Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tội tham ô tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.77 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG CÔNG TIẾN

TỘI THAM Ô TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG CÔNG TIẾN

TỘI THAM Ô TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
:
60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Tội tham ô tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Bình Định” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng
dẫn của thầy GS.TS Võ Khánh Vinh. Tôi xin cam đoan số liệu, ví dụ nêu
trong Luận văn là hoàn toàn trung thực, chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các thông tin và tài liệu trích dẫn trong Luận văn đã được ghi
rõ nguồn gốc.
Tác giả Luận văn

Đặng Công Tiến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
THAM Ô TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ............. 8
1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản theo luật hình sự Việt Nam ......................... 8
1.2. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội tham ô tài sản ............... 9
1.3. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác ............................ 24
1.4. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật hình sự về tội tham ô tài
sản giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985 ....................................................... 28
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN TẠI TỈNH BÌNH

ĐỊNH .............................................................................................................. 35
2.1. Khái quát về tình hình xét xử tội tham ô tài sản tại tỉnh Bình Định ........ 35
2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội tham ô tài sản tại tỉnh Bình Định ..... 39
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản tại tỉnh Bình
Định ................................................................................................................. 52
2.4. Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội
tham ô tài sản tại tỉnh Bình Định .................................................................... 61
CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI THAM Ô TÀI
SẢN ................................................................................................................. 65
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản ...... 65
3.2. Tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội
tham ô tài sản................................................................................................... 70
3.3. Nâng cao năng lực của những người áp dụng pháp luật hình sự ............. 72
3.4. Các giải pháp khác ................................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

GS.TS


Giáo sư. Tiến sĩ

Nxb

Nhà xuất bản

PGS.TS

Phó Giáo sư. Tiến sĩ

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
1.1.


1.2.

1.3.

Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm
khác
Cơ cấu tội tham ô tài sản so với tổng số vụ phạm tội
tham nhũng (2011 – 2015)
Hình phạt áp dụng đối với tội tham ô tài sản 20112015

Trang

25

36

56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với mục tiêu xây dựng bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân và thật sự
trong sạch, vững mạnh, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tệ tham ô là một
căn bệnh, là hành động xấu xa nhất. Người cho rằng: “Tham ô là lấy của công
làm của tư. Là gian lận tham lam”, “Tham ô là trộm cướp”. Hồ Chí Minh cho
rằng: “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là lấy của công làm của tư; đục
khoét của nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của
chung của chính phủ làm quỹ riêng cho địa phương, đơn vị mình cũng là tham
ô. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là “ăn cắp của công, khai gian lậu

thuế”[30].
Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta luôn coi tham nhũng là một
trong bốn nguy cơ lớn của đất nước và luôn khẳng định quyết tâm đấu tranh
phòng, chống tham nhũng là một nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài. Tiếp nối tư
tưởng này của Đảng từ các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX,
X, XI, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định
“Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Hiến pháp năm
2013, tại khoản 2 Điều 8 đòi hỏi: “…Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,
viên chức phải thực sự tôn trọng nhân dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, lắng
nghe ý kiến nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.
Trong thời gian qua, cả hệ thống chính trị đã có nhiều nỗ lực, quyết tâm cao
trong việc thực hiện các giải pháp về công tác phòng, chống tham nhũng, đặc
biệt là nhiều vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm
được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh như vụ Công ty
TNHH sữa chữa tàu biển (Vinalines), vụ Công ty cho thuê tài chính II Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam…; đã góp phần quan trọng
1


trong việc kiềm chế, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí trên địa bàn cả
nước. Tuy nhiên công tác phòng, chống tham nhũng vẫn chưa đạt yêu cầu và
mục tiêu theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) là “ngăn chặn, từng
bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm
trọng, với nhũng biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều
cấp, nhiều ngành. Tham nhũng có tính “lợi ích nhóm” đã xuất hiện trong một số
lĩnh vực. Tham nhũng vẫn đang là lực cản sự phát triển kinh tế - xã hội của nước
ta, vẫn là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay, là thách thức nghiêm
trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe
dọa sự tồn vong của chế độ [3].

Bình Định là 1 trong 5 tỉnh, thành phố ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ,
nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi,
phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, phía Tây giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp biển
Đông. Diện tích tự nhiên 6.025km2; dân số năm 2014 là 1.578.800 người. Có 32
dân tộc thiểu số, với khoảng 32.500 người (chiếm 2% dân số toàn tỉnh). Tỉnh có
11 huyện, thị xã, thành phố, với 159 xã, phường, thị trấn; 1.120 thôn, làng, khu
phố. Tỉnh ủy Bình Định có 17 đảng bộ trực thuộc, với 837 tổ chức cơ sở đảng,
43.908 đảng viên. Trên địa bàn tỉnh có trên 2.800 doanh nghiệp, với số lượng
công nhân lao động là 189.000 người.
Những năm qua, nền kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng khá (Giá trị tổng
sản phẩm địa phương tăng bình quân trên 9%/năm), kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội được đầu tư, nâng cấp đáng kể, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển; hoạt
động trên lĩnh vực văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ. Quốc phòng – an ninh
được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hệ thống chính trị tiếp
tục được củng cố kiện toàn. Đời sống nhân dân cơ bản ổn định. Gắn liền với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường
vụ Tỉnh ủy luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến lãnh đạo, chỉ đạo công tác
phòng, chống tham nhũng; cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể các cấp đã có
2


nhiều cố gắng quyết tâm trong việc tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ các giải
pháp về phòng ngừa tham nhũng. Các vụ việc, vụ án tham nhũng được các cơ
quan công an, viện kiểm sát, tòa án xử lý kịp thời và nghiêm minh, được dư luận
nhân dân đồng tình, góp phần quan trọng trong việc phòng, chống và hạn chế
thấp nhất tình hình tham nhũng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng nói chung, tham ô tài sản nói
riêng vẫn còn những vướng mắc, tồn tại, có một phần nguyên nhân quan trọng
đó là Bộ Luật Hình sự năm 1999 đã có hiệu lực pháp luật hơn 15 năm, nhiều
quy định không còn phù hợp hoặc chưa được hướng dẫn, giải thích cụ thể nên

dẫn đến hiệu quả còn hạn chế đã và đang đặt ra vấn đề với các nhà lập pháp
trong quá trình hoàn thiện pháp luật cũng như các cơ quan tư pháp trong điều
tra, truy tố, xét xử tội tham ô tài sản.
Việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận
mà còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần cho công cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình Định nói riêng và trên địa bàn cả nước nói
chung. Do vậy, học viên chọn đề tài “Tội tham ô tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tội tham ô
tài sản. Loại tội phạm này được đề cập, phân tích trong một số đề tài, đề án và
giáo trình, sách tham khảo như: Đề tài, đề án “Nghiên cứu đấu tranh chống
tham nhũng”, “Góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự về tội tham
nhũng ở Việt Nam trong tình hình hiện nay”, Tổng kết “Một số vấn đề lý luận –
Thực tiễn 30 năm đổi mới (1986 – 2016) về tư pháp – nội chính và phòng, chống
tham nhũng, lãng phí” của Ban Nội chính Trung ương; nghiên cứu Giáo trình
Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2003 của tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên; giáo trình Luật Hình sự
Việt Nam (tập II) của tập thể tác giả do GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb
3


Công an nhân dân; giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb Công an nhân
dân Hà Nội của tập thể tác giả do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên… Hoặc được
đề cập trong một số bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành như: “Bàn về chủ thể
của tội tham ô tài sản” của tác giả Trương Thị Hằng đăng trong Tạp chí Kiểm
sát số 6/2006; “Việc xác định tội tham ô tài sản trong cơ chế thị trường” của tác
giải Đinh Khắc Tiến đăng trong Tạp chí Kiểm sát số 6/2006; Luận văn thạc sĩ
“Tội tham ô tài sản trong Luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn
Cường và “Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ

thực tiễn tỉnh Quảng Nam” của tác giả Mai Văn Sang…
Các công trình nghiên cứu nói trên mang lại giá trị lý luận và thực tiễn nhất
định cho công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói chung, tội tham ô tài
sản nói riêng. Tuy nhiên việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại dưới dạng các bài viết
đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục trong các đề tài, đề
án, giáo trình, sách tham khảo mà chưa ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật hình
sự và tố tụng hình sự hoặc mới chỉ tiếp cận ở góc độ tội phạm học…hoặc đã
nghiên cứu ở thời điểm tương đối lâu so với hiện nay, chưa cập nhật những vấn
đề mới của thực tiễn áp dụng pháp luật. Do vậy, với khoa học luật hình sự và tố
tụng hình sự, đề tài này cần phải tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ hơn đối với
loại tội phạm này trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền theo Hiến
pháp năm 2013 và quá trình hội nhập sâu kinh tế quốc tế của nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu các vấn đề lý luận, các vấn đề về luật thực định và thực tiễn
áp dụng quy định của luật thực định để xử lý tội tham ô tài sản trên địa bàn tỉnh
Bình Định, luận văn mong muốn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội tham ô tài sản.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tham ô tài sản theo
pháp luật hình sự Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham
ô tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật về tội tham ô

tài sản (Điều 278 Bộ Luật Hình sự) và nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm trong
thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các quy định của pháp luật hình sự hiện hành đối với
tội tham ô về định tội danh và quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Bình Định
từ năm 2011 đến năm 2015.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng
và pháp luật hình sự của Nhà nước đối với tội phạm về tham nhũng, tham ô.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng gồm: phương pháp so
sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp, đánh giá
những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ô tài sản trong các công trình của
các cơ quan nhà nước và một số nhà nghiên cứu khoa học.
5


Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo của
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Ban Nội chính Trung
ương, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Nội chính Tỉnh ủy, Công an tỉnh,
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định… trong công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí và một số thông tin trên mạng Internet để
phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề thực tiễn xung quanh tội tham ô tài sản.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm giàu và phong phú thêm lý
luận chuyên ngành Luật Hình sự: Luận văn đưa ra khái niệm tội tham ô tài sản,
phân biệt với các tội danh khác, luận giải các dấu hiệu pháp lý về chủ thể, khách
thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của tội phạm này theo quy định của BLHS
1999; nhận định, đánh giá những bước phát triển nổi bật của pháp luật Việt Nam
quy định về tội tham ô tài sản từ năm 1945 cho đến nay.
- Luận văn đưa ra bức tranh tổng quan về thực tiễn vận dụng pháp luật
trong điều tra, truy tố, xét xử tội tham ô tài sản tại tỉnh Bình Định từ năm 2011
đến năm 2015.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được tham khảo trong thực tiễn
định tội danh và quyết định hình phạt đối với các cơ quan có thẩm quyền.
- Luận văn đưa ra những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy phạm pháp
luật hình sự về tội tham ô tài sản và các giải pháp hữu quan khác.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo bổ ích trong nghiên cứu, giảng dạy,
học tập chuyên ngành Luật Hình sự và Luật tố tụng Hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:

6


Chương 1:Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tham ô tài sản theo
pháp luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội
tham ô tài sản tại tỉnh Bình Định từ năm 2011 – 2015
Chương 3:Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật

hình sự về tội tham ô tài sản

7


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI THAM Ô
TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản theo luật hình sự Việt Nam
Tham nhũng, tham ô là vấn nạn chung của tất cả các quốc gia, ở tất cả các
nhà nước và thời kỳ lịch sử - khi chế độ tư hữu xuất hiện và nhà nước ra đời.
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International OrganisationTIO), tham nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của
dân; tham ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Theo quan
niệm truyền thống, tham ô là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lấy của
công làm của riêng, là việc làm xấu xa bị xã hội lên án. Theo luật hình sự Việt
Nam, thì tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản mà mình có trách nhiệm quản lý [58].
Tội tham ô tài sản là tội phạm được nhà nước ta quy định rất sớm, ngay
sau khi giành được chính quyền, trước khi BLHS 1985 được ban hành, tội tham
ô tài sản được quy định tại Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN
ngày 23/10/1970 và Sắc luật số 03/SL-76 ngày 15/3/1976 của Chính phủ cách
mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau khi BLHS1985 được ban
hành, Quốc hội cũng bốn lần sửa đổi bổ sung, trong đó tội tham ô quy định tại
Điều 133 BLHS 1985 cũng được sửa đổi một lần vào ngày 10/5/1997. BLHS
1999 được ban hành, tội tham ô tài sản được quy định tại Điều 278 và được sửa
đổi bổ sung một lần vào năm 2009.
Tham nhũng, tham ô là một hệ quả tất yếu của sự vị kỷ, vụ lợi của mỗi cá
nhân, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế đất nước ta đang phát triển, quản lý
kinh tế - xã hội vẫn còn lỏng lẻo, yếu kém, tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi
tiêu cực, tham ô có điều kiện phát triển và một phần quyền lực chính trị được


8


biến thành quyền lực kinh tế. Tham nhũng, tham ô làm thâm hụt công quỹ, rút
ruột công trình xây dựng, giảm mức phúc lợi. Ở tầm khái quát cao hơn, có thể
nói tham nhũng, tham ô làm chậm sự phát triển kinh tế - xã hội, làm giảm lòng
tin của nhân dân vào nhà nước, đến một giai đoạn nào đó nó có thể gây mất ổn
định chính trị, kinh tế - xã hội, thậm chí làm sụp đổ cả một thể chế chính trị.
Như vậy, khái niệm về tội tham ô theo luật hình sự Việt Nam và Tổ chức
Minh bạch Quốc tế tương đối thống nhất: Nó chính là hành vi của người có chức
vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm
đoạt tài sản công.
Tác giả cho rằng: tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ quan,
tổ chức thành của riêng cho bản thân hay cho người khác mà bản thân chủ thể có
trách nhiệm quản lý xâm hại vào hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, đồng
thời xâm hại vào quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội tham ô tài sản
BLHS 1999, tội tham ô tài sản được quy định ở Điều 278 cụ thể: “Người
nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm
quản lý có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc
dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp sau đây thì
bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Gây hậu quả nghiêm trọng;
b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A Chương này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Như vậy, so với BLHS 1985 đã có sự thay đổi cơ bản: tính chất của đối
tượng tác động là tài sản “xã hội chủ nghĩa” bị chiếm đoạt đã thay đổi, nghĩa là
tài sản bị chiếm đoạt không chỉ là tài sản thuộc sở hữu XHCN nữa mà là tài sản

bị chiếm đoạt thuộc các hình thức sở hữu khác.

9


Ngoài ra, so với BLHS 1985, BLHS 1999 quy định:
- Mức độ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là ranh giới phân biệt tội tham ô tài
sản với các hành vi vi phạm pháp luật khác cũng thay đổi từ năm triệu đồng
xuống còn năm trăm nghìn đồng;
- Dấu hiệu “vi phạm nhiều lần hoặc bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm” được
sửa lại là “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm”;
- Bổ sung thêm dấu hiệu “đã bị kết án về một trong các tội quy định tại
mục A Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
BLHS 1999 tiếp tục được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, tội tham ô tài sản
(Điều 278) được quy định tại Chương XXI “các tội phạm về chức vụ”; đồng
thời được sửa đổi mức định lượng tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự quy
định tại khoản 1 của Điều 278 từ “năm trăm nghìn đồng” thành “hai triệu
đồng”.
Đây là một bước tiến khoa học vì nó phản ánh được thực trạng nền kinh tế
của đất nước, phản ánh được đường lối, quan điểm của Đảng và Hiến pháp của
nước ta ở giai đoạn này.
1.2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản
BLHS 1999 đã quy định một cách rõ ràng khái niệm và các dấu hiệu của
cấu thành tội tham ô tài sản. Vấn đề đặt ra là cần phải hiểu khái niệm đó và các
dấu hiệu của nó như thế nào cho đúng. Hiểu và giải thích đúng các dấu hiệu của
tội phạm đó có ý nghĩa lớn đối với việc xác định tội danh, quyết định hình phạt
và áp dụng các biện pháp tư pháp.
1.2.1.1. Khách thể của tội tham ô tài sản
Nếu theo BLHS 1985, tội tham ô được quy định tại Chương các tội phạm
xâm phạm sở hữu XHCN, thì khách thể của tội phạm này nhất định là chế độ sở

hữu XHCN. Nay tội tham ô tài sản được quy định tại Chương các tội phạm về
chức vụ thì khách thể của tội phạm vẫn còn có những ý kiến khác nhau. Có ý
kiến cho rằng khách thể của tội tham ô tài sản là quan hệ sở hữu về tài sản của
10


nhà nước, của tổ chức vì nó trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Có thể còn
những ý kiến khác nhau nhưng theo chúng tôi thì khách thể của tội tham ô tài
sản không còn là chế độ sở hữu XHCN nữa, mà là quan hệ sở hữu của các thành
phần kinh tế khác. Đồng thời, nó còn xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ
quan, tổ chức; bởi vì người có chức vụ, quyền hạn đã làm không đúng, làm sai
chức trách, làm trái các nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý tài sản thuộc lĩnh
vực công tác của mình phụ trách và bằng cách đó đã chiếm đoạt tài sản.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành khách thể, đối tượng tác động của tội
phạm cũng cần được xem xét đến. Trong trường hợp này, đối tượng tác động
của tội phạm chính là tài sản mà người có chức vụ, quyền hạn đang trực tiếp
quản lý và thông qua việc tác động đến tài sản này kẻ phạm tội mới có thể xâm
hại đến khách thể của tội phạm.
Tuy nhiên, điều luật không quy định cụ thể tài sản đó gồm những loại tài
sản nào; do đó, việc áp dụng điều luật trong thực tế hiện nay đang gặp rất nhiều
vướng mắc, đặc biệt là trong trường hợp tài sản thuộc các hình thức sở hữu đan
xen với nhau trong quá trình góp cổ phần…Để giải quyết vấn đề này cần phải
xác định rõ khái niệm tài sản với ý nghĩa là đối tượng tác động của tội tham ô tài
sản và về vấn đề này hiện còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng, để xác định hành vi phạm tội có cấu thành tội tham ô
tài sản hay không thì ngoài yếu tố thuộc dấu hiệu định tội của tội phạm thì cần
phải xác định rõ tài sản bị chiếm đoạt là tài sản của ai. Những người đồng ý với
loại ý kiến này cho rằng khái niệm “tài sản” được hiểu là:
Thứ nhất, tài sản đó phải là tài sản chung của nhiều người;
Thứ hai, tài sản đó phải là tài sản của Nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
kinh tế được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc được Nhà nước cho phép thành lập.

11


Loại ý kiến khác cho rằng luật không quy định cụ thể đối tượng tác động
của tội phạm là tài sản của ai, do đó có thể hiểu rằng tài sản đó là của bất kỳ ai,
miễn là có dấu hiệu đầy đủ cấu thành tội phạm thì đều được coi là tham ô.
Theo ý kiến chúng tôi, với các ý kiến trên thì cách hiểu về tội tham ô tài sản
như vậy là quá rộng. Đối với tội tham ô tài sản được quy định tại Điều 278 thì
không nên quá mở rộng phạm vi áp dụng của điều luật này với những lý do như
sau:
Thứ nhất, cần phải căn cứ vào tầm quan trọng của khách thể của tội phạm
mà luật hình sự cần bảo vệ. Tội tham ô tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai
khách thể rất quan trọng là sở hữu và hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
BLHS 1999 đã xác định rằng đối với tội tham ô tài sản thì việc đảm bảo hoạt
động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là khách thể đặc biệt quan trọng mà luật
hình sự cần ưu tiên bảo vệ.
Thứ hai, tội tham ô tài sản là một trong những tội phạm về tham nhũng, do
đó chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chứ không phải là bất kỳ ai. Chủ
thể của tội tham ô tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn nhất định và có
trách nhiệm quản lý tài sản.
Thứ ba, đối tượng tác động của tội tham ô tài sản là tài sản nhưng không
phải là tài sản của bất kỳ ai mà chỉ là tài sản thuộc sở hữu của các cơ quan, tổ
chức hoặc đang đặt dưới sự quản lý của cơ quan, tổ chức.
Với quan điểm nêu trên, theo tôi một số hành vi sau đây không cấu thành
tội tham ô tài sản:
- Hành vi chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp 100%

vốn nước ngoài.
- Hành vi của người không có chức vụ, quyền hạn hoặc của người có chức
vụ, quyền hạn nhưng không có trách nhiệm quản lý tài sản mà chiếm đoạt tài sản
của cơ quan, tổ chức.

12


1.2.1.2. Mặt khách quan của tội tham ô tài sản
Đối với tội tham ô tài sản, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan là những dấu
hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội tham
ô tài sản với các tội phạm khác.
Trước hết, người phạm tội tham ô tài sản phải là người có hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản là do người có chức vụ,
quyền hạn thực hiện và hành vi chiếm đoạt tài sản đó có liên quan trực tiếp đến
chức vụ, quyền hạn của họ. Tuy nhiên, người phạm tội phải lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý thì mới bị coi
là tham ô tài sản. Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản do người có chức vụ, quyền
hạn thực hiện nhưng không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ
có chức vụ, quyền hạn cũng không bị coi là tham ô tài sản.
Chiếm đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ chủ sở
hữu thành tài sản của mình hoặc của người khác mà mình quan tâm. Hành vi
chuyển dịch bất hợp pháp tài sản có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau, có trường hợp người phạm tội tự chuyển dịch tài sản như: thủ quỹ tự
lấy tiền trong két, thủ kho tự lấy tài sản trong kho đem bán…Cũng có trường
hợp việc chuyển dịch tài sản lại do người khác thực hiện theo lệnh của người
phạm tội như: giám đốc lệnh cho thủ quỹ đưa tiền cho mình; kế toán lập phiếu
thu, phiếu chi, chuyển khoản theo lệnh của người phạm tội…
1.2.1.3. Chủ thể của tội tham ô tài sản

Chủ thể của tội tham ô tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn và có
trách nhiệm quản lý đối với tài sản mà họ chiếm đoạt. Các dấu hiệu thuộc về chủ
thể của tội phạm là dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành vi chiếm đoạt tài
sản có phải là hành vi phạm tội tham ô hay không. Vì vậy, để hiểu thế nào là
người có trách nhiệm quản lý tài sản, trước hết cần xác định thế nào là người có
chức vụ, quyền hạn.
13


Do tội tham ô tài sản được quy định trong Chương các tội phạm về chức
vụ, nên chỉ có những người được quy định tại Điều 277 BLHS mới có thể là chủ
thể của tội tham ô tài sản: “Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm,
do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc
không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn
nhất định trong khi thực hiện công vụ”. Khái niệm này đã chỉ ra những dấu hiệu
đặc trưng cơ bản của người có chức vụ, quyền hạn nên nó có ý nghĩa lớn về lý
luận và thực tiễn.
Trong đó, công vụ là nhiệm vụ công. Ở nước ta khái niệm công vụ không
chỉ là khái niệm “công quyền” trong bộ máy nhà nước, mà còn bao gồm nhiệm
vụ của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị mà nhà nước chỉ là một cơ
quan trong hệ thống đó. Những người được bầu cử, được bổ nhiệm, được tuyển
dụng hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên trong các cơ quan, tổ chức trong
hệ thống chính trị khi thực hiện nhiệm vụ của mình đều được coi là thực hiện
nhiệm vụ công.
Theo Điều 4, Luật Cán bộ, công chức 2008 thì cán bộ, công chức bao gồm:
“1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ

ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
14


quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập),
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong
bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo
đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.”.
Về vấn đề xác định tư cách chủ thể đối với tội tham ô tài sản, ngoài chức vụ
mà họ có do bầu cử, bổ nhiệm, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có
hưởng lương hoặc không hưởng lương thì điều quan trọng là những người này
có được giao thực hiện một công vụ hay không. Đây là dấu hiệu rất quan trọng
nhưng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng không chú ý đến dấu hiệu này mà chỉ chú ý đến chức vụ,
quyền hạn mà người phạm tội có, nên không ít trường hợp người phạm tội chỉ
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản
lý đã vội xác định họ phạm tội tham ô, mà không xác định hành vi lợi dụng chức

vụ, quyền hạn đó là lợi dụng việc thực hiện nhiệm vụ công hay nhiệm vụ của
một số người giao cho họ.
Theo khoản 3 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 được sửa
đổi, bổ sung năm 2007, 2012, thì người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: “a)
Cán bộ, công chức, viên chức; b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân; c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của
15


Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà
nước tại doanh nghiệp; d) Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có
quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.”.
Tội tham ô là tội phạm về tham nhũng cho nên chủ thể của tội phạm này
không thể ngoài những người đã được quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật Phòng,
chống tham nhũng được.
Người có chức vụ, quyền hạn chỉ có thể trở thành chủ thể của tội tham ô tài
sản khi hành vi phạm tội của họ được thực hiện trong khi thi hành công vụ, nếu
họ thực hiện hành vi phạm tội ngoài phạm vi thi hành công vụ thì không phải là
chủ thể của tội tham ô tài sản.
Người có chức vụ, quyền hạn phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản,
nếu họ không có trách nhiệm quản lý tài sản thì cũng không thể là chủ thể của
tội tham ô tài sản được. Người có trách nhiệm đối với tài sản là người được giao
nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản như: thủ quỹ, thủ kho, kế toán, người được
giao vận chuyển tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị mình… Ngoài ra, còn
có những người tuy không được giao trực tiếp quản lý tài sản nhưng lại có trách
nhiệm trong việc quyết định việc thu chi, xuất nhập, mua bán, trao đổi tài sản
như: giám đốc công ty, chủ nhiệm hợp tác xã, người đứng đầu trong các cơ
quan, tổ chức là chủ tài khoản hoặc là người có quyền quyết định về tài sản của

cơ quan, tổ chức mình...
1.2.1.4. Mặt chủ quan của tội tham ô tài sản
Tội tham ô tài sản là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng như đối với
những tội có tính chất chiếm đoạt khác, người phạm tội thực hiện hành vi của
mình là cố ý (cố ý trực tiếp); tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn
hậu quả xảy ra; không có trường hợp tham ô tài sản nào được thực hiện do cố ý
gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
Hơn ai hết, bản thân người thực hiện tội phạm, ngay từ khi ý định phạm tội nảy
16


sinh đã nhận thức được rõ ràng, cụ thể những thiệt hại về tài sản; đồng thời, ở
cương vị của mình, họ cũng hoàn toàn có đủ khả năng để hiểu rằng họ đang trực
tiếp xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý
tài sản nói chung và quản lý kinh tế tài chính nói riêng.
Mặc dù nhận thức được như thế nhưng kẻ phạm tội vẫn cố tình thực hiện
bằng được mục đích chiếm đoạt của mình, sự cố tình đó đặc biệt được thể hiện
trong những trường hợp kẻ phạm tội sử dụng những thủ đoạn tinh vi, khéo léo
để che đậy hành vi của mình. Mặt khác, khi thực hiện hành vi phạm tội, kẻ phạm
tội bao giờ cũng có mục đích vụ lợi, bao giờ y cũng có mong muốn biến tài sản
mà y có trách nhiệm trực tiếp quản lý thành tài sản của cá nhân y để thỏa mãn
những nhu cầu vật chất của mình.
Có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành
tội tham ô tài sản. Nếu mục đích của người phạm tội chưa đạt được (chưa chiếm
đoạt được tài sản) thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
1.2.2. Hậu quả pháp lý của tội tham ô tài sản
Hậu quả của tội tham ô tài sản là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất
cho xã hội. Hậu quả của tội tham ô tài sản xét về phương diện các yếu tố cấu
thành tội phạm thì không phải là dấu hiệu bắt buộc, tức là dù hậu quả chưa xảy

ra nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm.
Hiện nay đối với tội tham ô tài sản nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị
chiếm đoạt làm ranh giới phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm. Có quan điểm
cho rằng thiệt hại về tài sản của tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành
tội phạm, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được nhưng giá
trị tài sản dưới mức quy định của điều luật thì chưa cấu thành tội phạm. Theo
quan điểm tôi, không nên có sự nhầm lẫn giữa hậu quả của tội phạm với thiệt hại
thực tế đã xảy ra; bởi vì, hậu quả của tội phạm không chỉ là những thiệt hại do
tội phạm đã gây ra mà còn đe đọa gây ra cho xã hội, tức là thiệt hại vật chất
chưa xảy ra nhưng cũng đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm
17


được coi là hoàn thành từ thời điểm can phạm sử dụng quyền hạn trái phép lấy
tài sản với ý thức làm của riêng mình không kể sau đó y có thực sự chiếm đoạt
được hay không.
Với tội tham ô tài sản, nhà làm luật quy định chiếm đoạt tài sản có giá trị từ
hai triệu đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nếu chiếm đoạt
tài sản có giá trị dưới hai triệu đồng thì phải có thêm những điều kiện như: gây
hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị
kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm. Quy định này không có nghĩa là trong mọi trường hợp
người phạm tội phải chiếm đoạt được tài sản có giá trị hai triệu đồng hoặc dưới
hai triệu đồng có kèm theo điều kiện thì mới cấu thành tội phạm. Nếu người
phạm tội đã thực hiện hết các hành vi khách quan của tội phạm nhưng vì lý do
khách quan nên chưa chiếm đoạt được tài sản thì về lý thuyết người phạm tội
vẫn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản thuộc trường hợp
phạm tội chưa đạt.
Nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới hai triệu đồng thì hành vi tham ô tài sản phải
gây hậu quả nghiêm trọng thì mới cấu thành tội phạm. Hậu quả nghiêm trọng do

hành vi tham ô tài sản gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khỏe, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Ngoài các thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi
vật chất như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã
hội…Trong các trường hợp này phải tùy vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá
mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa.
* Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 278
BLHS
Trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 278 BLHS là cấu thành cơ
bản của tội tham ô tài sản, có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù. So
18


với tội tham ô tài sản XHCN quy định tại Điều 133 BLHS 1985, nếu chỉ căn cứ
vào khung hình phạt thì khoản 1 Điều 278 BLHS 1999 không nặng hơn và cũng
không nhẹ hơn, nhưng căn cứ vào các dấu hiệu quy định thì khoản 1 Điều 278
BLHS 1999 không có lợi cho người phạm tội, vì khoản 1 Điều 133 BLHS 1985
quy định chiếm đoạt tài sản có giá trị năm triệu đồng trở lên mới bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, còn khoản 1 Điều 278 BLHS 1999 quy định chiếm đoạt tài
sản có giá trị hai triệu đồng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài
sản.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản theo khoản
1 Điều 278 BLHS, Tòa án căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại
Chương VII BLHS (từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình
tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS, không có tình tiết tăng nặng, thì có
thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai năm tù);
nếu có đủ điều kiện quy tại Điều 60 BLHS thì được hưởng án treo. Nếu người
phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 BLHS, không có tình
tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến bảy năm tù.

* Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 278
BLHS
- Có tổ chức: phạm tội có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn
bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm,
dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu (Điều 20 BLHS). Phạm tội có
tổ chức khác với tổ chức phạm tội. Pháp luật Việt Nam không truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với một tổ chức (pháp nhân) tính đến trước thời điểm BLHS
2015 được ban hành. Vì vậy, không có khái niệm tổ chức phạm tội trong luật
hình sự Việt Nam. Tùy thuộc vào quy mô và tính chất của vụ án phạm tội có tổ
chức mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau như: người tổ chức,
người thực hành, người xúi dục, người giúp sức.

19


×