Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Kỹ Thuật Nhiếp Ảnh Kỹ Năng Chụp Ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 29 trang )

KỸ THUẬT NHIẾP ẢNH CƠ BẢN

1. Exposure (sự phơi sáng)
Bản chất của chụp ảnh là sự phơi sáng. Máy ảnh là một hộp tối. Khi bấm nút chụp ảnh,
một cánh cửa được mở ra cho ánh sáng bên ngoài đi vào qua ống kính. Ánh sáng tác dụng
vào film (hay sensor đối với máy digital _ từ sau đây tôi chỉ nói đến film) để tạo ra hình
ảnh. Một bức ảnh ta có thể tạm chia làm hai phần : độ sáng và sự cân đối ánh sáng.
Ta hãy hình dung film là một vật thu sáng. Và độ sáng của bức ảnh quyết định bởi lượng
ánh sáng mà film thu được. Khi lượng ánh sáng vào quá nhiều thì ảnh sẽ trắng xóa còn
không đủ thì ảnh sẽ bị tối. Một bức ảnh có độ sáng đúng với đối tượng được chụp gọi là
đúng sáng.Ngoài yếu tố độ sáng ra, sự cân đối ánh sáng khác nhau sẽ tạo ra những bức
ảnh hoàn toàn khác nhau với cùng một độ sáng.
Lượng ánh sáng film thu được gọi là Ev ( Expoure value) . Chúng ta sẽ quay lại phần Ev
này sau.
Trước hết bạn sẽ tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến độ sáng của ảnh.
Apeture (Độ mở ống kính)
Độ mở ống kính là phần điều chỉnh cường độ ánh sáng đi qua ống kính. Chúng ta có thể
hiểu phần này như là khả năng cho ánh sáng đi qua của ống kính. Cấu tạo bộ phận này
bao gồm những lá mỏng ghép lại tạo ra khe hở dạng hình tròn có thể điều chỉnh được.
Tương ứng với các độ mở ống kính ta có dãy trị số tiêu chuẩn 1 , 1.4 , 2 , 2.8 , 4 , 5.6 , 8
, 11 , 16 , 32 … các trị số này gọi là F-stop hay Khẩu độ. Tại mỗi F-stop ta có đường kính
lỗ mở d tương đương f/1, f/1.4 , f/2 f/2.8 … và f chính là độ dài tiêu cự ống kính. Như vậy
ta có thể thấy Khẩu độ càng lớn thì đường kính d càng nhỏ và ánh sáng đi qua ống kính
càng ít. Và thêm một điều nữa là cùng một đường kính lỗ mở d nếu độ dài tiêu cự ống
kính càng dài thì khẩu độ càng lớn.


* Các bạn thường hay thắc mắc tại sao dãy trị số F-stop không phải là 1 ,2 ,3… mà là dãy
bội số của căn bậc hai của 2. Trong kỹ thuật chụp ảnh, người ta chọn tiêu chuẩn điều
chỉnh độ sáng với một khoảng cách là gấp đôi. Bạn có thể hiểu là khi bạn mở ống kính
thêm một khẩu độ có nghĩa là lượng ánh sáng thu được sẽ tăng gấp hai lần. Muốn như thế


diện tích lỗ mở phải tăng gấp đôi tương đương với đường kính tăng lên 1.4 lần. Đó là lý do
tại sao ta có dãy trị số trên.
Shutter Speed (Thời chụp hay tốc độ)

Ngoài việc điều chỉnh cường độ ánh sáng đi qua ống kính ta còn có thể điều chỉnh thời
gian cho ánh sáng đi vào để thay đổi độ sáng của ảnh chụp. Yếu tố này gọi là thời chụp
hay tốc độ chụp. Đơn vị tính là giây.
Thời gian này chính là thời gian màn trập trong máy mở ra để cho ánh sáng đi vào. Thời
gian này càng lâu (tốc độ chậm) thì lượng ánh sáng đi vào càng nhiều và ngược lại, thời
gian này càng ngắn (tốc độ nhanh) thì lượng sáng đi vào sẽ ít đi.
Cũng như phần độ mở ống kính, theo tiêu chuẩn thì khi tăng một nấc thời gian chụp thì
lượng ánh sáng đi vào gấp đôi. Tốc độ chụp nhanh hơn 1s có 1/2 , 1/4 , ….1/125,
1/250….Còn lâu hơn 1s là 2, 4, 8 , 16s….
Ngoài ra còn có ký hiệu B : màn chập mở cho đến khi buông tay bấm nút chụp.
Ký hiệu T : màn chập mở cho đến khi bấm nút chụp lần nữa.
Film speed (độ nhạy sáng của film)

Yếu tố này thể hiện khả năng hấp thụ ánh sáng của film.Có nhiều loại film khác nhau. Tuy
nhiên hiện thông dụng nhất vẫn là film màu âm bản .loại film này dễ chụp hơn so với các
loại khác nên thích hợp cho các bạn mới bắt đầu. Trên mỗi cuộn Film bạn sẽ thấy ghi độ
nhạy sáng là 50 , 100 hay 200 ASA… Film 100ASA tốc độ thu sáng gấp đôi so với 50ASA
và bằng một nửa so với 200ASA. Film có độ nhạy sáng càng cao thì hình ảnh càng độ mịn
hạt càng kém.


Qua phần trên các bạn đã hiểu sơ lược về ba yếu tố liên quan đến độ sáng của ảnh chụp.
Phần tiếp theo Tôi sẽ nói đến sự kết hợp ba yếu tố này.
Exposure Value (Ev)
Trong nhiếp ảnh, sự kết hợp của độ mở ống kính và tốc độ chụp cho ta một đại lượng đặc
trưng gọi là Exposure value (Ev). Ev 0 là khi ta đặt khẩu độ là 1 ở tốc độ chụp là 1 giây.

Ev được tính bằng kết hợp hai hàm logarit của giá trị độ mở ống kính (Apeture value) và
giá trị của thời chụp (Time Value).
EV = Av + Tv
Gọi N là trị số khẩu độ ( f-number) ta có Apeture value :

Nếu t là thời chụp tính bằng giây ta có Time Value:

Các công thức trên chỉ để tham khảo. Trong thực tế thì bạn chỉ cần hiểu là với khi bạn mở
ống kính thêm một khẩu độ thì thời gian chụp phải giảm đi một nửa (hay ngược lại) thì Ev
không thay đổi. Các bạn cần lưu ý một điểm mà các bạn mới chụp hay nhầm lẫn là mở
ống kính thêm một khẩu nghĩa là giảm f-number một stop. Ví dụ như từ f/8 về f/5.6 .
Ánh sáng tác động vào film còn phụ thuộc vào độ nhạy sáng của film. Độ nhạy sáng của
film thì đơn giản như khẩu độ hay tốc độ chụp là tăng gấp đôi thì lượng sáng vào sẽ tăng
gấp đôi. Film 100asa thì gấp đôi 50asa, 200asa thì gấp đôi film 100asa… Tùy thuộc vào
điều kiện chụp khác nhau sẽ có những chọn lựa khác nhau .Tuy nhiên để đơn giản thì các
bạn mới chụp nên căn cứ vào mức chuẩn 100asa.
Quay lại độ sáng của hình chụp, đó là kết quả của việc dựa vào ánh sáng của chủ đề, độ
nhạy sáng của film, khẩu độ và tốc độ chụp. Độ nhạy sáng của film thì tất nhiên là càng
thấp thì hình ảnh càng mịn. Nhưng không phải điều kiện nào cũng có thể chọn lựa film có
độ nhạy thấp được. Chúng ta sẽ quay trở lại vấn đề này trong bài nói về film. Còn bây giờ
để đơn giản thì hãy chọn film 100asa và quan tâm đến khẩu độ và tốc độ.
Dưới đây là bảng giá trị Ev để các bạn tham khảo:


Trong bảng trên, các giá trị Ev giống nhau sẽ nằm trên một đường chéo từ góc dưới bên
trái sang góc trên bên phải. Ngay tại một Ev nào đó trong bảng, dóng thẳng sang bên trái
và thẳng lên phía trên bạn sẽ tìm được một cặp Khẩu độ và tốc độ tương ứng. Nhìn trong
bảng bạn sẽ thấy có nhiều cặp khẩu độ khác nhau cho cùng một Ev. Như vậy khi chọn
khẩu độ và tốc độ khác nhau thì hình ảnh sẽ khác nhau như thế nào? Phần tiếp theo tôi sẽ
trình bày về các yếu tố liên quan khi bạn chọn khẩu độ và tốc độ để có được bức ảnh như

ý.
Depth Of Field ( DOF)
Một thực tế là khi bạn chụp một bức ảnh, độ rõ nét không xuyên xuốt. Khi bạn canh nét
vào chủ đề thì trước và sau chủ đề sẽ có khoảng không rõ nét. Khoảng cách mà ảnh còn
rõ nét trước và sau điểm lấy nét (tạm) gọi là độ sâu trường ảnh và thường gọi tắt là DOF.
Khoảng rõ nét do nhiều yếu tố ảnh hưởng đến. Tuy nhiên yếu tố đầu tiên có thể nói là độ
mở ống kính.


Các bạn có thể xem hình minh họa sau đây.

Điểm lấy nét trong tất cả các hình là điểm giữa khoảng 3 – 4 inch. Số 3 và 4 rõ nét trong


tất cả các hình. Các điểm còn lại rõ nét dần khi độ mở ống kính khóa nhỏ lại. Đến đây các
bạn có thể hiểu rằng khi ống kính khép nhỏ lại thì khoảng rõ nét càng mở rộng hơn.
Giải thích một chút về khoảng rõ nét. Các bạn xem hình bên dưới.

Chủ đề là điểm màu vàng và cũng là điểm lấy nét. Vì lấy nét vào chủ đề nên hiển nhiên
các tia sáng từ chủ đề qua ống kính sẽ hội tụ trên film. Các điểm khác có cùng khoảng
cách với chủ đề đều hiện rõ trên film. Bây giờ hãy xem điểm màu trắng xa hơn chủ đề.
Điểm ảnh rõ của điểm trắng sẽ nằm ở phía trước film và ảnh của nó in trên film sẽ là vòng
tròn màu trắng. Khoảng trắng đó gọi là Circle of Confusion ( CoC ).
Vấn đề đặt ra ở đây là làm cách nào để thu hẹp vòng tròn lờ mờ đó để ảnh rõ nét hơn.
Trong hình minh họa dưới đây, bạn thấy từ một điểm sẽ có một chùm tia sáng đi qua ống
kính và tạo ảnh trên mặt phẳng film. Khi khóa bớt cửa điều sáng lại nghĩa là một số tia
sáng bị chặn lại ( phần màu xanh nhạt). Do đó phạm vi của CoC cũng được thu hẹp lại và
hình ảnh trở nên sắc nét hơn.

Hyperfocal

Khi bạn lấy nét vào điểm xa vô cực thì hình ảnh sẽ rõ nét từ vô cực cho đến một khoảnhg
cách nào đó trước ống kính. Khoảng cách không rõ nét trước ống kính khi bạn lấy nét ở vô
cực gọi là Hyperfocal.


Sau khi xác định được khoảng hyperfocal bạn lấy nét lại vào khoảng cách đó. Lúc này độ
sâu trường ảnh DOF sẽ bắt đầu từ giữa khoảng hyperfocal đến vô cực. Thực tế đây là DOF
lớn nhất mà bạn có thể đạt được. Tuy nhiên bạn phải lưu ý rằng khoảng cách hyperfocal
này không cố định mà phụ thuộc vào khẩu độ ống kính. Ở mỗi F-stop thì khoảng cách
hyperfocal đều khác nhau.

Như vậy trong trường hợp chụp hình cần lấy dof thật rộng, hình rõ nét trong phạm vi lớn
nhất thì bạn sẽ lấy nét vào khoảng cách hyperfocal kết hợp với đóng nhỏ độ mở ống kính .
Đúng là cứ áp dụng đúng chiêu này là các bác có DOF lớn nhất ứng với tiêu cự và
khẩu độ ống kính trong các trường hợp. Tuy nhiên, cái kỹ thuật này k0 áp dụng được cho
chụp macro, dù cái này trong nhiều trường hợp cũng đòi hỏi DOF rất "sâu". Thực tế thì chỉ
còn landscape là cần DOF lớn, cho nên kỹ thuật này được áp dụng phổ biến nhất với chụp
landscape.
Về thực hành thì theo cái hình vẽ của bác Asa, các bác cũng thấy là với mỗi tiêu cự và
khẩu độ ống kính thì có một hyperfocal tương ứng. Chứ thực tế thì màn hình LCD của máy
số cũng khó mà giúp ta nhận ra cái điểm nào bắt đầu out net khi focus vào vô cực để xác
định hyperfocal. Dùng nút Depth preview trên (D)SLR cũng khó nhận ra lắm nhất là khi
khép khẩu lớn vì nó sẽ tối xầm. Cái này có công thức tính sẵn rồi. Cho nên, nếu thuộc cái
công thức ấy thì các bác cứ phang thẳng ra, còn k0 thì nhét cái bảng tính Hyperfocal
người ta làm sẵn để lúc nào chụp thì lôi ra tra cứu.
H = l^2 / (f.c)
H: hyperfocal
l : tiêu cự ống kính
f : khẩu độ
c : đường kính circle of confusion (với film 35mm thì họ chọn là ~ 0.025mm)

Ta được cái bảng sau:



Source: Nikonians.org
Trông vào thì thấy ngay là với góc càng rộng (l càng nhỏ) và khép khẩu sâu (f càng lớn)
thì sẽ cho H nhỏ tức là DOF thật lớn. Thích hợp nhất với chụp landscape. Và cũng k0 thể
áp dụng các con số trên cho việc chụp thể loại nào khác ngoài landscape cả. Đồng thời, ở
khoảng cách H nhỏ thì dễ ước lượng bằng mắt thường hơn. Cho nên chỉ cần quan tâm đến
tiêu cự dưới 80mm and/or khẩu độ khép tương đối sâu. Chứ tele trở lên là mệt rồi.

Shutter Speed ( Tốc độ hay Thời chụp)
Qua phần trên, các bạn đã biết được sự liên quan giữa khẩu độ và độ nét sâu của ảnh


chụp. Phần tiếp theo các bạn sẽ quan tâm đến đó là tốc độ chụp. Như đã đề cập ở phần
đầu tiên, lượng ánh sáng vào film phụ thuộc vào thời gian màn chập mở, tuy nhiên có thể
kết hợp với việc thay đổi khẩu độ để có được hình ảnh cùng độ sáng với các tốc độ chụp
khác nhau. Trên máy tốc độ nhỏ hơn 1s được ký hiệu bằng một con số thông thường. Ví
dụ 250 nghĩa là 1/250s, 30 là 1/30s... Tốc độ lớn hơn 1s thì ký hiệu là con số đi kèm với
dấu 〞ví dụ 2” là 2s, 8” là 8s...
Khi chụp chủ đề chuyển động là lúc bạn sẽ lưu ý đến tốc độ chụp. Để bắt đứng chủ đề bạn
sẽ phải chụp với tốc độ nhanh. Ngược lại để có ảnh mờ dạng chuyển động (motion blur)
bạn sẽ chụp với tốc độ chậm hơn. Xem hình ảnh minh họa sau đây để thấy rõ hơn.


Cùng chụp chiếc xe chuyển động, nhưng các bạn thấy rõ rằng tốc độ chụp càng chậm thì
chủ đề càng không rõ. Khi chụp ảnh không có chân máy để không bị “rung tay” thông
thường sẽ phải chụp với tốc độ từ 1/30s thậm chí có thể từ 1/60s trở lên. Chụp với tốc độ
chậm hơn, cần thiết bạn phải dùng đến chân máy.

Khi chụp trong điều kiện ánh sáng đủ không có khả năng chụp với tốc độ chậm được thì
bạn sẽ phải dùng đến kính lọc ND (Neutral Density). Kính lọc này sẽ giúp bạn giảm cường
độ sáng vào ống kính. Ngược lại khi chụp ban đêm điều kiện ánh sáng không đủ, bạn phải
có chân máy để chụp với tốc độ chụp chậm.
Tôi sẽ quay lại phần kính lọc ND này chi tiết hơn sau bài này.

Khi muốn thể hiện sự chuyển động của chủ đề, bạn sẽ dùng kỹ thuật lia máy (paning). Có
nghĩa là khi chụp máy sẽ được lia “bám” theo chủ đề. Khi đó chủ đề sẽ rõ nét, phông nền
sẽ lu mờ .


Đôi khi chụp phong cảnh, cần có sự thể hiện một chuyển động nào đó như mưa rơi, nước
chảy ….thì bạn cũng sẽ dùng đến tốc độ chụp chậm hơn. So sánh hai hình dưới đây bạn sẽ
thấy hiệu quả của việc chụp tốc độ chậm tạo ra hình ảnh chuyển động của dòng suối.


Các chế độ chụp căn bản
Trên máy SLR hiện nay đều được hỗ trợ bằng các thiết bị điện tử. Thông thường trên các
máy sẽ có 4 chế độ căn bản sau đây:
1.Manual: (Thủ công)
Các thông số chụp khẩu độ và tốc độ sẽ chọn hoàn toàn bằng thủ công. Đôi khi bạn cố ý
muốn chụp một bức ảnh với các thông số khác biệt dạng như dư sáng overexposure hay
thiếu sáng (underexoposure) … bạn sẽ phải chọn chế độ chụp này. Ký hiệu trên máy: M
2.Progaram: (Tự động hoàn toàn)
Hai thông số tốc độ và khẩu độ sẽ do máy hoàn toàn tự chọn. Công việc còn lại của bạn là
lấy nét và chụp. Ký hiệu trên máy: P
3.Aperture-Priority ( Chọn khẩu độ _ Tốc độ chụp tự động)
Chế độ này người chụp sẽ chọn khẩu độ và tốc độ chụp sẽ do máy tự động đưa ra. Chế độ
này thường được chọn để kiểm soát vùng ảnh rõ DOF. Tuy nhiên cần lưu ý khi ánh sáng
thiếu việc chọn độ mở ống kính bé có thể làm tốc độ chụp giảm thấp khiến ảnh bị run tay.

Ký hiệu trên máy A hay Av
4.Shutter speed- Priority ( Chọn tốc độ chụp _ Khẩu độ do máy tự chọn)


Chế độ này người chụp sẽ chọn trước tốc độ chụp, máy sẽ tự động chọn khẩu độ tương
ứng. Chế độ này thường được chọn khi chụp ảnh động nhằm kiểm soát hiệu quả tạo động
trên ảnh. Ký hiệu trên máy S hay Tv
Trên đây là các chế độ căn bản. Các nhà sản xuất còn thiết kế các chế độ tự động khác
như chụp thể thao, chụp phong cảnh, chụp chân dung… thì các bạn sẽ xem trong hướng
dẫn đi kèm theo máy.
Neutral Density Filters ( Kính lọc ND)
Tác dụng của kính lọc ND là làm giảm cường độ ánh sáng đi vào ống kính. Sau khi gắn
kính lọc ND, nếu giữ nguyên độ mở ống kính thì tốc độ chụp sẽ chậm lại, nếu giữ nguyên
tốc độ chụp thì ống kính phải mở rộng hơn. Các bạn có thể xem bảng dưới đây.

Đường màu đỏ thể hiện một lượng ánh sáng thu được (EV) trên đường đó với các cặp tốc
độ và khẩu độ để có một lượng sáng thu được giống nhau. Sau khi gắn kính lọc ND thì
đường đó bây giờ là đường đứt nét. Và trên đó là hai ví dụ về giữ nguyên tốc độ và giữ
nguyên độ mở ống kính sau khi gắn ND.
Trên kính lọc ND có các cách ghi thông số khác nhau. Ở đây tôi đưa ra hai dạng thường
gặp
Dạng thứ nhất là theo độ đậm của kính(density) và dưới đây là bảng thể hiện sự giảm
khẩu độ tương ứng (Reduction by f-stops).


Ví dụ như hãng Tiffen hay B&W có filter ND loại 0.3, 0.6 và 0.9 để giảm sáng 1, 2 và 3 fstop.
Còn hãng Hoya hay Nikkon thì dùng thông số 2,4 hay 8 để giảm 1 , 2 hay 3 f-stop…
Tất cả các kính lọc ND đều lọc ở dạng thang độ xám (gray) không màu. Các loại kính lọc
ND chỉ khác nhau về độ đậm nhạt để giảm sáng nhiều hay ít. Trong hình dưới đây là hai
kính lọc ND4 và ND8 của Nikon. Các bạn có thể dễ dàng nhận thấy bóng của cái ND8 thì

đậm hơn ND4.

Ví dụ áp dụng kính lọc ND
*Dùng để giảm tốc độ chụp
Trong nhiều trường hợp chụp cảnh động chúng ta phải chụp với tốc độ màn chập chậm
hơn bình thường để tạo hiệu quả chuyển động trên hình ảnh ( motion blur). Ảnh minh họa
dưới đây chụp ở chế độ Av ( tốc độ chụp tự động). Chọn khẩu độ ở f2.8 (tốc độ chụp chậm
nhất) mà hình ảnh vẫn còn bị bắt đứng do ánh sáng quá mạnh. Để tốc độ chụp có thể
chậm hơn ta dùng đến kính lọc ND. So với không dùng kính lọc ND thì dùng kính lọc ND4
có tốc độ chụp bằng 1/4 và kính lọc ND8 có tốc độ chụp bằng 1/8.


Một đặc điểm nữa của kính lọc ND là bạn có thể ghép nhiều kính chồng lên nhau. Ví dụ
kính ND4 + ND8 sẽ giảm cường độ ánh sáng 2+3= 5 f-stop
*Dùng để tăng độ mở ống kính.
Tác dụng chính của kính lọc ND là làm giảm cường độ ánh sáng đi vào ống kính.Và điều
này có thể giúp chúng ta mở rộng ống kính với cùng mộ tốc độ chụp như nhau. Có nghĩa
là bạn sẽ thay đổi được khoảng cách của vùng ảnh rõ (DOF). Trong các hình minh họa
dưới đây dược chụp ở chế độ Tv, tốc độ chụp là 30. Hình đầu tiên bên trái không dùng
kính lọc nên hiệu quả xóa phông chưa cao. Hai hình bên phải dùng thêm kính lọc ND4 và
ND8 nên độ mở ống kính tăng 2 và 3 f-stop. Kết quả là khoảng ảnh rõ thu hẹp lại và chủ
đề nổi bật hơn trên phông nền bị xóa mờ. Trong trường hợp ánh sáng quá gắt cũng có thể
dùng hai kính lọc ND ghép với nhau để ống kính có thể mở rộng hơn.

Đo sáng và bù sáng.
Metering
Hệ thống đo sáng trong máy chụp căn bản được gọi là TTL . Trong camera sẽ có thiết bị
nhận và đo ánh sáng phản xạ từ chủ đề. Vì thế có thể nói thiết bị đo sáng trong thân máy
là loại thiết bị đo sáng phản xạ. Có loại thiết bị đo cầm tay kiểu thu ánh sáng trực tiếp,
nhưng trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu về thiết bị đo sáng trong máy.

Căn bản thì có 3 dạng đo sáng ( metering) trong thân máy.
1. Matrix metering : Đo sáng lấy trị số trung bình trên gần hết bề mặt hình ảnh


2. Center metering : Đo sáng trong một vùng nhỏ trung tâm hình ảnh
3. Spot metering : Đo sáng tại điểm trung tâm.

Tùy theo cấp độ máy, có thể không có đủ các loại đo sáng kể trên hoặc có thay đổi trong
từng loại đo sáng. Với công nghệ hiện nay thì các chức năng đo sáng đã thay đổi khá
nhiều. Ví dụ như matrix metering được chia thành nhiều điểm hơn nên trị số trung bình
trên toàn ảnh được đo chính xác hơn. Ứng dụng các loại đo sáng tôi sẽ quay lại trong bài
căn bản thực hành.
Khi đo sáng, ánh sáng phản xạ từ chủ đề rất đa dạng. Màu sắc , chất liệu .... ảnh hưởng
đến sự phản xạ ánh sáng nên nếu không có một tiêu chuẩn để đo sáng thì không được. Và
người ta đã chọn màu xám gray 18% làm tiêu chuẩn để đo sáng. Do đó khi đo sáng trên
thân máy, bạn cần phải hướng máy đo vào vùng gần với màu xám gray18% nhất. Khi cần
thiết có thể dùng miếng giấy gray 18% đặt gần chủ đề để đo sáng.
Bản chất của thiết bị đo sáng trong thân máy như đã giải thích ở trên,nên khi chụp mặc
dù đã đo sáng nhưng chuyện hình ảnh không đúng sáng vẫn xảy ra là chuyện bình
thường. Chẳnh hạn như trường hợp hình ảnh toàn màu sắc sặc sỡ... thì đo sáng trong
trong thân máy khó chính xác.
Compensation
Tôi tạm gọi những chủ đề có màu sáng như màu trắng cát biển, màu da người da trắng,
màu mặt nước trong... là A . Màu đen của than, màu da người da đen , màu mặt nước
đen... là B. Vì đo sáng bằng ánh sáng phản xạ nên hệ thống đo sáng trong máy rất dễ bị
sai. Trong trường hợp này ta thấy rõ cùng một nguồn sáng như nhau nhưng khi đo sáng
giữa A và B có thể chênh nhau 2 đến 3 F-stop. Cũng vì lý do này mà trong thân máy có đo
sáng phải hỗ trợ thêm chức năng bù sáng ( compensation)
A nhiều màu trắng nên tính phản xa ánh sángcao
B nhiều màu đen nên tính phản xa ánh sáng thấp



Khi đo sáng vào A thì phải điều chỉnh bù sáng theo hướng cộng (+) và khi đo sáng vào B
thì phải điều chỉnh bù sáng theo hướng trừ (-). Hầu hết các máy có chức năng bù sáng
đều có thể điều chỉnh từng nấc 1/2 hoặc 1/3 F-stop.
Cụ thể bạn post vài hình đã chụp kèm thông số thì mình sẽ phân tích chỗ bạn bị sai. Bạn
chĩ nói chung chung như vầy khó biết bạn đã sai chỗ nào.
Để các bạn hiểu rõ hơn về chức năng bù sáng, tôi làm một cái test nhỏ sau
Hình ảnh được chụp bằng chế độ Av, đo sáng spot metering.
Hình đầu tiên chụp đo sáng vào Graycard 18% làm chuẩn.

Loạt hình tiếp theo chụp đo sáng trực tiếp vào nền trắng của xe


Rõ ràng các bạn dễ dàng nhận thấy nền trắng của xe lúc này được hạ xuống để có độ
sáng tương đương với Graycard. Để có được nền trắng thì phải bù sáng theoi hướng tăng
(+).
Đặt quyển catalog vào điểm đo sáng ta có kết ngược lại như sau:


Ảnh chụp ra trở nên dư sáng vì máy đã nâng nền đen của quyển catalog để có độ sáng
tương đương graycard. Lúc này cần phải bù sáng theo hướng giảm (-) để có được nền đen
đúng với thực tế.
Kết quả cho thấy đo sáng của máy hoàn toàn phụ thuộc vào độ sáng của điểm đo sáng do
đo sáng bằng phương thức phản xạ. Nếu có graycard chuẩn hay máy đo sáng trực tiếp thì
việc đo sáng sẽ chính xác hơn và bạn sẽ không phải quan tâm nhiều đến việc bù sáng
trong những trường hợp thông thường.


Comments

Được gửi bởi Exodus

trong bảng "Table of exposure values"của bạn đang thí dụ là sử dụng ISO 100. Vậy nếu chúng ta sử
dụng ISO là 200 thì các giá trị sẽ dịch chuyển như thế nào ah ?
Thanks
Bảng giá trị EV thực ra chỉ giúp ta so sánh độ sáng của ảnh khi tăng giảm tốc độ cửa chập
và khẩu độ mở. Nếu để ý theo đường chéo, bạn sẽ thấy giá trị không đổi khi tăng cái này
đồng thời giảm cái kia. Tất nhiên đó mới xét 2 yếu tố với điều kiện ISO không đổi.
Còn ISO thì sao? ISO tăng cũng làm độ sáng của ảnh tăng (mà theo cách tính ở bảng tức
là chỉ số EV giảm), và ngược lại. Tính toán thì loằng ngoằng lắm, nhưng tóm lại là thế
này:
- Tăng ISO thêm một bước (tức là tăng gấp đôi lên, ví dụ 100 lên 200, 200 lên 400, v.v...)
sẽ làm tăng độ sáng của ảnh tương đương với giảm tốc độ của chập xuống một nửa hoặc
mở khẩu độ thêm một khẩu (khẩu tính theo thang 1, 1.4, 1.8, 2.8, 4, 5.6, 8, 11, 16, 22,
32). Vì thế để EV không đổi, khi tăng ISO thì phải tăng tốc độ của chập lên theo, hoặc
khép khẩu độ mở lại (tức là tăng chỉ số khẩu độ mở).
Các trường hợp sau sẽ cho độ sáng tương đương (tức giá trị EV không đổi), nếu tra bảng
EV = 12:
1. IS0 100 + f/5.6 + 1/125s ==> EV=12
2. ISO 200 + f/5.6 + 1/250s ==> EV=12
3. ISO 200 + f/8 + 1/125s ==> EV=12
Bạn áp dụng cách tính này sẽ có một bảng giá trị EV cho từng ISO để bỏ túi sử dụng cho
tiện :D
Cái này cứ loạn xì ngầu cho người mới tính toán vì cứ tăng tăng giảm giảm lung tung. Tốc
độ tăng thì ánh sáng lại giảm, chỉ số khẩu độ mở giảm thì độ mở lại to hơn... mặt ngẩn tò
te đến toát mồ hôi.
Nhưng mà chụp ít bữa nó quen, có khi chỉ làm theo phản xa, chẳng tính toán gì, cứ thế tự
nhiên tay nó vặn tới đó là xoạch.
Độ sáng tối của một bức ảnh - theo khái niệm ảnh truyền thống - phụ thuộc vào khẩu độ
mở (apature), tốc độ cửa chập (shutter speed) và độ nhạy ISO của phim, nay trong máy

KTS là tấm cảm biến thay cho phim (xin gọi tắt ba yếu tố này ở đây là A-S-ISO).
Tuy nhiên, còn có những yếu tố khác cũng ảnh hưởng tới độ sáng tối của một bức ảnh:
A - Ống kính: Các ống kính đồ sộ với nhiều chi tiết thấu kính có thể làm tối ảnh đi đôi
chút, ngay trên cùng một máy DSLR và cùng đặt 3 yếu tố trên như nhau. Điều này có thể
thấy với các ống kính như vậy, việc căn nét tự động thường khó hơn ít nhiều so với ống
tiêu chuẩn (normal);
B - Chế độ cũng như thiết kế và chất lượng của phần mềm xử lý ảnh số cài đặt trong máy


KTS, thấy rất rõ khi đặt lưu trữ ở định dạng tệp ảnh JPG/JPEG.
Với yếu tố A, theo nhận xét cá nhân của tôi, các chế độ của máy PnS (và cả máy PnS/ du
lịch cao cấp) thường được thiết kế cho ảnh sáng hơn. Một điều dễ thấy là các ống kính của
PnS thường nhỏ, ngắn và ít thấu kính, vì vậy cùng một chế độ A-S-ISO rất có thể cho ảnh
sáng hơn.
Với yếu tố B, có thể các nhà thiết kế đã tính toán nhu cầu, mục đích chụp ảnh của người
chơi loại máy PnS để thiết kế phù hợp, có thể là các yếu tố kiểm soát chất lượng qui
chuẩn khác....
Hơn nữa, ở cả PnS và DSLR thường có chế độ xử lý ảnh khác nhau trước khi xuất thành
tệp JPG như normal (bình thường), vivid (tươi), v.v....
Nói thêm, rất nhiều người sử dụng máy DSLR không để ý tận dụng các chế độ xử lý ảnh
JPG trên máy (ở Canon và Nikon đều gọi là Optimize image) và thường để ở chế độ mặc
định của nhà sản xuất là normal. Với DSLR bạn nên nghiên cứu và sử dụng chế độ tự mặc
định (custom) để máy xử lý ảnh phù hợp với môi trường ánh sáng khi chụp. Với chức năng
này bạn có thể điều chỉnh độ sắc nét của ảnh, gam màu và sắc của ảnh, bù sáng, .... Ở
các máy PnS cao cấp cũng có thể có các chế độ này.
Ngoài ra, lý do làm ảnh có độ sáng tối khác nhau với cùng A-S-ISO rất có thể do qui
chuẩn của nhà sản xuất cũng như cho từng máy chưa hoàn toàn theo một chuẩn chính
xác duy nhất - hoặc chưa kiểm soát được các chuẩn này về mặt công nghệ - nên ở các
máy khác nhau sẽ cho hiệu ứng ảnh khác nhau.
Bù sáng

Một khó khăn lớn nhất khi bắt đầu chụp ảnh đó là lượng phơi sáng. Hiểu đơn giản đó là độ
sáng của một bức ảnh. Yếu tố này chủ yếu hiệu chỉnh bằng tốc độ chụp và khẩu độ. Một
lượng ánh sáng vào nhiều hơn sẽ làm cho bức ảnh sáng lên và ít hơn sẽ làm bức ảnh tối
đi. Rất nhiều bạn thắc mắc thế nào là bức ảnh đúng sáng. Với tôi thì không có khái niệm
đúng sáng, chỉ có khái niệm chụp được ảnh với độ sáng đúng theo ý đồ của người chụp.
Với những chiếc máy ảnh hiện nay thông thường luôn có sẵn chức năng đo sáng. Nhưng
cũng có rất nhiều người bắt đầu chơi ảnh bị rắc rối với chức năng này. Nếu hiểu được cơ
chế đo sáng hay máy đã đo sáng như thế nào thì bạn mới đọc hiểu được hiển thị mức đo
sáng trên máy. Máy đo sáng bằng cách đo cường độ ánh sáng vào máy , dựa trên cường
độ sáng , tốc độ , khẩu độ ,iso … nói gọn là thông số chụp để tính toán lượng sáng sẽ vào
máy. Lượng sáng này sẽ so sánh với một lượng sáng qui chuẩn để hiển thị trên thanh đo
sáng. Lượng sáng qui chuẩn chính là đo ánh sáng từ tấm gray card 18%. Nghĩa là khi bạn
chỉnh thông số chụp trên máy , nếu vạch báo sáng nằm ở vị trí 0 ( nhiều người hay nghĩ
nhầm vị trí này là đúng sáng ) thì tấm ảnh của bạn sẽ có độ sáng tương tự như tấm gray
card 18%. Do đó tùy từng điều kiện chụp cụ thể thì vạch báo sáng phải nằm ở vị trí thích
hợp thì mới gọi là đúng sáng. Khi bạn đo sáng môi trường sáng mạnh thì vạch này phải
nằm ở vị trí +Ev, càng sáng thì +Ev càng nhiều. Khi đo ở môi trường ánh sáng tối hơn thì
vạch đo sáng phải ở vị trí –Ev, càng tối –Ev càng nhiều.


Khi chụp với chế độ tự động hay bán tự động ( Av,Tv….) thì máy sẽ thiết lập thông thông
số sao cho ảnh bạn chụp ra tương đương với tấm gray card 18%. Nên máy kèm theo chức
năng bù sáng để giúp bạn bù lại cái hạn chế của chức năng đo sáng. Lấy tấm gray card
18% làm chuẩn. Nếu chụp nơi có độ tương phản sáng hơn thì phải bù theo hướng +Ev thì
ảnh mới sáng lên như bạn thấy bên ngoài. Nếu không bù thì ảnh sẽ bị đưa độ sáng về
tương đương gray card 18% nên ảnh sẽ thiếu sáng. Cũng vì lý do này nhiều bạn hay thắc
mắc em chụp ngoài trời nắng to mà ảnh nó cứ tôi tối thế nào. Ngược lại khi chụp với
nguồn có độ tương phản tối hơn thì phải bù sáng theo hướng –Ev. Nếu không bù thí ảnh
ra sẽ sáng lên tương đương với grey card 18%. Từ đây ta có thể kết luận nếu đo vào tấm
grey card 18% hoặc tương tự thì không cần phải bù. Một chiêu thức nhiều bạn hay áp

dụng là đo vào lòng bàn tay. Với những bạn da tay tương đương grey 18% thì không cần
bù. Nếu trắng hơn hay đen hơn thì bạn tự tìm hiểu xem bù bao nhiêu thì vừa để dành khi
nào cần đo thì biết mà bù.
Một yếu tố nữa cũng làm một số bạn đau đầu là sự đa dạng của cách lấy ánh sáng vào
máy để đo sáng. Thông thường sẽ có 3 dạng chính. Nếu lấy ánh sáng trung bình trên toàn
khung hình thì gọi là Matrix Metering ( đa điểm ) , nếu lấy sáng một vùng nhỏ xung quanh
tâm điểm thì gọi là Center Metering ( vùng trung tâm ), và cuối cùng là lấy sáng từ một
điểm gọi là Spot Metering ( đơn điểm). Tùy theo nhu cầu bạn sẽ chọn phương cách đo phù
hợp.
Một phụ kiện thường đi kèm theo máy ảnh là đèn flash.
Trước khi tìm hiểu về đèn Flash bạn phải hiểu thông số quan trọng nhất của flash là chỉ
số GN ( guide number ). Thường có giá trị ở độ nhạy sáng ghi ở 100iso
GN = f-number x khoảng cách chụp

Nhìn công thức GN bạn thấy khi chụp vơi flash thì bạn chỉ nên quan tâm khẩu độ và
khoảng cách chụp. Tốc độ chụp , tiêu cự … có ảnh hưởng nhưng không phải là yếu tố
chính nên các bạn tạm gác sang một bên.
Khi chụp với flash thì bạn phải nắm chắc con số GN này để kiểm soát được khả năng chiếu
sáng của đèn.
Ví dụ bạn có GN là 12 thì khi chụp ở f/4 thì khoảng cách chụp sẽ là 3 mét. Nếu chụp f/8
thì khoảng cách chụp chỉ còn 1,5 mét. Nếu f/4 là khẩu lớn nhất thì khoảng cách chụp xa
nhất là 3m (100 iso). Có bạn sẽ hỏi tăng iso lên có tăng được khoảng cách xa nhất ?


Khi khoảng cách tăng gấp đôi , diện tích chiếu sáng tăng lên 4 lần tương đương độ sáng
giảm 4 lần. Do đó tăng iso lên 4 lần khoảng cách tăng lên gấp đôi. Tăng iso lên 2 lần
khoảng cách tăng lên √2.
Các loại đèn thường gặp
Flash cóc


.Trước hết lầ đèn flash trên máy thường gọi là Flash cóc (built-in flash / pop-up flash ).
Hầu như máy ảnh ngày nay đều tích hợp sẵn đèn flash trên máy. Từ máy compact đến
máy ống kính rời. Flash cóc công suất thường không mạnh ,GN chỉ khoảng 13. Ngoài vấn
đề công suất yếu , do tích hợp trên máy nên khoảng cách gần ống kính nên dễ gây ra
hiện tượng mắt đỏ, và nếu dùng ống kính dài dễ bị bóng đen do ống kính che đèn.
.Flash cóc thường phát sáng theo chế độ tự động , một vài model có thể chỉnh được
manual.


-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------Flash rời
Flash rời được gắn lên máy , chỗ gắn flash gọi là hot-shoe
Căn bản thì 3 loại thông dụng
1.Manual
Là loại đèn flash có cấu tạo đơn giản nhất

Để ý sẽ thấy đèn rất đơn giản, mặt trước chỉ có duy nhất đèn phát sáng, mặt sau là bảng
tra iso , khoảng cách và khẩu độ. Khi chụp cứ tra theo bảng này mà cài đặt thông số
chụp.
Vì cấu tạo đơn giản nên đèn luôn phát hết công suất , hao pin và không điều chỉnh được
độ sáng.
2.Auto


×