Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.52 KB, 85 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi Đảng và Nhà nước ta có chủ trương đổi mới chuyển từ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt
Nam đang có những bước tiến vượt bậc, tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm
luôn đạt trên 7%, là nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh trên thế giới.
Nhân tố chủ chốt trong sự phát triển kinh tế này chính là các doanh nghiệp,
những người trực tiếp mang về nguồn thu cho nền kinh tế quốc dân.
Chính vì vậy, việc tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Việt Nam, giúp các doanh nghiệp bắt kịp với trình độ sản xuất, công nghệ
trên thế giới, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào trong nước… là
những mục tiêu hàng đầu mà Nhà nước ta đã đề ra ngay từ những ngày đầu
hội nhập. Để thực hiện được điều đó thì yếu tố vốn đầu tư là một trong
những yếu tố then chốt, quyết định.
Có nhiều nguồn vốn doanh nghiệp có thể khai thác như huy động trong
nhân dân thông qua phát hành trái phiếu, thu hút đầu tư nước ngoài, góp vốn
liên doanh, cổ phần hóa… Tuy nhiên nguồn vốn thông dụng nhất vẫn là vay
ngân hàng. Mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp là một mối quan
hệ bền chặt, chi phối lẫn nhau và thường là lâu dài, mang lại lợi ích cho cả
đôi bên.
Vì vậy, nhận thức được tầm quan trọng của các doanh nghiệp đối với
nền kinh tế đất nước cũng như xuất phát từ những khó khăn của doanh
nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, đề tài: “Mở rộng hoạt
động cho vay doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai” được lựa chọn để nghiên cứu cho
luận văn nhằm đưa ra một cách toàn diện hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp trong một giai đoạn nghiên cứu.


2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về mở rộng hoạt động cho vay đối


với doanh nghiệp của ngân hàng
- Phân tích thực trạng mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp tại
Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Gia
Lai.
- Đề xuất những giải pháp mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp tại
Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Gia
Lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Toàn bộ các vấn đề liên quan việc mở rộng hoạt động cho vay đối với
doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Gia Lai.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn đề cập đến hoạt động mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp
tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh
Gia Lai giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2011 và đề xuất hướng mở rộng
hoạt động cho vay đến năm 2015
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, đề tài sử dụng
phương pháp điều tra, tổng hợp, so sánh để phân tích đánh giá tình hình đưa
ra những nhận định và đề xuất mới.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương chính như
sau:


Chương 1: Những lý luận cơ bản và mở rộng hoạt động cho vay doanh
nghiệp
Chương 2: Thực trạng mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp tại
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp tại

Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai
6. Tổng quan tài liệu
Doanh nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong sự phát
triển của kinh tế đất nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hiện nay còn gặp
nhiều khó khăn về nhiều mặt, đặc biệt trong việc tiếp cận với nguồn vốn
ngân hàng. Vì thế, luận văn này nghiên cứu và đưa ra những giải pháp giúp
các doanh nghiệp dễ dàng trong việc tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, còn
đối với hoạt động cho vay doanh nghiệp của các ngân hàng giúp nâng cao
hiệu quả, hạn chế rủi ro gặp phải trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Để thực hiện được những nghiên cứu trên, trong những điều kiện hạn hẹp có
được, tác giả luận văn đã tích cực tìm hiểu, tham khảo các công trình, luận
văn khoa học của những người đã thực hiện trước, có liên quan với những
nội dung chính như sau:
Đề tài: “Mở rộng tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Đăk Lăk” của tác giả
Võ Duy Bình (năm 2011).
Trong chương 1 tác giả đã làm rõ các vấn đề lý luận về tín dụng ngân
hàng cho doanh nghiệp và các vấn đề lý luận mở rộng tín dụng doanh nghiệp
của ngân hàng thương mại. Tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu
thống kê, so sánh, phân tích…để phân tích tình hình mở rộng hoạt động tín
dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHNo&PTNT tỉnh Đăk Lăk. Tác giả đã
phân tích những khó khăn, vướng mắc trong việc cấp tín dụng của chi nhánh


cũng như việc tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp ở Đăk Lăk. Từ
đó, đề xuất các giải pháp mở rộng tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
NHNo&PTNT tỉnh Đăk Lăk.
Đề tài: “Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Nam Hà Nội” của tác giả Lê Phương Nga
(năm 2008)

Tác giả đã đề cập các vấn đề lý luận về tín dụng ngân hàng cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ và các vấn đề lý luận mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa
và nhỏ của ngân hàng thương mại. Đề đã nêu lên một số cơ sở lý luận về
hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay DNVVN nói riêng, tìm
hiểu và vận dụng vào việc phân tích để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Đồng thời
tác giả đã giới thiệu hoạt động của chi nhánh NH ĐT&PT Nam Hà Nội
trong 2 năm 2006-2007, phân tích hoạt động cho vay DNVVN tại Chi
nhánh, phát hiện những điểm mạnh và điểm yếu của hoạt động này, trên cơ
sở đó đề ra những giải pháp và một số kiến nghị nhằm mở rộng cho vay
DNVVN. Trên cơ sở những kết quả đạt được cũng như chưa đạt được theo
mục tiêu đề ra, chưa khai thác hết tiềm năng của địa phương cũng như chưa
đáp ứng kịp thời nhu cầu của nền kinh tế, đề tài đã đưa ra những giải pháp
và kiến nghị để mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Nam Hà Nội.
Đề tài: “Mở rộng cho vay doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ
phần Á Châu chi nhánh Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thanh Nghị (năm 2008)
Đầu tiên, tác giả đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tín dụng ngân
hàng, về mở rộng cho vay doanh nghiệp của ngân hàng thương mại. Tác giả
đã phân tích những khó khăn, vướng mắc trong việc cấp tín dụng của chi
nhánh cũng như việc tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp ở Hà Nội.


Từ đó, đề xuất các giải pháp mở rộng tín dụng doanh nghiệp tại Ngân hàng
TMCP Á Châu – Chi nhánh Hà Nội.
Đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại Ngân
hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Đà Nẵng” của tác giả Hồ Thị Thắng (năm
2012)
Trước tiên tác giả đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tín dụng ngân
hàng, đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tiếp theo, tác
giả đã phản ánh thực trạng hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các

doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Đà Nẵng, phân tích
những khó khăn và các nguyên nhân của nó để từ đó mạnh dạn đưa ra một
số giải pháp nhằm phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp.
Với mong muốn Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Đà Nẵng
nhanh chóng trở thành một trong những TCTD hàng đầu tại Đà Nẵng, qua
đề tài tác giả đã đóng góp mộ số ý nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với
khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Đà
Nẵng từ đó tăng thị phần và chiếm lĩnh thị trường thúc đẩy hoạt động kinh
doanh hiệu quả hơn
Những giá trị tham khảo được từ các công trình nghiên cứu trên, cùng
với thực tế cho vay doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam – Chi nhánh Gia Lai là những cở sở quan trọng giúp tôi thực hiện đề tài
“Mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai” , phân tích được thực
trạng mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp, từ đó đưa ra những giải pháp
mở rộng cho vay doanh nghiệp đồng thời hạn chế rủi ro thấp thấp nhất khi mở
rộng cho vay tại chi nhánh.


CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN MỞ RỘNG HOẠT ÐỘNG
CHO VAY DOANH NGHIỆP
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY DOANH
NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG
1.1.1. Tín dụng ngân hàng:
a. Ðặc điểm và vai trò của tín dụng ngân hàng
Để hiểu rõ về tín dụng ngân hàng, chúng ta cần hiểu rõ về khái niệm
ngân hàng. Có rất nhiều khái niệm về ngân hàng, tùy vào cách tiếp cận khác
nhau mà có những định nghĩa khác nhau, thông thường ngân hàng được định
nghĩa qua chức năng, dịch vụ hoặc vai trò của chúng trong nền kinh tế.

Trước tiên ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính, trung gian tài
chính là một tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân thực hiện các chức năng
trung gian giữa hai hay nhiều bên trong một hoạt động tài chính nhất định.
Trung gian tài chính bao gồm: ngân hàng, tổ chức công nông/hiệp hội, tổ
chức tín dụng nghiệp đoàn, đơn vị cố vấn tài chính và môi giới, các công ty
bảo hiểm, quỹ tương hỗ, hưu trí…
Ơ Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên
cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài
chính.
Ðạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng
thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là
nhận tiền bạc của công chúng duới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức
khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết
khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng 2010: Ngân hàng là loại
hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng


theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại
hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác xã.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá
trị được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hay hiện vật, từ người sở hữu sang
người sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định và khi đến thời hạn của
khoảng thời gian trên, người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu một
lượng giá trị lớn hơn. Phần tăng thêm về giá trị được gọi là phần lời hay lợi
tức. Ðây chính là cái giá mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu để được
quyền sử dụng một lượng tiền tệ hay hiện vật nhất định.
Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá
trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn

tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.
Ngân hàng cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức
cho vay, bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá, cho thuê tài chính và các hình
thức khác theo quy định của NHNN như bao thanh toán, tài trợ nhập khẩu, tài
trợ xuất khẩu….
Tín dụng ngân hàng đến với doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu vốn để duy
trì quá trình sản xuất liên tục, đồng thời đầu tư phát triển kinh tế. Là công cụ
tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn của
đất nước, ngoài ra còn tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với nước
ngoài.
b. Các hình thức tín dụng ngân hàng
− Cho vay
Là hình thức cấp tín dụng, là việc bên cho vay cung cấp nguồn tài
chính cho bên đi vay trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho
vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất. Do hoạt động


này làm phát sinh một khoản nợ nên bên cho vay còn gọi là chủ nợ, bên đi
vay gọi là con nợ. Do đó, Tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên - Một
bên là người cho vay, và một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng
buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả,...
Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá
trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn
tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.
− Chiết khấu giấy tờ có giá

Là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó các tổ chức tín dụng thỏa thuận mua
giấy có giá của khách hàng trước hạn thanh toán, trong trường hợp giấy tờ có
giá đã chiết khấu một lần tại tổ chức tín dụng mà tổ chức tín dụng này đem
chiết khấu tại các tổ chức tín dụng khác hoặc ngân hàng trung ương thì

nghiệp vụ này gọi là tái chiết khấu.
− Bảo lãnh
Theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng phát hành một cam kết bằng
văn bản với một bên thứ ba do khách hàng chỉ định (bên thụ hưởng bảo lãnh)
về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên thụ
hưởng bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho Ngân hàng số tiền
đã được trả thay.
Tùy theo mục đích và nhu cầu của khách hàng mà ngân hàng cung cấp
các sản phẩm bảo lãnh khác nhau như: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh
toán /thư tín dụng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh
bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh thanh toán tiền ứng trước, bảo lãnh
đối ứng, bảo lãnh du học…


− Bao thanh toán
Là một hình thức cấp tín dụng của TCTD cho bên bán hàng thông qua
việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã được
bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng.
Hoặc các TCTD tạm ứng trước một khoản tiền và thu nợ hộ người bán, thông
qua hợp đồng Bao thanh toán với một khoản phí. Các DN khi bán hàng trả
chậm cho khách hàng (đặc biệt là bán hàng cho nước ngoài), nếu sợ rủi ro
trong việc thu tiền trả chậm (trường hợp người mua không thanh toán cho
người bán) thì sẽ yêu cầu ngân hàng Bao thanh toán rủi ro này.
− Cho thuê tài chính
Là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy
móc thiết bị, phương tiên vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa Bên cho thuê là các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và
Bên thuê là khách hàng.
Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển

và các động sản khác theo yêu cầu của Bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với
các tài sản thuê trong suốt quá trình thuê.
Bên thuê được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời
hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng thuê
trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở
hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã được hai
bên thoả thuận.
1.1.2. Hoạt động cho vay doanh nghiệp của ngân hàng thương mại
a. Doanh nghiệp và vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế


Khái niệm doanh nghiệp


Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Cũng theo Luật doanh nghiệp năm 2005 giải thích, kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi. Như vậy doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi, mặc dù
thực tế một số tổ chức doanh nghiệp có các hoạt động không hoàn toàn nhằm
mục tiêu lợi nhuận.


Phân loại doanh nghiệp
Theo luật này còn quy định thì hình thức pháp lý của các loại hình
doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là

doanh nghiệp mà các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công
ty.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vì số vốn đã góp vào doanh
nghiệp.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là
chủ sở hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành
viên hợp danh). Thành viên hợp doanh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong
công ty hợp danh còn có các thành viên góp vốn.


Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp, mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật
đầu tư nước ngoài 1996 chưa đăng kí lại hay chuyển đổi theo quy định.
 Vai trò và vị trí của doanh nghiệp trong sự phát triển của nền kinh
tế
Các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, phân tích
hoạt động của doanh nghiệp trong mối quan hệ với khu vực kinh tế ta sẽ thấy
rõ vị trí và vài trò của doanh nghiệp thể hiện qua các mặt sau đây:
Theo thống kê, doanh nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tăng
trưởng GDP (chiếm 50% đến 60% trong tổng sản phẩm quốc nội) và thu hút
một lực lượng lao động đáng kể, tạo nhiều công ăn việc làm, góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần khai thác những tiềm năng trong dân
chúng. Điều đó cho thấy doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong

nền kinh tế nước ta, thể hiện qua:
Một là, góp phần giải phóng sức sản xuất, thu hút mọi nguồn lực vào
giải quyết việc làm, tăng thu nhập, là nhân tố quan trọng trong tăng trưởng và
phát triển kinh tế đất nước. Khu vực doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế hiện thu hút khoảng 50% lực lượng lao động phi nông nghiệp. Đây cũng là
nơi thuận tiện nhất để tiếp nhận số lao động ở nông thôn ra thành phố đang
tăng lên mỗi năm và số lao động dôi ra từ các doanh nghiệp nhà nước qua
việc cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê, …
Hai là, doanh nghiệp cung cấp một khối lượng lớn, đa dạng phong phú
về sản phẩm, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trước đây,
hầu hết các lĩnh vực kinh tế và các ngành nghề sản xuất đều do khu vực nhà
nước đảm nhận. Hiện nay, trừ một số lĩnh vực và ngành nghề mà nhà nước


giữ vai trò độc quyền, còn hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có sự
tham gia của khu vực ngoài quốc doanh với mức độ ngày càng lớn. Khi nền
kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
có nhiều cơ hội kinh doanh hơn đồng nghĩa các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh
hơn dãn đến các doanh nghiệp buộc phải đổi mới cồng nghệ, phương thức sản
xuất để tồn tại rồi từ đó mở rộng quy mô phát triển bền vững.
Ba là, các doanh nghiệp cùng ngày càng phát triển quy mô lớn bổ sung
cho quy mô nhỏ và ngược lại hỗ trợ lẫn nhau, tạo ra một nền kinh tế thị
trường đích thực, có hiệu quả, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát
triển mạnh mẽ, bền vững.
Bốn là, doanh nghiệp góp phần vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở các nước cũng như ở Việt Nam, các
doanh nghiệp thường tập trung ở các thành phố và các trung tâm công
nghiệp, gây nên trạng thái mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội giữa thành thị với nông thôn, giữa các vùng trong một
quốc gia. Chính sự phát triển ngày càng mạnh của doanh nghiệp là phương

tiện quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối giữa các vùng, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa các ngành và các vùng
lãnh thổ.
Năm là, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp góp một phần
đáng kể trong việc thu ngân sách nhà nước. Do vậy, để tăng cường thu ngân
sách thì nhà nước phải ổn định kinh tế vĩ mô để doanh nghiệp tập trung toàn
lực sản xuất kinh doanh để phát triển kinh tế và đời sống xã hội.
Sáu là, doanh nghiệp cung cấp cho nền kinh tế lượng lớn hàng hóa dịch
vụ một phần phục vụ chi tiêu trong nước và xuất khẩu tạo ra chủng loại hàng
hóa phong phú và chất lượng sản phẩm ngày càng nâng cao, góp phần ổn định
kinh tế, chính trị và xã hội.


Doanh nghiệp không những có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
mà còn tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng phát triển theo. Do đó, việc
mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp là điều cần thiết đối với các tổ chức tín
dụng hiện nay.
 Cho vay doanh nghiệp của ngân hàng thương mại
Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên
chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian
nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả cả gốc và lãi
theo thời hạn đã thoả thuận. Cho vay là là một trong những hình thức cấp tín
dụng của ngân hàng cho khách hàng.
 Các loại hình cho vay doanh nghiệp



Căn cứ vào mục đích
+ Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công

nghiệp, thương mại và dịch vụ.
+ Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
+ Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động,
nhiên liệu…
+ Cho vay thanh toán xuất nhập khẩu: Áp dụng cho các khách hàng vay
vốn để mua hàng hóa – nguyên vật liệu, nhập máy móc thiết bị trong và ngoài
nước để xuất khẩu và/hoặc nhập khẩu, nhằm mục đích sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp




Căn cứ vào thời hạn cho vay
+ Cho vay ngắn hạn: là cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, được sử
dụng nhằm mục đích tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn
ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất và cá nhân. Đối với
NHTM tín dụng ngắn hạn chiếm tỉ trọng cao nhất.
+ Cho vay trung hạn: là cho vay có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng,
tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây
dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong
nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng: máy
cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cao su, cà
phê…
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 60 tháng, tín dụng
dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như
xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, các dự án lớn

của quốc gia, xây dựng các xí nghiệp mới…



Căn cứ vào hình thức bảo đảm đối với khách hàng
+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: là loại cho vay được ngân hàng
cung ứng phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của
người thứ ba. Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng,
khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để
ngân hàng có thêm nguồn một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ
nhất thiếu chắc chắn.
+ Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản: là loại cho vay không có tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung
thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì


ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà
không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.


Căn cứ vào hình thức cho vay
+ Cho vay từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân
hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, một số
khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ
khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức
là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ
sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay theo hạn mức: đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng
thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức có thể tính cho cả

kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được
cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn
của khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi
khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý
ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các
kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính,
hoặc dư nợ lâu không giảm sút
+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hóa, doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Ngân hàng và
khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các
nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được


thỏa thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả
mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết
định có cho vay nữa hay không tùy mối quan hệ giữa ngân hàng và khách
hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ
vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay
chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu
cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
+ Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho

vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài
trợ cho tài sản cố định.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng
hóa mua trả góp. Khả năng tài trợ phụ thuộc vào lợi nhuận của doanh nghiệp,
nếu doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính trong quá trình hoạt động thì khả
năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi
suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay
của ngân hàng.
+ Cho vay hoàn trả thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó
ngân hàng cho phép khách hàng được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán
của mình đến một thời hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới
hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về
thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự
đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều


kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh,
kịp thời.
1.2. MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY DOANH NGHIỆP CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Nội dung mở rộng hoạt động cho vay doanh nhiệp
Cũng như mở rộng sản xuất kinh doanh là tất yếu trong kinh doanh của
các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại trước hết cũng là doanh nghiệp nên
mở rộng cho vay là vấn đề luôn được quan tâm của các ngân hàng. Hơn nữa,
hoạt động cho vay của các ngân hàng Việt Nam là hoạt động chính vì thế quá
trình tăng trưởng quy mô cho vay là tất yếu.
Quá trình mở rộng cho vay trước tiên thể hiên qua mở rộng qui mô cho
vay, thể hiện qua tăng trưởng dư nợ cho vay. Để thực hiện được điều này, các
ngân hàng phải tăng cường thu hút khách hàng, mở rộng thị trường, đa dạng

hóa các sản phẩm dịch vụ cộng với chính sách lãi suất linh hoạt, nâng cao
chất lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh… là những yếu tố
không thể thiếu khi phát triển và tiếp cận khách hàng mới. Ngoài ra, đối với
các khác hàng đang quan hệ với ngân hàng, ngân hàng nên xem xét tăng nhu
cầu tài trợ vốn khi khách hàng có nhu cầu để việc mở rộng cho vay đạt được
kết quả tối ưu nhất.
Tuy nhiên việc mở rộng cho vay luôn đi đôi với gia tăng rủi ro nợ xấu
cho ngân hàng, vì vậy việc mở rộng quy mô cho vay phải gắn liền với vấn đề
kiểm soát rủi ro. Do đó, để tìm cách tối đa hóa lợi nhuận thì mở rộng cho vay
phải đi liền với kiểm soát rủi ro trong hoạt động kinh doanh và buộc các ngân
hàng phải mở rộng cho vay đối với những đối tượng khách hàng mà khi cấp
tín dụng thì rủi ro là nhỏ nhất.
Để làm được điều đó thì ngân hàng phải có những chính sách tín dụng
phù hợp đối với từng khách hàng, đồng thời thực hiện tốt quy trình về cho


vay như: thẩm định kỹ năng lực tài chính cũng như phi tài chính, kiểm tra
trước trong và sau khi cho vay.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá mở rộng cho vay doanh nghiệp
a. Tăng trưởng quy mô cho vay
− Tăng trưởng dư nợ
Dư nợ cho vay doanh nghiệp là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn
cho doanh nghiệp vay trong thời điểm nhất định và thường là ở thời điểm cuối
kỳ. Đây là số tuyệt đối thể hiện quy mô cho vay tới doanh nghiệp tại một thời
điểm nhất định.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tăng cường và mở rộng tín dụng đáp
ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo sự phát triển của
ngân hàng và đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Dư nợ cho vay DN năm
Tăng trưởng dư nợ cho

vay DN =

sau
Dư nợ cho vay DN năm
trước

− Tăng trưởng số doanh nghiệp vay vốn
Mở rộng cho vay không những thể hiện chỉ tiêu dư nợ tăng lên, mà còn
thể hiện qua số lượng khách hàng doanh nghiệp gia tăng so với cùng kỳ hoặc
số lượng doanh nghiệp tại địa phương có quan hệ vay vốn với ngân hàng . Số
lượng doanh nghiệp tăng lên điều này cho chúng ta thấy việc mở rộng cho
vay đã đạt được những kết quả nhất định.
− Tăng trưởng dư nợ trên một doanh nghiệp
Tiêu chí này phản ánh tỷ lệ tăng trưởng dư nợ bình quân của mỗi doanh
nghiệp so với tổng số lượng tăng trưởng doanh nghiệp, nếu dư nợ của mỗi
doanh nghiệp tăng lên thì ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu về vốn vay của
nhiều doanh nghiệp hơn. Dư nợ cho vay và số lượng doanh nghiệp tăng lên


thì ngân hàng đã có được sự phát triển cả về số lương doanh nghiệp và số tiền
cho mỗi món vay.
Dư nợ bình quân khách
hàng =

Dư nợ cho vay doanh nghiệp
Số lượng doanh nghiệp

b. Đa dạng hóa sản phẩm và hoàn thiện cơ cấu dư nợ
Các sản phẩm do ngân hàng cung cấp chiếm vị trí quan trọng khi doanh
nghiệp đến với ngân hàng, vì thế sản phẩm càng phong phú thì càng thuận

tiện trong việc tiếp cận và mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp.
Một ngân hàng đa dạng hóa được sản phẩm cho vay sẽ có khả năng
cạnh tranh và phát triển hoạt động cho vay của mình. Đây là nhân tố ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của ngân hàng.
c. Nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp
Doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế, góp phần
đưa tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm luôn đạt mức trên 7%. Ở nước ta hiện
nay, phát triển doanh nghiệp là vấn đề được nhà nước quan tâm đặc biệt vì sự
phát triển của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào các doanh nghiệp. Mà trong
giai đoạn đầu của kinh tế thị trường thì vai trò của các doanh nghiệp có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Xuất phát từ vai trò của các doanh nghiệp đòi hỏi
phải có sự hỗ trợ từ nhiều phía để doanh nghiệp ngày càng phát triển. Nguồn
hỗ trợ chủ yếu và quan trọng nhất là từ các NHTM.
Hiện nay, các NHTM nhận thức được vai trò quan trọng của doanh
nghiệp trong nền kinh tế nên xem đây là khách hàng mục tiêu của mình và
luôn tìm cách mở rộng cho vay. Do vậy, đã nảy sinh sự cạnh tranh gay gắt
giữa các ngân hàng cũng như quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng
bộc lộ nhiều vướng mắc. Chính vì thế, nâng cao chất lượng cho vay là vấn đề
đặt ra và cần có những biện pháp để giải quyết. Các thủ tục, quy trình cho vay


luôn đòi hỏi phải cải tiến để đảm bảo tiện ích cho các doanh nghiệp cũng như
an toàn vốn cho ngân hàng
d. Tăng trưởng thu nhập từ cho vay doanh nghiệp
Để phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp
nào thông thường người ta nghĩ ngay đến chỉ tiêu lợi nhuận, tức thu nhập trừ
đi mọi chi phí. Tuy nhiên, với đặc điểm của mình hoạt động cho vay doanh
nghiệp bao gồm nhiều chi phí mà ở cấp độ chi nhánh không thể tính toán hết.
Do vậy, để phản ánh kết quả tăng trưởng hoạt động cho vay doanh nghiệp,
chúng ta tạm thời sử dụng chỉ tiêu tăng trưởng thu nhập qua các thời kỳ, từ đó

xác định phương hướng và mục tiêu mở rộng cho vay doanh nghiệp trong các
năm tiếp.
e. Kết quả kiểm soát rủi ro
Như chúng ta đã biết về sự cần thiết về kiểm soát rủi ro nói trên. Để
kiểm soát rủi ro ngân hàng phải tiến hành các biện pháp quản trị rủi ro, và
cuối cùng để phản ánh kết quả của những biện pháp này, người ta có thể dùng
các chỉ tiêu dưới đây:
− Mức giảm tỷ lệ nợ xấu
Chỉ tiêu này cho biết trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp thì có bao
nhiêu là nợ quá hạn, nợ xấu, hay nói cách khác là nợ quá hạn, nợ xấu chiếm
bao nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ.
Tỷ lệ nợ xấu cho
vay DN =

Nợ xấu cho vay DN
Tổng dư nợ cho vay DN

− Mức giảm trích lập dự phòng rủi ro
Mức trích lập dự phòng rủi ro là một chỉ tiêu chi phí trong hoạt động
tín dụng của NHTM, do đó nó trực tiếp quyết định việc lợi nhuận có tăng lên
cùng với sự mở rộng cho vay hay không,


Số tiền trích lập dự phòng rủi ro mà các NHTM phải trích được tính
bằng:
R = max {0, (A – C)} x r
Trong đó:

R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị của khoản nợ

C: giá trị của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể, tỷ lệ này được quy định tương

ứng với từng nhóm nợ của khách hàng, nhóm nợ có mức độ rủi ro càng cao
thì tỷ lệ trích lập dự phòng càng lớn.
− Mức giảm tỷ lệ nợ xóa ròng
Chỉ tiêu này thể hiện trong một số khoản cho vay ngân hàng không thể
thu hồi số tiền khi cho khách hàng vay, có nghĩa là khách hàng không có khả
năng trả nợ từ phương án khi vay vốn ngân hàng thì ngân hàng xóa khỏi sổ
sách món nợ do khách hàng vay (xuất và theo dõi ngoại bảng) thì gọi là nợ
xóa ròng.
Nợ xóa ròng là mức tổn thất thật sự do rủi ro cho vay mang lại của hoạt
động tín dụng ngân hàng. Do vậy nếu tỷ lệ này cao chứng tỏ chất lượng hoạt
động cho vay của ngân hàng là thấp dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu
quả. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xóa ròng được tính như sau:
Tỷ lệ nợ
xóa ròng

Dư nợ xóa ròng
Tổng dư nợ cho vay

=
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay doanh nghiệp
a. Các nhân tố bên trong ngân hàng
Chính sách tín dụng: là kim chỉ nam cho cán bộ tín dụng ngân hàng
thực hiện một khoản cho vay tốt. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút


nhiều doanh nghiệp đến xin vay vốn, đảm bảo khả năng sinh lời của khoản
vay. Căn cứ vào chính sách tín dụng, cán bộ tín dụng sẽ biêt cách phân tán rủi

ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước. Toàn bộ các vấn
đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được xem xét và đưa ra trong
chính sách như: quy mô, lãi suất, kỳ hạn, tài sản đảm bảo, các khoản tín dụng
có vấn đề… Điều này có nghĩa là việc mở rộng cho vay doanh nghiệp phụ
thuộc nhiều vào chính sách tín dụng của ngân hàng đó.
Quy trình tín dụng: để chuẩn hóa quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay
và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích
tín dụng. Đó là các bước mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan
trong ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Nếu việc ứng dụng
quy trình tín dụng linh hoạt, có sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý giữa các bước sẽ
vừa làm hài lòng khách hàng tạo uy tín để khách hàng xin vay những nguồn
vốn lớn, vừa đảm bảo an toàn cho khoản vay, tạo điều kiện mở rộng cho vay
đối với doanh nghiệp.
Xử lý thông tin tín dụng: là những thông tin về khách hàng, môi trường
kinh doanh của khách hàng, tình hình kinh doanh của khách hàng…mà cán bộ
tín dụng nắm bắt được và xử lý những thông tín đó. Thông tin càng chính xác,
nhanh nhạy thì khả năng phòng ngừa rủi ro của ngân hàng càng lớn, càng có
cơ sở để mở rộng thêm nhiều loại hình cho vay phù hợp với nhu cầu của
khách hàng. Mặt khác, một ngân hàng với lượng thông tin phong phú có thể
đưa ra những tư vấn hữu ích cho khách hàng và đây cũng là yếu tố mở rộng
quy mô cho vay.
Công nghệ ngân hàng: trong thời đại công nghệ thông tin, khoa học kỹ
thuật như hiện nay, bất cứ ngành nghề nào cũng có sự đóng góp của công
nghệ hiện đại. Ứng dụng công nghệ vào trong ngân hàng giúp tăng tốc độ xử
lý công việc, tăng sự chính xác, khai thác được nhiều thông tin về doanh


nghiệp để đưa ra quyết định cho vay chính xác. Thủ tục giản tiện hơn cũng
khuyến khích doanh nghiệp tìm đến ngân hàng vay vốn
Nguồn lực tài chính: các ngân hàng Việt Nam hiện nay hầu như đều

cho vay trên tất cả các lĩnh vực như: cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay
phi sản xuất, cho vay dư án, cho vay nông nghiệp nông thôn… vì vậy, ngân
hàng phải có tiềm lực về vốn đồng thời có kế hoạch phân bổ nguồn vốn thật
hợp lý, tránh bị động làm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh cũng như lợi
nhuận của ngân hàng. Chính vì thế nguồn vốn cho vay đóng vai trò rất quan
trọng trong việc mở rộng hoạt động tín dụng của các ngân hàng.
Cở sở vật chất và trình độ cán bộ: cơ sở vật chất cũng là một yếu tố
ảnh hưởng đến hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. Nếu quy mô cơ
sở vật chất khang trang, tiện nghi và hiện đại thì ngân hàng sẽ tạo được tâm lý
tốt với khách hàng mới quan hệ lần đầu đồng thời tạo được sự an tâm về năng
lực tài chính với chính khách hàng hiện tại đang giao dịch với ngân hàng.
Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng có vai trò quan trọng trong
việc mở rộng cho vay. Với một đội ngũ cán bộ giỏi am hiểu nghiệp vụ của
mình thì việc lựa chọn đánh giá khách hàng chuẩn xác, mức độ an toàn cao là
cơ sở để ngân hàng có thể tin tưởng mở rộng quy mô cho vay của mình. Nếu
chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá
không tốt, cố tình làm sai… là những nguyên nhân dẫn tới mất tín nhiệm với
doanh nghiệp, hoạt động cho vay bị hạn chế.
b. Các nhân tố bên ngoài
Nhu cầu vay vốn của khách hàng: doanh nghiệp khi đi vay vốn cũng có
nhiều mục đích sử dụng vốn khác nhau như: vay vốn để sản xuất kinh doanh,
đầu tư dự án… cho nên ngân hàng cũng phải cân đối các nguồn vốn ngắn hạn,
trung dài hạn để đảm bảo khi khách hàng đến với mình đề nghị vay vốn thì
mọi nhu cầu của khách hàng ngân hàng đều có thể thỏa mãn được.


Điều kiện đáp ứng của khách hàng: doanh nghiệp đi vay có ảnh hưởng
quan trọng đến quy mô và chất lượng khoản vay. Nếu doanh nghiệp kinh
doanh hiệu quả, có khả năng dự đoán các vấn đề kinh doanh tốt, làm ăn với
ngân hàng lâu năm, uy tín cao thì chắc chắn nhu cầu tín dụng của họ sẽ được

ngân hàng đáp ứng đầy đủ. Ngược lại nếu trình độ yếu kém, chủ định lừa đảo
cán bộ ngân hàng, chây ì, làm ăn thua lỗ… thì khả năng ngân hàng cho vay là
không có thể xảy ra, ngân hàng không mở rộng cho vay.
Tình hình thị trường và sự cạnh tranh: đến thời điểm hiện tại Việt Nam
có khoản 40 ngân hàng trong nước, 30 ngân hàng có 100% vốn nước ngoài và
chi nhánh nước ngoài, 10 công ty cho thuê tài chính cùng thực hiện công tác
tín dụng. Vì thế, doanh nghiệp rất thuận tiện tiếp cận các kênh vay vốn khác
nhau nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tìm kiếm khách hàng của
ngân hàng.
Các yếu tố kinh tế, xã hội khác: doanh ngiệp hoạt động trong môi
trường kinh tế, vì thế bất cứ sự biến động nào của môi trường kinh tế cũng
ảnh hưởng trực tiếp tới doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng gián tiếp tới ngân
hàng. Nếu nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện lợi cho hoạt động tín
dụng phát triển lành mạnh.
+ Các yếu tố như trật tự xã hội, an toàn an ninh xã hội có ảnh hưởng
trực tiếp đến lòng tin của khách hàng. Thật vậy, nếu như một địa bàn có an
ninh trật tự không tốt sẽ gây tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư, họ sẽ không
bỏ vốn vào đó, hạn chế nhu cầu vay vốn, ngân hàng sẽ không thể cho vay
đươc.
+ Hoạt động của ngân hàng nằm trong hành lang pháp lý hẹp, chịu sự
điều chỉnh của Ngân hàng Trung ương để phù hợp với chính sách kinh tế của
đất nước, và phải tuân theo một hệ thống các văn bản pháp luật, văn bản dưới
luật kết cấu với nhau một cách chặt chẽ, thống nhất. Nếu Ngân hàng Trung


ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, kìm hãm lạm phát thì ngân hàng
thương mại không thể mở rộng cho vay. Ngược lại, nếu Ngân hàng Trung
ương thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, khuyến khích đầu tư, thì ngân
hàng thương mại có thể mở rộng cho vay.
+ Môi trường chính trị phản ánh sự bình ổn của một quốc gia. Một đất

nước luôn có khủng bố, đảo chính, chiến tranh… thì không những nền kinh tế
bị phá hủy, phát triển chậm chạp mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu
tư, không thu hút được đầu tư. Do đó ngân hàng cũng không thể mở rộng cho
vay, hoạt động của ngân hàng cũng vì thế mà ỳ trệ, không phát triển được.
Kết luận chương 1
Trong chương này, luận văn đã hệ thống những vấn đề cơ bản về tín
dụng ngân hàng, các hoạt động cho vay của doanh nghiệp đối với ngân hàng
thương mại. Đưa ra những tiêu chí đánh giá mở rộng doanh nghiệp và những
nhân tố ảnh hưởng đến thực trang mở rộng của hoạt động cho vay.


×