt động của Tòa án nhân dân, Chánh án, Phó chánh án là người
đứng đầu cơ quan Tòa án, lãnh đạo toàn bộ hoạt động của Tòa án trong hoạt động
của cơ quan nhà nước, còn Thẩm phán tiến hành các hoạt động của mình với tư
cách là một nhân viên, cán bộ trong cơ quan Tòa án. Đây là mối quan hệ quản lý
hành chính. Điều này có nghĩa là, Chánh án, Phó chánh án chỉ có thể quản lý về mặt
nhân sự (con người). Trong hoạt động nghiệp vụ, Lãnh đạo Tòa án không có quyền
can thiệp vào công việc xét xử của TPCTPT. Tuy nhiên, TPCTPT sơ thẩm vụ án

hình sự phải chịu sự phân công công việc của Chánh án, Phó chánh án theo quy
định của pháp luật.
- Quan hệ giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự với
Thẩm phán khác trong Hội đồng xét xử
Quan hệ giữa TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự với Thẩm phán khác trong Hội
đồng xét xử là quan hệ tố tụng. Trong hoạt động xét xử, Thẩm phán hoàn toàn độc
lập không phụ thuộc và bất kỳ ai kể cả lãnh đạo Tòa án. Chánh án, Phó chánh án khi
là thành viên của Hội đồng xét xử cũng có vai trò và nhiệm vụ quyền hạn của một
Thẩm phán. Trường hợp HĐXX sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm thì
TPCTPT vẫn giữ vai trò và nhiệm vụ, quyền hạn như trên đã phân tích. Còn Thẩm
phán tham gia trong HĐXX vẫn chịu sự điều khiển và phân công của TPCTPT.
- Quan hệ giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự với Hội
thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử
Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra theo sự giới thiệu
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Trong TTHS, hoạt động của Hội thẩm nhân
dân là hoạt động kiêm nhiệm. Hội thẩm không phải là cán bộ của Tòa án nhưng
12


chịu sự phân công của Chánh án. Hội thẩm là người đại diện cho nhân dân tham gia
vào hoạt động xét xử góp phần bảo đảm dân chủ trong hoạt động tố tụng. Mối quan
hệ giữa TPCTPT sơ thẩm vụ án hình sự với Hội thẩm là mối quan hệ độc lập. Độc
lập ở đây là độc lập trong suy nghĩ, độc lập trong việc biểu quyết các vấn đề trong
việc giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên mọi quyết định của Hội đồng xét xử đều bị
ràng buộc bởi nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Trừ
trường hợp vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn); nguyên tắc Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa xét xử
TPCTPT vẫn giữ vai trò trung tâm từ phần thủ tục bắt đầu phiên tòa đến khi nghị án
và tuyên án.
- Quan hệ giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự với Kiểm

sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa
Thẩm phán và KSV là hai chức danh tư pháp chủ yếu trong tố tụng hình sự
để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Mỗi một khâu làm tốt sẽ tạo tiền đề, điều
kiện để khâu sau đạt hiệu quả cao, cần có quan hệ phối hợp để giải quyết vụ án hình
sự đúng đắn, khách quan theo luật định; nhằm tìm ra nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, kiến nghị hoặc yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, trong hoạt động TTHS, hành vi tố tụng
của TPCTPT và KSV phải có sự kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau nhằm tuân thủ pháp
luật, tránh lạm quyền.
- Quan hệ giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự với thư ký
Tòa án được phân công tiến hành tố tụng
Thư ký Tòa án được phân công tiến hành tố tụng có các nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm được quy định tại Điều 41 Bộ luật tố tụng hình sự. Giữa TPCTPT
với thư ký Tòa án được phân công tiến hành tố tụng là quan hệ tố tụng.
- Quan hệ giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự với lực
lượng bảo vệ phiên tòa
Đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa là Cảnh sát thi hành án
hình sự và hỗ trợ tư pháp các cấp trong Công an nhân dân, lực lượng này có nhiệm
vụ áp giải bị cáo, dẫn giải người làm chứng đến phiên tòa và bảo vệ phiên tòa theo
13


yêu cầu của Tòa án. Quan hệ giữa TPCTPT với lực lượng này là quan hệ phối hợp.
- Quan hệ giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự với các
chức danh bổ trợ tư pháp khác
Hoạt động bổ trợ tư pháp nhằm góp phần hỗ trợ cho cơ quan tư pháp thực
hiện tốt chức năng, quyền hạn của mình. Các chức danh bổ trợ tư pháp là người
tham gia tố tụng bao gồm luật sư, trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa hoặc là
người bảo vệ quyền lợi của đương sự và giám định viên. Quan hệ giữa TPCTPT với
các chức danh bổ trợ tư pháp chỉ phát sinh trong những vụ án cụ thể. Nếu vụ án đó

không đòi hỏi phải có kết quả giám định hoặc không có luật sư tham gia thì mối
quan hệ này không xuất hiện. Quan hệ giữa TPCTPT với các chức danh bổ trợ tư
pháp là quan hệ chấp hành sự điều hành. Biểu hiện cụ thể, đó là hoạt động TTHS
của những người này mang tính phục tùng sự điều khiển của TPCTPT, họ không
được từ chối tham gia tố tụng trong trường hợp luật định.
1.2. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Theo quy định tại Luật tổ chức Tòa án thì, Thẩm phán là người có đủ điều
kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm
nhiệm vụ xét xử. Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 2 của
Luật này và các luật có liên quan” [20].
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu cho toàn bộ hoạt động xét
xử và cũng là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động TTHS, nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội cũng như quyền và lợi ích chính đáng của công
dân. Việc xét xử vụ án hình sự có thể phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,
nhưng xét xử sơ thẩm là bắt buộc đối với mọi vụ án hình sự nếu không thuộc trường
hợp phải đình chỉ vụ án trước khi mở phiên tòa. Trên cơ sở cáo trạng của VKS
chuyển sang, Toà án cấp sơ thẩm lần đầu tiên đưa vụ án ra xem xét công khai tại
phiên toà nhằm ra bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật (Trừ
trường hợp vụ án bị HĐXX phúc thẩm; Hội đồng Giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản
án sơ thẩm án đề điều tra, xét xử lại).
Khoản 1 Điều 39 Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định, khi được phân công
14


giải quyết, xét xử vụ án hình sự, Thẩm phán có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1.2.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa
1.2.1.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Chuẩn bị xét xử là giai đoạn đầu tiên có ý rất quan trọng đối với toàn bộ quá
trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền phải chuẩn bị và
tiến hành các việc làm cần thiết để đảm bảo cho việc xét xử đúng pháp luật. Chuẩn
bị xét xử là khoảng thời gian mà Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa
nghiên cứu hồ sơ và quyết định những công việc về phần thủ tục cũng như nội dung
để chuẩn bị cho việc mở phiên tòa.
Theo quy định của pháp luật TTHS thì hồ sơ vụ án đã được Cơ quan điều tra,
VKS thu thập trước khi chuyển sang Tòa án. Thẩm phán hoàn toàn không được
tham gia, chứng kiến các hoạt động điều tra, thu thập tài liệu của các cơ quan trên.
Do đó, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án là hết sức quan trọng; mục đích để ra một trong
các quyết định tại khoản 2 Điều 176 Bộ luật TTHS, phát hiện những vi phạm của cơ
quan điều tra và chuẩn bị tài liệu để TPCTPT sử dụng trong quá trình xét xử. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 176 Bộ luật TTHS thì "sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm
phán có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những
người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên
tòa" [21]. Những người tham gia tố tụng có quyền đưa ra chứng cứ và đưa ra những
yêu cầu để bảo vệ quyền lợi của mình. Thẩm phán phải giải quyết các khiếu nại và
yêu cầu của họ như đề xuất thêm chứng cứ mới, đề nghị các biện pháp đảm bảo bồi
thường... Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ
án, tránh chủ quan. Các vụ án hình sự thường đa dạng, phức tạp và các bị can, bị
cáo thường sử dụng nhiều thủ đoạn để che giấu tội phạm hoặc cũng có trường hợp
Điều tra viên, KSV cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án... Vì vậy, nếu Thẩm phán
nghiên cứu hồ sơ không kỹ sẽ dẫn đến xét xử không đúng pháp luật hoặc làm oan người
vô tội.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa khi
15


chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cụ thể như sau:
- Việc đầu tiên là xác định vụ án có thuộc thẩm quyền của Toà án cấp mình

hay không. Nếu phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp mình hoặc
có tranh chấp về thẩm quyền xét xử thì báo cáo Chánh án xem xét, giải quyết theo
quy định tại Điều 174 và Điều 175 Bộ luật TTHS.
- Sau khi nhận hồ sơ vụ án Thẩm phán cần xác định chính xác thời hạn chuẩn
bị xét xử đối với vụ án để có kế hoạch tiến hành các công việc cần thiết cho việc mở
phiên tòa bảo đảm đúng thời hạn luật định. Thời hạn chuẩn bị xét xử là 30 ngày đối
với tội phạm ít nghiêm trọng; 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng; 60 ngày đối
với tội phạm rất nghiêm trọng và 90 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,
kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án. Trong thời hạn này Thẩm phán phải ra một trong các
quyết định:
+ Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử khi thấy hồ sơ vụ án đã rõ
ràng, đầy đủ các chứng cứ, đặc biệt là chứng cứ buộc tội hoặc sau khi trả hồ sơ để
điều tra bổ sung nhưng VKS cho rằng việc điều tra đã đầy đủ, không thể điều tra
thêm, không cần thay đổi tội danh nặng hơn, hoặc truy tố thêm người, thêm tội.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử xác định vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án và tư
cách tố tụng của người bị truy tố là bị cáo.
+ Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nhằm khắc phục
những thiếu sót hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra,
truy tố. Theo Điều 179 Bộ luật TTHS thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho
VKS để điều tra bổ sung trong những trường hợp sau: Khi thấy cần xem xét thêm
những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;
khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; khi
phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Về các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã được hướng dẫn cụ thể tại
Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT ngày 27/8/2010 của Bộ Công an - Viện kiểm
sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung không được nêu chung chung mà phải xác định rõ những vấn đề cần được điều
tra bổ sung. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì VKS ra
16



quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết. Nếu VKS không bổ sung
được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy
tố thì chuyển hồ sơ lại cho Tòa án. Khi nhận lại hồ sơ, trong thời hạn mười lăm
ngày, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử [2].
+ Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án nhằm tạm dừng việc giải
quyết đối với vụ án hoặc đối với bị can, bị cáo khi có một trong những trường hợp
sau:
Bị can bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác có giấy chứng nhận
của Hội đồng giám định pháp y. Trong trường hợp bị can bị bệnh tâm thần, khi ra
quyết định tạm đình chỉ vụ án Tòa án có thể ra quyết định áp dụng biện pháp bắt
buộc chữa bệnh. Nếu bị can bị bệnh hiểm nghèo thì Thẩm phán ra quyết định tạm
đình chỉ vụ án cho đến khi bị can khỏi bệnh; sau khi bị can khỏi bệnh, Thẩm phán ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử nếu không có căn cứ đình chỉ vụ án.
Trường hợp không biết rõ bị can ở đâu, Tòa án yêu cầu Cơ quan điều tra truy
nã bị can. Đến khi hết thời hạn chẩn bị xét xử mà việc truy nã không có kết quả thì
Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án. Trong trường hợp đã mở phiên tòa mà
bị cáo bỏ trốn thì HĐXX ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều
tra truy nã bị cáo.
Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ tạm đình chỉ
không liên quan đến tất cả bị can, bị cáo thì Thẩm phán có thể ra quyết định tạm
đình chỉ đối với từng bị can, bị cáo. Nếu Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ
án thì quyết định này phải được giao cho bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị
hại, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, VKS cùng cấp và gửi giấy báo cho
những người tham gia tố tụng khác.
+ Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án nhằm dừng tiến trình tố tụng hình
sự đối với vụ án hoặc đối với bị can, bị cáo khi có một trong các căn cứ sau: Bị can
chưa đến tuổi chịu tránh nhiệm hình sự; hành vi phạm tội của bị can đã có bản án
hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá; bị can chết; người bị hại rút yêu cầu trước

ngày mở phiên tòa đối với những vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại; VKS rút
17


toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa.
Quyết định đình chỉ vụ án phải được giao cho bị can, bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo và gửi ngay cho VKS cùng
cấp. Tòa án phải gửi giấy báo về nội dung quyết định đình chỉ cho những người
tham gia tố tụng khác. Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để
đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì có thể đình chỉ vụ án
đối với từng bị can, bị cáo.
Đối những vụ án phức tạp (như vụ án có nhiều bị can, phạm tội có tổ chức
hoặc phạm nhiều tội; vụ án liên quan đến nhiều lĩnh vực hoặc nhiều địa phương; vụ
án có nhiều tài liệu, các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thời gian để nghiên
cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án hoặc để bổ sung chứng cứ, tài liệu, tham khảo ý
kiến của cơ quan chuyên môn) thì Thẩm phán báo cáo Chánh án để gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm
nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
- Áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế
rất nghiêm khắc ảnh hưởng rất lớn đến quyền tự do cá nhân và lợi ích hợp pháp của
công dân. Vì vậy, khi áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, Thẩm
phán cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, cân nhắc thận trọng, kịp thời, đặc biệt là đối
với những vụ án lớn, phức tạp; nhiều bị cáo hoặc hồ sơ quá nhiều trang. Cần chú ý:
Thẩm phán Tòa án cấp sơ thẩm không có quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn là biện pháp tạm giam, đây là thẩm quyền của Chánh án, Phó
Chánh án.
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn phải gửi ngay cho bị
can, bị cáo, VKS cùng cấp, trại tạm giam nơi bị can, bị cáo đang bị tạm giam.
- Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán phải tiến hành ngay việc nghiên cứu

hồ sơ (cả về thủ tục tố tụng và về nội dung), xem xét các khiếu nại và yêu cầu của
người tham gia tố tụng. Về thủ tục tố tụng cần nghiên cứu xem xét việc tiến hành
điều tra, truy tố có tuân thủ các quy định của pháp luật hay không để có quyết định
phù hợp. Về nội dung, cần nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các tài liệu có trong hồ sơ
18


vụ án, từng tình tiết, hành vi của vụ việc, từng tội danh đối với từng bị cáo; xác định
những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm
phán cần lưu ý các vấn đề sau: Trong số các bị can, bị cáo bị truy tố, có bị can nào
bị truy tố về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình hay không; có bị
can nào có thể bị đưa ra xét xử về tội đó nhưng theo khung hình phạt khác có mức
cao nhất là tử hình hay không? Nếu thuộc một trong các trường hợp này thì khi ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử, HĐXX phải gồm 5 thành viên và cần bảo đảm
quyền bào chữa cho họ; nếu trong vụ án có bị can là người chưa thành niên, thì phải
tuân thủ các quy định của Bộ luật TTHS đối với người chưa thành niên phạm tội;
nếu có bị can là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì phải đảm bảo
quyền bào chữa cho họ. Nếu bị can, bị cáo có người bào chữa hoặc trường hợp phải
yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa thì Thẩm phán phải tạo điều kiện để họ
nghiên cứu hồ sơ để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Như vậy, sau khi nghiên
cứu hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà phải làm rõ được các vấn
đề sau: Vụ án có thuộc thẩm quyền của mình hay không? Đã có đủ chứng cứ làm
sáng tỏ nội dung vụ án hay chưa? Việc điều tra có được tiến hành đúng quy định
của pháp luật hay không? Hành vi mà bị cáo bị truy tố có cấu thành tội phạm hay
không? Đã thu giữ đầy đủ tang vật chưa? Có cần áp dụng biện pháp ngăn chặn hoặc
biện pháp đảm bảo bồi thường không?
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán phải ghi chép tóm tắt những
chứng cứ xác định có tội và không có tội; tổng hợp các chứng cứ về vụ án. Việc ghi
chép này giúp cho Thẩm phán không chỉ nắm vững các tình tiết của vụ án, xác định
đúng thành phần cần triệu tập tham gia phiên tòa, lập kế hoạch xét hỏi, dự thảo bản

án,... mà còn chủ động trong quá trình xét xử vụ án tại phiên tòa. Thẩm phán cần
xác định chính xác căn cước của bị cáo để bảo đảm xét xử đúng người. Khi có
những vấn đề về khoa học kỹ thuật, nghệ thuật, nguyên nhân chết, mức độ thương
tích..., Thẩm phán cần xem cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định chưa. Nếu nghi
ngờ về tình trạng tâm thần của người bị truy tố thì cần xem xét về việc trưng cầu
giám định để xác định năng lực trách nhiệm hình sự của họ. Thẩm phán phải xác
định và đánh giá tất cả tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ một cách tổng hợp, khách
19


quan, toàn diện, với đầy đủ tinh thần trách nhiệm của mình.
- Việc tiếp theo Thẩm phán phải lập kế hoạch xét hỏi thật cụ thể, hợp lý bao
quát đầy đủ các tình tiết của vụ án; các vấn đề phải chứng minh trong vụ án; dự kiến
được các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa và phương án xử lý phù hợp… Cần
xác định rõ hỏi ai trước, ai sau; tình tiết nào trước, tình tiết nào sau; câu hỏi cụ thể
đặt ra cho ai và như thế nào... Tránh đặt những câu hỏi mang tính chất gợi ý, mớm
cung hay ép cung; các câu hỏi mà bị cáo chỉ có thể trả lời "có" hoặc "không" hoặc
các câu hỏi đã bao hàm câu trả lời trong đó, có tính chất quy kết, suy diễn,... Kế
hoạch xét hỏi giúp cho Thẩm phán chủ động điều hành quá trình xét hỏi tại phiên
toà để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Tuy nhiên, tại phiên tòa Thẩm phán phải
điều chỉnh linh hoạt (thêm hoặc bớt câu hỏi) cho phù hợp với diễn biến thực tế của
phiên toà, không máy móc, rập khuôn phụ thuộc hoàn toàn vào kế hoạch xét hỏi.
Trong kế hoạch xét hỏi cần chú ý dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên toà
và phương án xử lý cho phù hợp như: bị cáo phản cung, chỉ nhận một phần hành vi
phạm tội, đổ lỗi do bị ép cung ở giai đoạn điều tra, người làm chứng thay đổi lời
khai;...
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy cần thiết, trong các trường hợp
sau đây Thẩm phán có thể chủ động trao đổi KSV được phân công tham gia phiên
toà: Có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung; thay đổi tội danh nặng hơn tội danh
VKS truy tố; có căn cứ đình chỉ; cần nhập hoặc tách vụ án; chuyển vụ án cho Tòa

án khác giải quyết; vụ án phức tạp hoặc được đưa ra xét xử điểm;…Trường hợp cần
thiết có thể báo cáo để lãnh đạo của Toà án và VKS cùng tham gia trao đổi.
- Các công việc khác chuẩn bị cho việc mở phiên tòa sơ thẩm:
+ Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán xác định thành
phần tham gia phiên toà để triệu tập họ đến phiên tòa. Việc triệu tập này phải bằng
văn bản và việc giao nhận phải lập biên bản có chữ ký của đương sự, nếu đương sự
vắng mặt thì thân nhân ký nhận thay. Về nguyên tắc, hình thức văn bản đối với
những người tham gia tố tụng phải là giấy triệu tập, bởi vì tham gia phiên tòa là
quyền và nghĩa vụ của họ.
+ Sau khi ban hành, các quyết định giao, gửi cho các đối tượng nhận ghi
20


×