Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tội tham ô tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bình định tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.86 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với mục tiêu xây dựng bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân
và thật sự trong sạch, vững mạnh, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
coi tệ tham ô là một căn bệnh, là hành động xấu xa nhất. Thấm nhuần
tư tưởng của Người, Đảng ta luôn coi tham nhũng là một trong bốn
nguy cơ lớn của đất nước và luôn khẳng định quyết tâm đấu tranh
phòng, chống tham nhũng là một nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài.
Bình Định là 1 trong 5 tỉnh, thành phố ở khu vực duyên hải Nam
Trung Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Diện tích
tự nhiên 6.025km2; dân số năm 2014 là 1.578.800 người. Tỉnh có 11
huyện, thị xã, thành phố, với 159 xã, phường, thị trấn. Tỉnh ủy Bình
Định có 17 đảng bộ trực thuộc, với 837 tổ chức cơ sở đảng, 43.908
đảng viên. Trên địa bàn tỉnh có trên 2.800 doanh nghiệp, với số lượng
công nhân lao động là 189.000 người.
Những năm qua gắn liền với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy luôn dành
sự quan tâm đặc biệt đến lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống
tham nhũng. Các vụ việc, vụ án tham nhũng được các cơ quan công
an, viện kiểm sát, tòa án xử lý kịp thời và nghiêm minh, được dư luận
nhân dân đồng tình, góp phần quan trọng trong việc phòng, chống và
hạn chế thấp nhất tình hình tham nhũng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên,
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng
nói chung, tham ô tài sản nói riêng vẫn còn những vướng mắc, tồn tại,
có một phần nguyên nhân quan trọng đó là BLHS 1999 đã có hiệu lực
pháp luật hơn 15 năm, nhiều quy định không còn phù hợp hoặc chưa
được hướng dẫn, giải thích cụ thể nên dẫn đến hiệu quả còn hạn chế đã
và đang đặt ra vấn đề với các nhà lập pháp trong quá trình hoàn thiện
1



pháp luật cũng như các cơ quan tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử
tội tham ô tài sản. Việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết, không chỉ có
ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần cho công
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Bình Định
nói riêng và trên địa bàn cả nước nói chung. Do vậy, học viên chọn đề
tài “Tội tham ô tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Bình Định” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm qua, có khá nhiều công trình nghiên cứu về tội tham
ô tài sản. Loại tội phạm này được đề cập, phân tích trong một số đề tài,
đề án và giáo trình, sách tham khảo như: Đề tài, đề án “Nghiên cứu
đấu tranh chống tham nhũng”, “Góp phần hoàn thiện chính sách,
pháp luật hình sự về tội tham nhũng ở Việt Nam trong tình hình hiện
nay”, Tổng kết “Một số vấn đề lý luận – Thực tiễn 30 năm đổi mới
(1986 – 2016) về tư pháp – nội chính và phòng, chống tham nhũng,
lãng phí” của Ban Nội chính Trung ương…
Các công trình nghiên cứu nói trên mang lại giá trị lý luận và
thực tiễn nhất định cho công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Tuy nhiên việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại dưới dạng các bài viết
đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục trong các
đề tài, đề án, giáo trình, sách tham khảo …hoặc đã nghiên cứu ở thời
điểm tương đối lâu so với hiện nay. Do vậy, với khoa học luật hình sự
và tố tụng hình sự, đề tài này cần phải tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ
hơn đối với loại tội phạm này trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền và quá trình hội nhập sâu kinh tế quốc tế của nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu các vấn đề lý luận, các vấn đề về luật thực định
và thực tiễn áp dụng quy định của luật thực định để xử lý tội tham ô tài
2



sản trên địa bàn tỉnh Bình Định, luận văn đề xuất một số giải pháp góp
phần hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả định tội danh
và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tham ô tài
sản theo pháp luật hình sự Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội tham ô tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật về
tội tham ô tài sản (Điều 278 BLHS) và nâng cao hiệu quả xử lý tội
phạm trong thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả tập trung vào việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội tham ô tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trên
địa bàn tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các quy định của pháp luật hình sự hiện
hành đối với tội tham ô về định tội danh và quyết định hình phạt trên
địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2011 đến năm 2015.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
chính sách của Đảng và pháp luật hình sự của Nhà nước đối với tội
phạm về tham nhũng, tham ô.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng: phương pháp so
3


sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp,
đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ô tài sản trong
các công trình của các cơ quan nhà nước và một số nhà nghiên cứu
khoa học. Ngoài ra, còn dựa vào số liệu trong các báo cáo của Ban Chỉ
đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Ban Nội chính Trung
ương, Tỉnh ủy, Ban Nội chính Tỉnh ủy, Công an tỉnh, Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định để phân tích, đánh giá,
tổng hợp các vấn đề thực tiễn xung quanh tội tham ô tài sản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm giàu và phong
phú thêm lý luận chuyên ngành Luật Hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được tham khảo trong
thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với các cơ quan có
thẩm quyền.
Luận văn đưa ra những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
phạm pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản và các giải pháp hữu quan
khác. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo bổ ích trong nghiên cứu,
giảng dạy, học tập chuyên ngành Luật Hình sự và Luật tố tụng Hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, Luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tham ô tài
sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình

sự về tội tham ô tài sản tại tỉnh Bình Định từ năm 2011 – 2015
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản
4


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI THAM Ô
TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản theo luật hình sự Việt Nam
Tham nhũng, tham ô là vấn nạn chung của tất cả các quốc gia, ở
tất cả các nhà nước và thời kỳ lịch sử - khi chế độ tư hữu xuất hiện và
nhà nước ra đời. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency
International Organisation-TIO), tham nhũng là lợi dụng quyền hành
để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân; tham ô là hành vi lợi dụng
quyền hành để lấy cắp của công. Theo luật hình sự Việt Nam, thì tham
ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà
mình có trách nhiệm quản lý.
Như vậy, khái niệm về tội tham ô theo luật hình sự Việt Nam và
Tổ chức Minh bạch Quốc tế tương đối thống nhất: Nó chính là hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản công.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội tham ô
tài sản
BLHS 1999, tội tham ô tài sản được quy định ở Điều 278 cụ thể:
“Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có
trách nhiệm quản lý có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm
mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một
trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Gây hậu quả nghiêm trọng;

b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A Chương
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm..”.
Như vậy, so với BLHS 1985 đã có sự thay đổi cơ bản: tính chất
của đối tượng tác động là tài sản “xã hội chủ nghĩa” bị chiếm đoạt đã
5


thay đổi, nghĩa là tài sản bị chiếm đoạt không chỉ là tài sản thuộc sở
hữu XHCN nữa mà là tài sản bị chiếm đoạt thuộc các hình thức sở hữu
khác.
Ngoài ra, so với BLHS 1985, BLHS 1999 quy định:
- Mức độ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là ranh giới phân biệt tội
tham ô tài sản với các hành vi vi phạm pháp luật khác cũng thay đổi từ
năm triệu đồng xuống còn năm trăm nghìn đồng;
- Dấu hiệu “vi phạm nhiều lần hoặc bị xử lý kỷ luật mà còn vi
phạm” được sửa lại là “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi
phạm”. Bổ sung thêm dấu hiệu “đã bị kết án về một trong các tội quy
định tại mục A Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
BLHS 1999 tiếp tục được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, tội
tham ô tài sản (Điều 278) được quy định tại Chương XXI “các tội
phạm về chức vụ”; đồng thời được sửa đổi mức định lượng tối thiểu để
truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 của Điều 278 từ
“năm trăm nghìn đồng” thành “hai triệu đồng”.
1.2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản
1.2.1.1. Khách thể của tội tham ô tài sản
Khách thể của tội tham ô tài sản không còn là chế độ sở hữu
XHCN nữa, mà là quan hệ sở hữu của các thành phần kinh tế khác.
Đồng thời, nó còn xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ
chức; bởi vì người có chức vụ, quyền hạn đã làm không đúng, làm sai

chức trách, làm trái các nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý tài sản
thuộc lĩnh vực công tác của mình phụ trách và bằng cách đó đã chiếm
đoạt tài sản.
1.2.1.2. Mặt khách quan của tội tham ô tài sản
Người phạm tội tham ô tài sản phải là người có hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản. Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để chiếm đoạt tài sản là do người có chức vụ, quyền hạn
6


thực hiện và hành vi chiếm đoạt tài sản đó có liên quan trực tiếp đến
chức vụ, quyền hạn của họ. Tuy nhiên, người phạm tội phải lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản
lý thì mới bị coi là tham ô tài sản. Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản do
người có chức vụ, quyền hạn thực hiện nhưng không liên quan gì đến
chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn cũng
không bị coi là tham ô tài sản.
1.2.1.3. Chủ thể của tội tham ô tài sản
Chủ thể của tội tham ô tài sản phải là người có chức vụ, quyền
hạn và có trách nhiệm quản lý đối với tài sản mà họ chiếm đoạt. Việc
xác định trách nhiệm của một người đối với tài sản là rất quan trọng,
nếu xác định không đúng tư cách của người có trách nhiệm đối với tài
sản mà họ chiếm đoạt thì dễ nhầm lẫn với các tội phạm có tính chất
chiếm đoạt quy định tại Chương XVI BLHS như: tội trộm cắp tài sản,
công nhiên chiếm đoạt tài sản,…
1.2.1.4. Mặt chủ quan của tội tham ô tài sản
Tội tham ô tài sản là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng
như đối với những tội có tính chất chiếm đoạt khác, người phạm tội
thực hiện hành vi của mình là cố ý (cố ý trực tiếp); tức là, người phạm
tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước

hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có
trường hợp tham ô tài sản nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì
người phạm tội bao giờ cũng mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
Có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của
cấu thành tội tham ô tài sản. Nếu mục đích của người phạm tội chưa
đạt được (chưa chiếm đoạt được tài sản) thì thuộc trường hợp phạm tội
chưa đạt.
1.2.2. Hậu quả pháp lý của tội tham ô tài sản
Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
7


278 BLHS
Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
278 BLHS
Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều
278 BLHS
Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều
278 BLHS
Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội tham ô tài sản
1.3. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác
- Tội tham ô tài sản với tộilạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản(Điều 280 BLHS)
- Tội tham ô tài sản với tộilợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi
thi hành công vụ(Điều 281 BLHS)
- Tội tham ô tài sản với tộicố ý làm trái quy định của nhà nước
về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng(Điều 165 BLHS)
- Tội tham ô tài sản với tộinhận hối lộ (Điều 279 BLHS)
1.4. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật hình sự về
tội tham ô tài sản giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985

Cách mạng Tháng Tám thành công, Nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời.
Giai đoạn này, các chính sách hình sự của nhà nước ta đối với tội xâm
phạm sở hữu được thể hiện rõ nét. Sắc lệnh số 223 - SL ngày
27/11/1946 quy định về tội biển thủ công quỹ đã được ban hành, trong
đó quy định: “Tội công chức biển thủ công quỹ…bị phạt khổ sai từ 5
năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật…biển thủ. Người phạm
tội còn có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản. Các
đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên”.
Trong các văn bản pháp luật, các quy định về các tội phạm được
trình bày khá đơn giản, đường lối chính sách xử phạt chưa được rõ
8


ràng nên tác dụng giáo dục bị hạn chế; do đó, các ngành Công an,
Kiểm sát, Tòa án gặp nhiều khó khăn khi vận dụng, không thống nhất
về đường lối xử lý. Trước tình hình đó, ngày 21/ 10/1970, Nhà nước
đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm XHCN nhằm thể
hiện thái độ kiên quyết đấu tranh của Nhà nước đối với hành vi xâm
phạm tài sản của nền kinh tế XHCN.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm XHCN gồm 3 chương, 25
điều, bao gồm nhiều tội danh và mức hình phạt, trong đó có tội tham ô
tài sản XHCN. Điều 8 quy định về tội tham ô tài sản XHCN với nội
dung: “Kẻ nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản xã hội
chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Phạm tội trong những
trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm: Tái phạm
nguy hiểm; Có tổ chức; Có móc ngoặc; Dùng thủ đoạn xảo quyệt,
nguy hiểm; Tham ô tài sản có số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc
biệt; Dùng tài sản tham ô vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ, đút lót
hoặc vào những việc phạm tội khác…”.

Theo đó, tội tham ô tài sản chưa quy định tài sản bị chiếm đoạt
phải do người có chức vụ, quyền hạn quản lý. Điều luật cũng chưa cụ
thể hóa định lượng giá trị tài sản phạm tội, chỉ quy định chung chung
tham ô tài sản có số lượng lớn, rất lớn, giá trị đặc biệt khiến cho các cơ
quan chức năng áp dụng luật khá khó khăn và không thống nhất.
Với sự phát triển của khoa học pháp lý nói chung và pháp luật
hình sự nói riêng, năm 1985 chúng ta đã ban hành BLHS đầu tiên với
12 chương, 280 điều. Tại Điều 133, tội tham ô tài sản XHCN được
quy định: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
xã hội chủ nghĩa mà mình có trách nhiệm trực tiếp quản lý, thì bị phạt
tù từ một năm đến bảy năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm: Thông đồng với
người khác ở trong hoặc ngoài cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội;
9


Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; Chiếm đoạt tài sản có giá trị
lớn; Tái phạm nguy hiểm. Phạm tội trong các trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù
chung thân hoặc tử hình”.
Như vậy, điều luật đã quy định rõ tội tham ô tài sản phải là: thứ
nhất, do người có chức vụ, quyền hạn là chủ thể; thứ hai, phải lợi dụng
chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt; thứ ba, đối tượng là tài
sản xã hội chủ nghĩa mình có trách nhiệm trực tiếp quản lý.
Ngày 10/5/1997, BLHS được sửa đổi, bổ sung và tội tham ô tài
sản XHCN được sửa đổi như sau: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa mà mình có trách nhiệm quản
lý có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới một trăm triệu đồng hoặc dưới
năm triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, vi phạm nhiều lần
hoặc bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy

năm”. So với BLHS 1985, lần sửa đổi, bổ sung này đã có sự mở rộng
về phạm vi chủ thể bằng cách lược bỏ cụm từ “trực tiếp” trong đoạn
“có trách nhiệm trực tiếp quản lý tài sản” thành “người có trách
nhiệm quản lý tài sản”; quy định rõ giá trị định lượng tài sản bị chiếm
đoạt và thời hạn hình phạt tù tối thiểu tăng từ một năm lên hai năm.
BLHS1985 đã đóng một vai trò đặc biệt tích cực trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm ở nước ta trong suốt thời kỳ lịch sử lâu dài xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Tuy nhiên, do được xây dựng và ban
hành trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội trong nước cũng như tình
hình quốc tế có nhiều điểm khác cơ bản so với giai đoạn hiện nay, mặc
dù đã qua bốn lần sửa đổi, bổ sung, nhiều quy định của BLHS, trong
đó có quy định về tội tham ô đã trở nên bất cập, không đáp ứng đầy đủ
yêu cầu phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

10


CHƢƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. Khái quát về tình hình xét xử tội tham ô tài sản tại tỉnh
Bình Định
Số liệu thống kê từ năm 2011 đến năm 2015 cùng với các báo
cáo hàng năm của các ngành Công an, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa
án nhân dân cho thấy: tội phạm tham ô tài sản với số lượng các vụ án
tăng, giảm hàng năm không đáng kể nhưng ngày càng diễn biến phức
tạp, thủ đoạn tinh vi, hậu quả thiệt hại gây ra ngày càng nghiêm trọng
(giai đoạn trước năm 2011 những vụ án tham ô tài sản phát hiện chủ
yếu là nhỏ lẻ, xảy ra ở cấp xã, các tổ chức kinh tế tập thể, giá trị tài sản
thiệt hại không lớn, ít nghiêm trọng). Loại tội phạm này diễn ra ở hầu

khắp các lĩnh vực, nhiều địa phương, nhiều cấp khác nhau; đối tượng
phạm tội đa phần có chức vụ, quyền hạn, trình độ chuyên môn nhất
định, có quan hệ xã hội rộng, hiểu biết về kinh tế, pháp luật. Quá trình
thực hiện tội phạm, các đối tượng có nhiều thủ đoạn tinh vi để che dấu
hành vi phạm tội, do đó đa phần tội phạm diễn ra trong thời gian dài
mới bị phát hiện, xử lý.
Theo thống kê từ năm 2011 đến năm 2015, Tòa án nhân dân hai
cấp của tỉnh đã xét xử 15 vụ án với 20 bị cáo về tội tham ô tài sản trên
tổng số 29 vụ án với 42 bị cáo về tội tham nhũng, chiếm tỷ lệ 51,72%
về số vụ và 47,6% về số bị cáo.
Năm 2011, Tòa án hai cấp đã xét xử 03 vụ án tham ô tài sản trên
tổng số 06 vụ án tham nhũng (50%) và 03 bị cáo về tội tham ô tài sản
trên tổng số 06 bị cáo về tội tham nhũng (50%).
Năm 2012, Tòa án hai cấp đã xét xử 03 vụ án tham ô tài sản trên
tổng số 05 vụ án tham nhũng (60%) và 05 bị cáo về tội tham ô tài sản
trên tổng số 09 bị cáo về tội tham nhũng (55,5%).
11


Năm 2013, Tòa án hai cấp đã xét xử 03 vụ án tham ô tài sản trên
tổng số 06 vụ án tham nhũng (50%) và 04 bị cáo về tội tham ô tài sản
trên tổng số 09 bị cáo về tội tham nhũng (44,4%).
Năm 2014, Tòa án hai cấp đã xét xử 04 vụ án tham ô tài sản trên
tổng số 08 vụ án tham nhũng (50%) và 06 bị cáo về tội tham ô tài sản
trên tổng số 13 bị cáo về tội tham nhũng (46,1%).
Năm 2015, Tòa án hai cấp đã xét xử 02 vụ án tham ô tài sản trên
tổng số 04 vụ án tham nhũng (50%) và 02 bị cáo về tội tham ô tài sản
trên tổng số 05 bị cáo về tội tham nhũng (40%). So với năm 2014,
giảm 1/2 số vụ án và 2/3 số bị cáo về tội tham ô tài sản; so với năm
2011 giảm 1/3 số vụ án và số bị cáo về tội tham ô tài sản.

Có thể thấy: tội tham ô tài sản là một tội đứng “đầu bảng” trong
những tội phạm về tham nhũng, con số tỷ lệ chiếm 50% trở lên, đặc
biệt là năm 2012 chiếm 60% so với tổng số vụ và trên 55% so với tổng
số bị cáo phạm tội tham nhũng. Số lượng vụ án phạm tội tham ô tài
sản năm sau so với năm trước tăng không nhiều và có xu hướng giảm
nhưng tính chất, quy mô và hậu quả của tệ tham ô với nền kinh tế - xã
hội nghiêm trọng gấp nhiều lần. Một số vụ án tham ô điển hình có tính
chất nghiêm trọng, phức tạp, gây thiệt hại về tài sản rất lớn được phát
hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian qua như: Vụ
“Huỳnh Chí Trung – Cán bộ tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn huyện Tuy Phước có hành vi tham ô tài sản”: Lợi dụng
chức trách nhiệm vụ được giao trong việc cho vay, thu nợ vay của
khách hàng, đã lập khống hồ sơ vay đảo nợ để chiếm đoạt với tổng số
tiền 19 tỷ đồng; vụ “Hồ Thị Thu Hương – Thủ kho tiền Ngân hàng
Thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phú
Tài có hành vi tham ô tài sản”: trong thời gian làm thủ kho tiền từ
tháng 01/2010 đến tháng 01/2013, lợi dụng chức trách nhiệm vụ được

12


giao chiếm đoạt tiền tại kho do mình trực tiếp quản lý nhiều lần với
tổng số tiền 31 tỷ đồng.
2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội tham ô tài sản tại tỉnh
Bình Định
Những năm qua, công tác phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án về tham ô tài sản được các cơ quan tiến hành tố tụng của
tỉnh quan tâm khẩn trương tập trung lực lượng khám phá, điều tra, xử
lý kịp thời; các vụ việc, vụ án được áp dụng đúng các trình tự, thủ tục
theo quy định của pháp luật để xử lý đúng người, đúng tội danh. Trong

số 15 vụ án/20 bị cáo bị xử lý về tội tham ô tài sản thì không có vụ án
tham ô tài sản nào Tòa án hai cấp xét xử bị kháng nghị, bị hủy án liên
quan đến việc định tội danh sai.
Tuy nhiên, việc định tội danh về tội tham ô tài sản trong thực tế
ở địa phương vẫn còn gặp một số ít khó khăn, vướng mắc. Đối tượng
phạm tội tham ô tài sản là những người có chức vụ, quyền hạn, có
trình độ chuyên môn nhất định, có các mối liên hệ, lợi dụng nghề
nghiệp để phạm tội và che dấu tội phạm. Các vụ án phạm tội tham ô
tài sản thường xảy ra sau một thời gian khá lâu mới bị phát hiện, đối
tượng đã cất dấu, hợp lý hóa hoặc đã hủy tài liệu dẫn đến việc thu thập
tài liệu, chứng cứ gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, năng lực của điều
tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và công tác lãnh đạo chỉ huy còn
nhiều bất cập. Một số nơi, các cơ quan tiến hành còn có sự không
thống nhất trong việc đánh giá chứng cứ…dẫn đến việc trả đi, trả lại
hồ sơ điều tra, truy tố bổ sung làm cho việc xét xử bị kéo dài.
Cùng với đó là công tác giám định tư pháp còn nhiều bất cập,
thời gian giám định quá dài. Đây là công việc khó khăn, là nguyên
nhân chính dẫn đến công việc điều tra, giải quyết các vụ án tham ô tài
sản bị kéo dài…

13


Các văn bản quy phạm pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội
phạm tham nhũng chỉ mới quy định tội phạm tham nhũng ở khu vực
công, chưa xác định đối với những chủ thể là người có chức vụ, quyền
hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân (khu vực tư), mặc
dù những người này cũng có các hành vi/tội phạm có cấu thành tương
tự hành vi/tội phạm về tham ô tài sản nhưng diễn ra trong khu vực tư
thường được các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo các quy định khác

của pháp luật, ví dụ như quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…đã làm giảm hiệu quả công
tác phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay.
BLHS có nhiều tội quy định các tình tiết gây hậu quả nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là tình tiết định tội hoặc
định khung hình phạt nhưng nội dung của các tình tiết này đối với
từng tội không giống nhau nên không thể coi là gây hậu quả nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm này cũng
như tội phạm khác được. Ngoài ra việc định lượng thiệt hại đối với
hành vi tham ô tài sản không phải dễ dàng. Đây là một vấn đề vướng
mắc không chỉ với tội tham ô tài sản mà còn đối với các tội phạm về
chức vụ và nhiều tội phạm khác. Cũng có ý kiến cho rằng nếu nhà làm
luật định lượng được thiệt hại của hành vi phạm tội thì hãy quy định
tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng, còn nếu không thì không nên quy định tình tiết này vì quy định
như vậy khó hướng dẫn, khó áp dụng và cuối cùng là dẫn đến việc áp
dụng không thống nhất…
Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 BLTTHS: trong thời hạn 20
ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi
tố, cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định
việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong
trường hợp có nhiều phức tạp thì thời gian có thể kéo dài hơn, nhưng
14


không quá 2 tháng. Thực tế quy định này đối với việc kiểm tra, xác
minh nguồn tin để có quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không
khởi tố vụ án hình sự đối với vụ việc có dấu hiệu về tham ô tài sản là
rất khó thực hiện, vì các vụ việc này thường rất phức tạp, xảy ra đã
lâu, liên quan đến nhiều người, các đối tượng liên quan bằng mọi cách

cản trở, gây khó khăn…nên việc thu thập tài liệu để làm căn cứ cũng
mất rất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều
119 BLTTHS: thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 2 tháng đối
với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội phạm
nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thực tế quy định này đối với việc
điều tra các vụ án về tham ô tài sản là rất ngắn, khó hoàn thành được,
vì loại tội phạm này có chủ thể đặc biệt, là những người có chức vụ
quyền hạn, có trình độ chuyên môn nhất định, thủ đoạn che dấu tinh vi
và luôn tìm cách cản trở hoạt động của cơ quan điều tra…
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản
tại tỉnh Bình Định
Từ năm 2011 đến năm 2015, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bình
Định đã đưa ra xét xử 15 vụ án, với 20 bị cáo về tội tham ô tài sản,
trong đó: Mức án dưới 7 năm tù 10 bị cáo; mức án từ 7 năm tù đến 15
năm tù 02 bị cáo; mức án từ 15 năm đến 20 năm tù 01 bị cáo; được
hưởng án treo 05 bị cáo; mức án mà Tòa án tuyên cao nhất là tù chung
thân đối với 02 bị cáo (cả 02 bị cáo của 02 vụ án đều kháng cáo nhưng
cấp phúc thẩm – TANDTC xử y án cả hai bản án).
Các vụ án mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bình Định tuyên đã
thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật đối với các bị cáo, được dư luận
đồng tình. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử các vụ án tham ô tài sản
cho thấy: một số hội đồng xét xử chưa đánh giá hết tính chất, mức độ
nghiêm trọng của hành vi phạm tội nên áp dụng hình phạt quá nhẹ
15


hoặc cho hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật. Công tác
kiểm tra giám đốc thẩm chưa đáp ứng được yêu cầu, một số vụ tham ô
tài sản tòa án cấp sơ thẩm, tòa án cấp phúc thẩm xét xử áp dụng hình

phạt không đúng pháp luật nhưng không được phát hiện kịp thời nên
không kháng nghị giám đốc thẩm.
Ngoài ra việc xử lý thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng,
tham ô còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và đạt tỷ lệ thấp. Qua điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản, với tổng số tài sản bị thiệt
hại trên 52 tỷ đồng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã xử lý thu hồi trên
5 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 9,6%.
2.4. Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự về tội tham ô tài sản tại tỉnh Bình Định
Những năm qua, công tác phát hiện khởi tố, điều tra các vụ án
tham ô tài sản được triển khai thực hiện một cách tích cực; kết quả công
tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản trên địa bàn tỉnh
Bình Định đã khẳng định: Các quy định của pháp luật hình sự về tội
tham ô tài sản cơ bản đã đáp ứng cho công cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng trong thời gian qua; được các cơ quan tiến hành tố tụng áp
dụng nghiêm túc trong việc định tội danh, quyết định hình phạt đối với
các vụ án tham ô tài sản, đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham
ô tài sản vẫn gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc như đã nêu trên do
nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu bởi những nguyên nhân sau đây:
- Nguyên nhân về mặt pháp luật: Đối với tội tham ô tài sản được
quy định trong Điều 278 BLHS 1999 cũng có nhiều quy định chưa
thống nhất hoặc chưa rõ gây khó hiểu, khó vận dụng trong thực tiễn…
- Nguyên nhân do quyết tâm chính trị, năng lực điều tra, truy tố,
xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn hạn chế.

16


- Nguyên nhân khách quan do mức độ phát triển của tội phạm

tham ô, tham nhũng tăng mạnh với thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, đây là
thách thức khách quan đặt ra đối với các cơ quan có nhiệm vụ điều tra,
truy tố, xét xử.
CHƢƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội
tham ô tài sản
* Kiến nghị sửa đổi cấu trúc của điều luật 278 BLHS 1999
Điều 278 với cấu trúc là tình tiết định khung cách biệt, đây là
cách cấu trúc đã được kế thừa từ BLHS 1985 và có sự điều chỉnh theo
hướng mới của BLHS 1999 và hiện nay là BLHS 2015. Cách cấu trúc
này gây khó khăn cho việc áp dụng, vì tạo nên nhiều cách hiểu và vận
dụng khác nhau trong cùng một quy định của điều luật.
Khoản 1 và khoản 2 Điều 278 BLHS 1999 đã quy định tội tham
ô tài sản như sau:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
mà mình có trách nhiệm quản lý có trị giá từ hai triệu đồng đến dưới
năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong
các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Gây hậu quả nghiêm trọng;
b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
17



b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Phạm tội nhiều lần;…”
Việc chưa rõ ràng của điều luật nêu trên nằm ở phần quy định
của quy phạm pháp luật. Tại khoản 1, sau cụm từ “hoặc dưới hai triệu
đồng”, lại đặt tiếp cụm từ “nhưng thuộc một trong các trường hợp sau
đây” và khoản 2 cũng lặp lại cụm từ “thuộc một trong các trường hợp
sau đây”. Điều này dẫn đến cách hiểu là toàn bộ các phần quy định
trước cụm từ này tại khoản 1 được áp dụng tiếp vào khoản 2, bao gồm
cả trường hợp dưới hai triệu đồng cũng được áp dụng cho trường hợp
có tình tiết tại khoản 2.
Theo chúng tôi, cần phải hiểu là tại khoản 1 của điều luật trên có
hai nội dung cấu thành cơ bản, nội dung thứ nhất là từ hai triệu đồng
đến dưới năm mươi triệu đồng; nội dung thứ hai là dưới hai triệu đồng
nhưng phải có thêm ít nhất một trong các điều kiện ở các điểm a,b,c.
Sau đó, một trong hai nội dung cấu thành cơ bản phải cộng thêm tình
tiết định khung tại khoản 2 mới có thể áp dụng khoản 2 để xử lý được.
Thêm nữa, cách đặt cụm từ “thuộc một trong các trường hợp
sau đây” cũng chưa hợp lý, chính xác: tại khoản 2 Điều 278 BLHS
quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt
tù…”. Như vậy, có thể dẫn đến cách hiểu thuộc một trong các trường
hợp đó thì bị phạt tù còn nếu không thuộc các trường hợp đó hoặc
thuộc nhiều hơn các trường hợp đó thì không thể xử lý được theo quy
định tại khoản 2. Vì theo logic là một trong các trường hợp mà không
phải là thuộc nhiều trường hợp bị xử lý. Trên thực tế từ trước đến nay
việc xử lý theo hướng có một hoặc đồng thời nhiều trường hợp tại
khoản 2 thì đều bị xử lý theo khoản 2, việc áp dụng này là phù hợp với
tinh thần của BLHS. Theo chúng tôi, có thể khắc phục những nhược
điểm trên bằng cách sửa đổi Điều 278 BLHS 1999 như sau:

18



“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
mà mình có trách nhiệm quản lý, thuộc một trong các trường hợp sau
đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Tài sản có trị giá từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng;
b) Tài sản có trị giá dưới hai triệu đồng và thuộc ít nhất một
trong các trường hợp sau đây:
- Gây hậu quả nghiêm trọng;
- Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
- Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc ít nhất một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Phạm tội nhiều lần;…”
* Kiến nghị sửa đổi định lượng giá trị tài sản bị chiếm đoạt xác
định tội tham ô tài sản
BLHS 1999 quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt tối thiểu là hai
triệu đồng, nếu xử lý hình sự với những hành vi chiếm đoạt tài sản hai
triệu đồng thì không xuể. Tình hình kinh tế nước ta đã có sự thay đổi,
phát triển mạnh mẽ. Giá tiêu dùng hàng năm liên tục tăng. Mức lương
tối thiểu từ năm 1999 cũng tăng từ 180.000 đồng lên 540.000 đồng
nay là 1.300.000 đồng. Như vậy, xét trong tình hình hiện nay quy định
này đã không còn phù hợp nữa, giá trị này chưa phản ánh được tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội mà hành vi tham ô tài sản gây ra.
Kiến nghị nâng mức định lượng tối thiểu để xác định tội tham ô tài sản
dựa vào mức lương tối thiểu có thể gấp ba, bốn, năm lần…để tránh

việc quy định “cứng” sẽ sớm bị lạc hậu...
19


* Kiến nghị quy định hình phạt tiền là hình phạt bắt buộc trong
tội tham ô tài sản
Hình phạt tiền là một trong những hình phạt bổ sung của Điều
278 BLHS. Trong tội tham ô tài sản, tiền là lợi ích vật chất mà người
phạm tội mong muốn đạt được. Tăng mức phạt tiền là đánh vào lợi ích
của người phạm tội, thông qua đó đạt được mục đích của hình phạt.
Tăng mức phạt tiền còn nhằm tước bỏ phương tiện phạm tội, góp phần
hạn chế hành vi phạm tội lại của tội phạm. Do đó, cần phải tăng cường
mức phạt tiền đối với tội tham ô tài sản để tác động mạnh hơn nữa tới
ý thức của người phạm tội. Mặt khác, nhà làm luật cũng nên quy định
hình phạt tiền là hình phạt bắt buộc trong tội tham ô tài sản, không nên
quy định là hình phạt mang tính lựa chọn như hiện nay.
* Kiến nghị sửa đổi quy định về thời hạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; quy định về thời hạn điều tra các
vụ án về kinh tế, chức vụ và tham nhũng
Tăng thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố hình sự (quy định tại khoản 2 Điều 103 BLTTHS) đối với
vụ việc có dấu hiệu vi phạm về kinh tế, chức vụ và tham nhũng là từ 4
tháng đến 6 tháng, đối với những vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì
đề xuất gia hạn, nhưng không quá 6 tháng. Tăng thời hạn điều tra các
vụ án hình sự (quy định tại khoản 2 Điều 119 BLTTHS) vi phạm về
kinh tế, chức vụ và tham nhũng là 6 tháng.
* Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp
Quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về điều kiện, trình tự, thủ tục, thời
gian trưng cầu giám định và tiến hành giám định; ban hành quy chuẩn
giám định phù hợp với từng lĩnh vực; xác định rõ cơ chế đánh giá, sử

dụng kết luận giám định; quy định cụ thể trách nhiệm thực hiện yêu
cầu giám định, tính độc lập trong giám định, trách nhiệm về kết luận
giám định và chế tài đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm
20


giám định nhưng từ chối, chậm thực hiện hoặc kết luận giám định
không rõ ràng, không đúng.. Thực hiện sửa đổi Luật giám định tư pháp
trong hoạt động định giá tài sản theo hướng phù hợp, đồng bộ với
BLTTHS…
3.2. Tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự về tội tham ô tài sản
Trong điều kiện đất nước hội nhập sâu rộng vào quan hệ kinh tế
quốc tế, các ngành: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đẩy mạnh thực
hiện phong trào thi đua trong toàn ngành, trong đó có nội dung tăng
cường công tác phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
tham nhũng; chủ động giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm và đơn
thư khiếu nại, tố cáo; đồng thời rút kinh nghiệm về những sai sót trong
quá trình áp dụng các quy định của pháp luật hình sự vào việc định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm tham nhũng, tham ô.
Định kỳ 6 tháng, năm, các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
việc sơ kết, tổng kết công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình
sự, trong đó có các loại án về tham nhũng nhằm đánh giá chất lượng
giải quyết án về các mặt. Tổng kết công tác điều tra, truy tố, xét xử có
mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề giải thích và hoàn thiện luật hình sự,
giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng khắc phục được những khó
khăn, vướng mắc khi áp dụng quy định pháp luật. Hoạt động tổng kết
thực tiễn là việc công bố, chọn lọc và hệ thống hóa quyết định, bản án
trở thành hình mẫu đáng tin cậy, giúp cho công tác điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án tham nhũng, tham ô về sau.

3.3. Nâng cao năng lực của những ngƣời áp dụng pháp luật
hình sự
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh” gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI,
21


XII về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng trong nội bộ lực lượng
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán.
Thường xuyên giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bản
lĩnh chính trị của mỗi cá nhân, cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh
lợi, vật chất. Tăng cường công tác phối hợp giữa đội ngũ điều tra viên,
kiểm sát viên, thẩm phán trong quá trình tiếp nhận, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng, tham ô, nhất là thể hiện
quan điểm trong định tội danh và quyết định hình phạt.
Tăng cường biên chế, tổ chức quản lý, đào tạo, bồi dưỡng nhằm
nâng cao nhận thức, trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán trực tiếp làm công tác
chống tham nhũng. Thực hiện tốt quy trình lựa chọn, bố trí cán bộ, kịp
thời phát hiện và tích cực bồi dưỡng điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm
phán trẻ. Từng bước cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi và thực hiện
đúng, kịp thời chế độ tiền lương và các loại phụ cấp đối với đội ngũ
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán.
3.4. Các giải pháp khác
3.4.1. Giải pháp về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra,
viện kiểm sát và tòa án trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
3.3.1.1. Đối với cơ quan điều tra
Hiện nay, việc điều tra các vụ án tham nhũng, tham ô tại địa
phương được giao cho Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và

chức vụ (PC46) thụ lý, giải quyết. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay lực
lượng điều tra viên rất mỏng, một số điều tra viên chưa có kinh nghiệm,
còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, nhất là về kinh tế, xây dựng, tài
chính, đất đai…; đề nghị: Thành lập Phòng Cảnh sát điều tra về tội
phạm tham nhũng tại Công an các tỉnh, thành phố (PC48). Hiện nay,
Bộ Công an có Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng (C48)

22


nhưng các tỉnh, thành phố thì trực thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội
phạm về kinh tế và chức vụ (PC46).
3.4.1.2. Đối với viện kiểm sát
Tiếp tục cụ thể hóa các nguyên tắc tư pháp tiến bộ được quy
định trong Hiến pháp 2013 có liên quan trực tiếp đến hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân…Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, kiện toàn tổ
chức và hoạt động của Phòng thực hành quyền công tố kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự về kinh tế, chức vụ (P3) các
tỉnh, thành phố theo hướng tăng biên chế kiểm sát viên, trang bị
phương tiện kỹ thuật hiện đại để quá trình kiểm sát các vụ án tham
nhũng cũng như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt các tội
phạm về tham nhũng được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
3.4.1.3. Đối với tòa án
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án hai cấp theo hướng
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương
tiện làm việc, bảo đảm thực hiện tốt các nguyên tắc hiến định: “Tòa án
thực hiện chế độ hai cấp xét xử”, “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; đồng thời, khắc phục
những tồn tại, bất cập hiện nay trong tổ chức và hoạt động của Tòa án,
nhất là trong xét xử các vụ án tham nhũng…

3.4.2. Giải pháp về cơ sở vật chất cho việc áp dụng pháp luật
xử lý tội phạm tham nhũng, tham ô
Việc thu hồi tài sản tham nhũng không những khắc phục được
hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi tham nhũng, trả lại nguồn
lực cho đất nước mà còn có ý nghĩa cảnh báo, ngăn chặn hành vi tham
nhũng, triệt tiêu động cơ kinh tế của người phạm tội. Xin đề xuất một
số giải pháp sau:
- Hoàn thiện pháp luật về sở hữu nhằm ngăn chặn việc hợp pháp
hóa quyền sở hữu đối với tài sản tham nhũng qua các giao dịch dân sự.
23


- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập
thực chất và có hiệu quả để kiểm soát được tài sản thu nhập trên thực
tế đối với cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu.
- Xác định rõ các hình thức thu hồi tài sản tham nhũng: thu hồi
trực tiếp, thu hồi gián tiếp, thu hồi tài sản, thu hồi giá trị tài sản; cơ chế
bồi thường chi phí trong quá trình thẩm định tài sản do tham nhũng mà
có, cơ chế hưởng lợi (cho thi hành án, cho cá nhân, đơn vị có quyền
lợi và nghĩa vụ hay có “công” đối với công tác thu hồi, người có công
phát hiện tài sản do tham nhũng mà có…)…
KẾT LUẬN
Những năm qua, cấp ủy, chính quyền và các cơ quan bảo vệ
pháp luật tỉnh Bình Định đã có nhiều cố gắng, quyết tâm trong việc
lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát hiện, đấu tranh đưa ra truy tố, xét xử
các vụ án tham ô tài sản. Qua phân tích những số liệu thống kê từ năm
2011 đến năm 2015, đã phần nào phản ánh được thực trạng: tội phạm
tham ô tài sản ngày càng diễn biến phức tạp, thủ đoạn tinh vi, hậu quả
thiệt hại gây ra ngày càng nghiêm trọng. Tội tham ô tài sản không
những gây thiệt hại về kinh tế mà còn gây bức xúc trong xã hội, làm

xói mòn lòng tin của nhân dân vào chính quyền.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự và nêu
lên những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng quy định của
pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản trong điều tra, truy tố, xét xử ,
luận văn đã đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tội
tham ô tài sản và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về tham ô tài sản trong thời gian tới.

24



×