Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Giải pháp phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn Quy Nhơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.3 KB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN NGỌC SƠN

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN QUY NHƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Đà Nẵng - Năm 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN NGỌC SƠN

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN QUY NHƠN

Chuyên ngành: Kinh tế Phát triển
Mã số: 60.31.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đào Hữu Hòa

Đà Nẵng - Năm 2012



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan trên đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Sơn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.

3


5. Kết cấu của đề tài

3

6. Tổng quan tài liệu

3

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ

7

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ HỘ
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA

7

1.1.1. Khái niệm kinh tế hộ

7

1.1.2. Đặc điểm của kinh tế hộ.

9

1.1.3. Vai trò của kinh tế hộ.

13


1.1.4. Khái niệm phát triển kinh tế hộ.

23

1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ

24

1.2.1. Phát triển về mặt số lượng

24

1.2.2. Phát triển về mặt chất lượng

26

1.2.3. Phát triển về mặt quy mô

28

1.2.4. Phát triển về mặt cơ cấu

31

1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

35


1.3.1. Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về phát triển kinh tế hộ

35

1.3.2. Tiềm năng, lợi thế của địa phương

37

1.3.3. Năng lực, khát vọng vươn lên làm giàu của người dân

39


1.3.4. Quy mô và tính chất của thị trường
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

40
41

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA
ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUY NHƠN

42

2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH
HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ

42


2.1.1. Điều kiện tự nhiên

42

2.1.2. Điều kiện kinh tế

43

2.1.3. Điều kiện về xã hội

45

2.1.4. Một số thuận lợi, khó khăn đối với phát triển kinh tế hộ trên địa
bàn thành phố Quy Nhơn

52

2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ CỦA THÀNH PHỐ
QUY NHƠN THỜI KỲ 2007-2011

55

2.2.1. Thực trạng phát triển về số lượng

55

2.2.2. Thực trạng phát triển về chất lượng

56


2.2.3. Thực trạng phát triển về quy mô

60

2.2.4. Thực trạng phát triển về cơ cấu

65

2.2.5. Phân tích ảnh hưởng tác động của các chính sách khuyến
khích phát triển Kinh tế hộ trên địa bàn thành phố Quy Nhơn thời gian
qua

67

2.3. ĐÁNH GIÁ NHỮNG THÀNH CÔNG, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN
NHÂN HẠN CHẾ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ QUY NHƠN TRONG THỜI GIAN QUA

70

2.3.1. Những thành công

70

2.3.2. Những tồn tại hạn chế

71

2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại hạn chế


73

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

75


CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUY NHƠN ĐẾN NĂM 2015 VÀ
TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2020

77

3.1. CƠ SỞ TIỀN ĐỀ CHO VIỆC ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP

77

3.1.1. Dự báo biến động môi trường phát triển kinh tế hộ trên địa bàn
thành phố Quy Nhơn đến năm 2020

77

3.1.2. Đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về phát triển Kinh tế hộ

80

3.1.3. Quan điểm, phương hướng và mục tiêu phát triển Kinh tế hộ
trên địa bàn Quy Nhơn trong tương lai


83

3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ QUY NHƠN ĐẾN NĂM 2015, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM
2020

87

3.2.1. Giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển về số lượng

87

3.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phát triển

89

3.2.3. Giải pháp tăng cường phát triển quy mô

90

3.2.4. Giải pháp phát triển về cơ cấu

93

3.2.5. Các giải pháp bổ sung.

94

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CÁC CẤP CÓ THẨM QUYỀN VỀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ ĐẾN NĂM 2015, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2020

3.3.1. Kiến nghị đối với chính quyền tỉnh Bình Định
3.3.2. Kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức có liên quan

99
99
100

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

102

KẾT LUẬN

103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

104

QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

HKD

Hộ kinh doanh


HĐND

Hội đồng nhân dân

NSNN

Ngân sách nhà nước

TP

Thành phố

THPT

Trung học phổ thông

THCS

Trung học cơ sở

UBND

Ủy ban nhân dân

XDCB

Xây dựng cơ bản



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
1.1

Đóng góp GDP của hộ kinh doanh theo giá 1994

1.2

Đóng góp GDP theo giá thực tế và phân theo ngành kinh

Trang
14

tế

15

1.3

Đóng góp số thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2007-2011

16

1.4

Lao động trong lĩnh vực kinh tế hộ năm 2011


20

2.1

Tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá so sánh 1994

44

2.2

Dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ chuyên môn
kỹ thuật, thành thị/nông thôn theo tổng điều tra dân số và
nhà ở ngày 1/4/2009

2.3

Tình hình phát triển lao động cá thể phân theo ngành nghề
kinh tế

2.4

47

Trình độ chuyên môn kỹ thuật của chủ hộ kinh doanh
năm 2011

2.5

46


57

Lợi ích của Hộ kinh doanh khi tham gia các Hiệp hội
ngành hàng

60

2.6

Thực trạng về mặt bằng kinh doanh năm 2011

63

2.7

Tình hình ứng dụng công nghệ thông tin hộ kinh doanh

64

2.8

Tình hình phát triển HKD phi nông, lâm, ngư nghiệp của
TP Quy Nhơn phân theo ngành kinh tế giai đoạn 20062011

65


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu


Tên hình

hình

Trang

1.1

Tình hình số thu NSNN giai đoạn 2007-2011

17

2.1

Tình hình phát triển hộ kinh doanh 2007-2011

55

2.2

Tình hình hộ kinh doanh, lao động từ năm 2007-2011

58

2.3

Trình độ chuyên môn kỹ thuật người lao động năm 2011

59


2.4

Khả năng tiếp cận nguồn vốn vay 2011

61

2.5

Tình hình sử dụng máy móc thiết bị năm 2011

62

2.6

Tình hình phát triển HKD chia theo ngành giai đoạn
2007-2011

66


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn hai thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới cùng với sự chuyển
biến to lớn của nền kinh tế, kinh tế hộ gia đình (kinh tế hộ) đã từng bước phát
triển và ngày càng khẳng định vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế nhiều
thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê tính đến cuối năm 2011 cả nước có 4.236.352 hộ kinh doanh cá thể phi

nông nghiệp; giải quyết cho 8.071.686 lao động. Vai trò của kinh tế hộ không
những giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tăng nguồn thu cho ngân sách... mà
còn là mạng lưới rộng lớn nhất, phát triển về tận những vùng xa, vùng khó
khăn mà các lĩnh vực kinh doanh khác không đáp ứng được. Nhờ đó, kinh tế
hộ là kênh quan trọng phân phối và lưu thông hàng hóa tới vùng sâu vùng xa,
vùng khó khăn, giúp cân đối thương mại và phát triển kinh tế địa phương [20,
tr. 298-302].
Mặc dù vậy, trong nhiều năm qua khu vực kinh tế hộ vẫn là khu vực có
quy mô kinh doanh nhỏ lẻ, công nghệ thiếu hiện đại, chất lượng sản phẩm
chưa có sức cạnh tranh cao nhưng lại đối mặt trước nhiều thách thức khó khăn
về vốn, lao động, mặt bằng… đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nền
kinh tế thế giới, khu vực và trong nước có nhiều biến động bất thường, lạm
phát trong nước đang ở mức cao, sức mua giảm làm cho một số hộ kinh
doanh có nguy cơ phá sản. Nhà nước cũng mới chỉ có chính sách hỗ trợ cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa mà chưa có chính sách để hỗ trợ phát triển riêng cho
kinh tế hộ. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là cần nghiên cứu một cách hệ
thống để có cách nhìn bao quát về thực trạng kinh tế hộ cá thể từ đó đưa ra
một số giải pháp nhằm phát triển đối với thành phần kinh tế này trong thời
gian đến.


2

Tại Quy Nhơn thành phần kinh tế hộ có từ rất lâu, tính đến cuối năm
2011 Quy Nhơn có 17.813 hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp, giải quyết
việc làm cho 27.249 lao động, đóng góp GDP khoảng 954.124 nghìn đồng và
đóng góp vào số thu ngân sách nhà nước khoảng 36 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong
quá trình phát triển, thành phần kinh tế hộ gia đình trên địa bàn Quy Nhơn
cũng đang gặp không ít những khó khăn, hạn chế cần được tháo gỡ [5].
Với mong muốn góp phần đưa ra các giải pháp để phát triển thành

phần kinh tế hộ gia đình được tốt hơn em xin chọn nghiên cứu đề tài “Giải
pháp phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn Quy Nhơn”. Đề tài tập
trung phân tích thực trạng quản lý lĩnh vực kinh tế hộ gia đình trên cơ sở
đánh giá những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của
hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế hộ được tốt hơn
trong thời gian đến.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến đặc điểm, vai trò, vị trí
và các công cụ chính sách sử dụng trong việc hỗ trợ và kiểm soát quá trình
phát triển kinh tế hộ trong điều kiện công nghiệp hóa đất nước.
- Làm rõ thực trạng, chỉ ra những thành công, hạn chế và các nguyên
nhân dẫn đến hạn chế của kinh tế hộ trên địa bàn Quy Nhơn thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển và tăng
cường vai trò quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế hộ của thành phố Quy
Nhơn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Do lĩnh vực kinh tế hộ là tương đối rộng nên đề
tài này tác giả chỉ tập trung đi nghiên cứu những vấn đề liên quan đến kinh tế
hộ (hộ kinh doanh cá thể) không bao gồm các hộ trực tiếp tham gia sản xuất
nông nghiệp. Đề tài cũng đi nghiên cứu các hộ kinh doanh có đăng ký kinh


3

doanh và chưa đăng ký kinh doanh.
- Phạm vi nghiên cứu:
* Không gian nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu các hộ kinh doanh phi
nông nghiệp có trụ sở đặt tại thành phố Quy Nhơn và không phân biệt có hộ
khẩu thường trú hay không có hộ khẩu thường trú.
* Thời gian để nghiên cứu: Số liệu thu thập sử dụng để nghiên cứu chủ

yếu trong vòng 5 năm gần nhất (từ 2007-2011) và dự kiến sẽ áp dụng đến
năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Làm rõ thực trạng phát triển kinh tế hộ trên địa bàn thành phố Quy
Nhơn, nhằm tìm ra những giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế hộ cho phù hợp
với điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa và phát triển kinh tế thị trường.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ trên địa bàn thành
phố Quy Nhơn được tốt hơn trong thời gian đến.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế hộ.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế hộ trên địa bàn thành phố Quy
Nhơn.
Chương 3: Giải pháp phát triển kinh tế hộ trên địa bàn thành phố Quy
Nhơn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
6. Tổng quan tài liệu
Chủ đề về lĩnh vực kinh tế hộ đã được nhiều tác giả đề cập từ khá lâu,
tuy nhiên tên cụ thể đề tài “Giải pháp phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa
bàn Quy Nhơn” thì từ trước đến nay chưa có tác giả nào đề cập nghiên cứu và
đưa ra giải pháp thực hiện. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này tác giả chỉ


4

giới hạn trong phạm vi các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp mang tính
kinh tế hơn là tính xã hội.
Một số nghiên cứu trước đây chủ yếu chỉ tập trung đề cập đến kinh tế hộ
gia đình trực tiếp sản xuất nông, lâm và ngư nghiệp nằm trong Chương trình
hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn, hỗ trợ phát triển vùng sâu, vùng xa

và vùng có kinh tế đặc biệt khó khăn như Chương trình 135, xây dựng nông
thôn mới… Những nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào Chiến lược quốc gia
về xóa đói giảm nghèo mang tính xã hội là chính, không mang tính kinh tế,
không đặc nặng những đóng góp của thành phần kinh tế hộ gia đình cho việc
phát triển kinh tế địa phương, đóng góp GDP, đóng góp ngân sách nhà nước,
việc làm và thu nhập cho người lao động.
Qua tham khảo từ nhiều nguồn tài liệu, về chủ đề này cũng có một số
bài viết có đề cập đến như bài Phát triển kinh tế hộ gia đình trong nền kinh tế
Việt Nam hiện nay của Thạc sỹ Đinh Văn Quảng - Phó Vụ trưởng Vụ Gia
đình, Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em; Bài Vai trò và vị trí của kinh tế hộ
gia đình trong phát triển kinh tế và giải quyết việc làm - Bài đăng trên trang
thông tin của Bộ Lao động Thương binh và xã hội; Bài Hộ kinh doanh cá thể
là gì ? của Tiến sĩ Ngô Huy Cương - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội…
Nhìn chung các bài viết trên có đưa ra một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
kinh tế hộ, có đề cập một số vai trò, trị trí và tầm quan trọng cũng như một số
khó khăn nhất định của kinh tế hộ hiện nay. Tuy nhiên, những quan điểm
nhận định đưa ra còn phiến diện thiếu tính bao quát và còn mang tính chung
chung, đặc biệt là do chưa đưa ra kết quả điều tra khảo sát thực tế về kinh tế
hộ nên cách nhìn nhận, đánh giá chưa được cụ thể sát đáng, do kết quả nghiên
cứu còn thiếu tính thực tiễn nên các bài viết này cũng chỉ dừng lại ở góc độ
bàn luận chứ chưa thể đưa ra các giải pháp thực hiện cụ thể.
Nghiên cứu rút kinh nghiệm từ các bài viết về lĩnh vực kinh tế hộ trước


5

đây và xuất phát từ quan điểm, đường lối và chủ trương đổi mới của Đảng về
thành phần kinh tế Hộ gia đình thể hiện rõ tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18/12/1986 và được quy định
tại Điều 16 Hiến pháp 1992 "giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi

tiềm năng của các thành phần kinh tế". Nhà nước thừa nhận sự tồn tại lâu dài
của kinh tế cá thể trong nền kinh tế quốc dân. Điều 21 Hiến pháp 1992 cũng
quy định "kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức
sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế và quy
mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi ích cho quốc kế dân sinh".
Quan điểm đó đã được Đảng Cộng sản Việt Nam duy trì, phát huy cho phù
hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam theo từng giai đọan. Mới đây
tại Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
diễn ra từ ngày 12/01/2011 đến ngày 19/01/2011 tại Hà Nội Đảng ta tiếp tục
đề cập và xem Kinh tế tư nhân (trong đó có kinh tế hộ gia đình )là một trong
những động lực phát triển của nền kinh tế…“Hoàn thiện cơ chế, chính sách
để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của
nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các
ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật...” Và Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng định hướng: “Hỗ trợ các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong nông
nghiệp và khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường,
hội nhập kinh tế quốc tế.”
Xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nước và qua nghiên cứu thực tiễn những đóng góp của thành phần kinh tế
hộ gia đình trong những năm qua, cũng như qua tham khảo một số bài viết
liên quan đến chủ đề Kinh tế hộ gia đình, tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Giải
pháp phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn Quy Nhơn” để làm đề tài


6

nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ của mình.
Mặc dù với các phương pháp nghiên cứu cũ như phương pháp phân
tích thống kê, phương pháp phân tích khám phá, phương pháp dự đoán,

phương pháp hồi quy, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra thực
chứng, phương pháp điều tra xã hội học… , tuy nhiên lĩnh vực nghiên cứu của
đề tài rộng, nguồn tài liệu có liên quan để tham khảo rất hạn chế chủ yếu bám
sát chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực tiến công tác quản lý
hộ kinh doanh. Ngoài ra, tác giả cũng sẽ tiến hành chọn mẫu khảo sát thực tế
khoảng 100 cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố Quy Nhơn để
qua đó có một bức tranh hiện thực về phát triển hộ kinh doanh, nắm được
những phản ánh về cơ chế chính sách, thái độ phục vụ của các cơ quan liên
quan trong qiá trình quản lý và những nguyện vọng, những đề xuất của họ
trong thời gian đến để từ đó tác giả đưa ra lập luận, đưa ra những nhóm giải
pháp từ phía các cơ quan Nhà nước cũng như những nhóm giải pháp từ chính
các hộ kinh doanh cần nên thực hiện để phát triển kinh tế hộ gia đình giai
đọan đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
Do kiến thức còn hạn chế, nội dung tài liệu liên quan để tham khảo
cũng không nhiều nên đề tài cũng không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Với quyết tâm cao của chính bản thân tác giả, sự tận tình hướng dẫn của Tiến
sĩ Đào Hữu Hòa - Phó Hiệu trưởng Trưởng Đại học Kinh tế Đà Nẵng và
những góp ý xây dựng của Hội đồng khoa học về bảo vệ luận văn tác giả xin
hứa sẽ tiếp thu và hoàn thiện đề tài trong thời gian sớm nhất.


7

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ HỘ
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
1.1.1. Khái niệm kinh tế hộ
Trong lịch sử kinh tế của Việt Nam, có rất nhiều khái niệm nói về kinh
tế hộ. Tuy nhiên, nhìn chung các khái niệm đều xem “hộ” là một cơ sở kinh tế

có các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu gia đình, sử dụng chủ yếu sức lao động
của gia đình để sản xuất và thường nằm trong hệ thống kinh tế lớn hơn, nhưng
chủ yếu được đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường có xu
hướng hoạt động với mức độ hoàn hảo không cao.
Về mặt pháp lý, kinh tế hộ được thể hiện dưới hình thức hộ cá thể (hay
hộ kinh doanh cá thể).
Cơ sở pháp lý của loại hình hộ cá thể được thiết lập chính thức ở Nghị
định 27-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 09/3/1998, theo Nghị định này
thì Nhà nước công nhận sự tồn tại và các tác dụng tích cực lâu dài của thành
phần kinh tế cá thể trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân của nước ta. Nhà nước
tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế cá thể hoạt động, phát triển
trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ, xây dựng, vận tải với quy
mô ngành nghề thích hợp. Mọi công dân Việt Nam có vốn, có tư liệu sản
xuất, có kỹ thuật chuyên môn, có sức lao động đều có quyền kinh doanh theo
hình thức này trừ cán bộ, viên chức Nhà nước tại chức. Các đơn vị kinh tế cá
thể thời kỳ này là những đơn vị kinh tế tự quản, có tư liệu sản xuất và vốn
khác thuộc sở hữu người chủ đứng tên đăng ký kinh doanh, cá thể kinh doanh
trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, chủ hộ kinh doanh có quyền xin nghĩ, sát
nhập thành các đơn vị kinh tế tập thể, công ty hợp doanh, có quyền xin gia


8

nhập các tổ chức liên kết liên doanh với các đơn vị kinh tế quốc doanh, các
đơn vị kinh tế tập thể theo hình thức thích hợp.
Các đơn vị kinh tế này được tổ chức theo những hình thức:
(1) Hộ cá thể
(2) Hộ tiểu công nghiệp
(3) Xí nghiệp tư doanh.
Hộ cá thể, theo Nghị định có các điều kiện sau: tư liệu sản xuất và

các vốn khác thuộc quyền sở hữu của người đứng tên đăng ký kinh doanh,
chủ đăng ký kinh doanh phải là người lao động trực tiếp; những người lao
động khác phải là bố mẹ, vợ chồng, con hoặc những người thân khác có tên
trong sổ.
Sau này Chính phủ ban hành một số Nghị định làm rõ hơn tính pháp lý
đăng ký hộ khẩu của người đứng tên đăng ký kinh doanh; thu nhập sau khi
đóng thuế thuộc quyền sở hữu của chủ hộ.của hộ cá thể. Tên gọi “ Hộ kinh
doanh cá thể” được ghi nhận tại hai Nghị định của Chính phủ về đăng ký kinh
doanh là Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/12/2000 và Nghị định số
109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004.
Nghị định số 109/2004/NĐ-CP định nghĩa: Hộ kinh doanh cá thể do một
cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh dianh tại một địa
điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh (Điều 24, khoản 1).
Hiện nay, khái niệm hộ kinh doanh cá thể được chính thức đổi tên thành
hộ kinh doanh. Và tại Điều 36 Nghị định số 36/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2006
và Điều 49 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 của Chính phủ về
đăng ký doanh nghiệp, hộ kinh doanh được định nghĩa như sau: Hộ kinh
doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một
hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng


9

không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Định nghĩa trên về “hộ kinh doanh” cho thấy hộ kinh doanh được
chia thành ba loại căn cứ vào chủ tạo lập ra nó:
(1) Hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ;
(2) Hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ;

(3) Hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ.
Như vậy, căn cứ vào chủ thể tạo lập ra nó, hộ kinh doanh có thể được
hình thành theo ba cách khác nhau: Do một cá nhân đăng ký thành lập, do hộ
gia đình hoặc do một nhóm người làm chủ. Trong trường hợp cá nhân muốn
thành lập hộ kinh doanh ngoài việc phải thực hiện các thủ tục theo quy định
còn phải đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi là từ 18 tuổi trở lên.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế hộ.
- Kinh tế hộ không có tư cách pháp nhân.
Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự nước Việt Nam năm 2005,
một tổ chức được công nhận là pháp nhân phải đáp ứng đủ 04 điều kiện sau
đây:
+ Được thành lập hợp pháp;
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và chịu trách nhiệm bằng
tài sản đó;
+ Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc
lập.
Căn cứ các điều kiện trên kinh tế hộ không phải là một pháp nhân do
không thỏa mãn điều kiện về cơ cấu tổ chức và điều kiện về tài sản. Cơ cấu tổ
chức của kinh tế hộ không mang tính chặt chẽ, không mang tính bền vững mà
tập trung vai trò chủ yếu ở chủ hộ và dưới chủ hộ là một số lao động, không


10

có các phòng ban chặt chẽ. Về tài sản của kinh tế hộ với tài sản của cá nhân
chủ kinh tế hộ (của một nhóm người hoặc của hộ gia đình) là không thể phân
biệt được, tài sản của kinh tế hộ cũng chính là tài sản của chủ kinh tế hộ (của
một nhóm người hoặc của hộ gia đình) và ngược lại.
- Kinh tế hộ là hình thức kinh doanh có quy mô nhỏ.

Theo quy định tại Điều 49 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày
15/04/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, kinh tế hộ chỉ được sử
dụng thường xuyên không được vượt quá 10 lao động và chỉ được kinh doanh
tại một địa điểm. Điều này ràng buộc nếu quy mô kinh doanh vượt quá 10 lao
động hoặc muốn mở rộng kinh doanh cùng lúc nhiều địa điểm bắt buộc các
kinh tế hộ phải chuyển lên công ty, doanh nghiệp. Việc quy định như vậy mặc
dù còn chưa được phù hợp đối với một số kinh tế hộ ngành nghề, lĩnh vực
mang tính đặc thù như ăn uống, giải khát cần rất nhiều lao động cùng lúc, tuy
nhiên có ý nghĩa định hướng khuyến khích các kinh tế hộ có quy mô tương
đối lớn nên phát triển thành các loại hình doanh nghiệp, đây được xem là môi
trường kinh doanh mang tính năng động hơn, tính cạnh tranh, liên doanh liên
kết tốt hơn và dĩ nhiên sẽ phù hợp với thông lệ quốc tế hơn.
Trên thực tế, hầu như các kinh tế hộ đều có quy mô nhỏ lẻ thậm chí
cũng có những kinh tế hộ rất nhỏ với một người đứng ra thành lập và tự kinh
doanh không thuê mướn lao động như một tiệm cắt tóc, tiệm may, tiệm photo,
bán tạp hóa... nhưng yếu tố nhỏ lẻ về quy mô kinh doanh này không bắt
nguồn từ quy định của pháp luật mà do thiếu vốn kinh doanh, thiếu mặt
bằng...dẫn đến quy mô kinh doanh nhỏ lẻ, phân tán.
- Chủ hộ chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ.
Trong kinh tế hộ tài sản chung của hộ và tài sản riêng của chủ hộ không
là không phân biệt được nên lợi nhuận làm ra của hộ kinh doanh cũng chính
là lợi nhuận của chủ hộ. Do đó, chủ hộ phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với


11

các khoản nợ của hộ, có nghĩa là chủ hộ phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng
toàn bộ tài sản của mình kể cả tài sản không đưa vào kinh doanh.
- Tính bền vững của kinh tế hộ không cao.
Kinh tế hộ thường do thiếu vốn, không ổn định về mặt bằng, chủ yếu

tận dụng mặt bằng, nguyên liệu hoặc lợi thế sẳn có để sản xuất kinh doanh. Vì
vậy khi môi trường kinh doanh có sự thay đổi cơ hội kinh doanh không còn
được thuận lợi thì kinh tế hộ dễ bị phá vỡ. Chẳng hạn, các kinh tế hộ bán đồ
lưu niệm xung quanh các điểm du lịch nhưng khi khách du lịch đến tham
quan ít, ế ẩm dễ dẫn đến chấm dứt hoạt động; hoạt động cho thuê nhà trọ sinh
viên, cơm cho sinh viên nhưng khi sinh viên nghỉ hè thì các hộ này chấm dứt
hoặc tạm ngừng ngay hoạt động…
Tính không ổn định của kinh tế hộ còn thể hiện sự không ổn định ngành
nghề kinh doanh, việc thay đổi ngành nghề kinh doanh được cho là bình
thường của chủ hộ, với quan niệm “kinh doanh ngành nghề này không được
thì kinh doanh ngành nghề khác”. Với số vốn kinh doanh bỏ ra nhỏ, lao động
không nhiều, không có máy móc thiết bị… nên việc chuyển đổi ngành nghề
kinh doanh tương đối dễ dàng, linh động phù hợp với từng thời điểm, tùy
thuộc vào nhu cầu của khách hàng “cần gì bán đó” miễn sao có lời là được mà
không quan tâm đến tính lâu dài, vấn đề thương hiệu… như các công ty,
doanh nghiệp. Một tiệm bán phở hôm trước nhưng cũng có thể chuyển sang
bán cơm ngày hôm sau hoặc có thể tháng sau kinh doanh nhà trọ…
Tính không bền vững của Kinh tế hộ xét theo khía cạnh tích cực là ưu
điểm để loại hình này tồn tại và phát triển, luôn thích ứng với mọi tình huống
của thị trường, các sản phẩm dịch vụ cung ứng mang tính thực tế thiết yếu
thường gần gũi với người dân như nhu cầu ăn uống, dịch vụ đi lại, dịch vụ
dạy học, tạp vụ, giữ xe, trông coi trẻ ... đây là ưu điểm mà cũng là đặc trưng
chỉ có kinh kế hộ gia đình mới có được, các loại hình doanh nghiệp khác


12

không thể có được, chính vì vậy mà khi nền kinh tế khủng hoảng, một số thị
trường không tiêu thụ hoặc tiêu thụ chậm thì hàng loạt các công ty, doanh
nghiệp kinh doanh lĩnh vực đó rơi vào trạng thái khó khăn thậm chí phải chọn

giải thể hoặc tuyên bố phá sản, một số ít chuyển đổi sang kinh doanh ngành
nghề, lĩnh vực khác nhưng việc chuyển đổi này không phải một sớm một
chiều vì phải giải quyết những máy móc thiết bị đã mua sắm trước đây, công
nhân đã đào tạo nay phải đào tạo lại, thị trường hoàn toàn mới rất tốn kém chi
phí, khó khăn chồng chất khó khăn ...
Tuy nhiên, tính không ổn định của Kinh tế hộ bộc lộ nhiều hạn chế như
rủi ro rất cao không ai đảm bảo thực hiện, nhà nước hoặc địa phương chỉ có
thể hỗ trợ trong việc tạo ra môi trường pháp lý cho các kinh tế hộ phát huy lợi
thế kinh doanh đặc thù của địa phương hoặc làng nghề truyền thống như làng
nón, nem chả, nước mắm, du lịch, rượu,... chứ không thể chạy theo việc
chuyển đổi ngành nghề của kinh tế hộ được. Ngoài ra, tính không bền vững
của Kinh tế hộ còn bộ lộ hạn chế trong việc tạo liên doanh liên kết theo từng
ngành hàng, sản phẩm cung ứng không ổn định về số lượng, chất lượng sản
phẩm không cao dễ mất thị trường đó là chưa nói đến thương hiệu và khả
năng cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại đối với thị trường trong khu vực
và trên thế giới.
- Trong kinh tế hộ, không phân biệt được giữa lao động của chủ hộ với
người lao động làm thuê.
Trong kinh tế hộ chủ hộ kinh doanh vai trò quản lý của chủ hộ và người
lao động làm thuê. Hầu hết các chủ hộ vừa là người trực tiếp quản lý điều
hành hộ và cũng vừa là người trực tiếp lao động chính cho hộ kinh doanh của
mình. Chẳng hạn, một cửa hàng bán phở, một tiệm cắt tóc, một quán bán
cơm, tiệm tạp hóa… chủ hộ mở quán để kinh doanh nhưng thực chất chủ kinh
tế hộ cũng vừa là người trực tiếp bưng bê, ghi chép, thậm chí là nhân viên


13

giao hàng. Trong khi đó, các loại hình công ty, doanh nghiệp lại khác hoàn
toàn, chủ doanh nghiệp chỉ nắm vai trò quản lý điều hành mang tính chất vĩ

mô, lao động trực tiếp mới là người làm ra sản phẩm, dịch vụ.
Do không phân biệt được lao động của chủ hộ và lao động làm thuê
trong kinh tế hộ nên lợi nhuận mang lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh
không tính toán được mà chủ hộ chỉ ước lượng. Một số trường hợp mặc dù
kinh tế hộ thấy có lãi nhưng thực chất đó chính là tiền công của chủ hộ, nếu
tính trừ mức tiền công đó thậm chí hòa vốn hoặc bị lỗ, như vậy trong trường
hợp này thực chất thay vì đi làm thuê cho người khác thì chủ kinh tế hộ chọn
giải pháp làm thuê cho chính mình “lấy công làm lời”.
1.1.3. Vai trò của kinh tế hộ.
Việt Nam là nước đang phát triển với hơn 70% dân số sống ở nông
thôn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, mức thu nhập thấp, lao động nhàn rỗi
và nhiều lại đang trong qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phát huy
tiềm lực của kinh tế hộ là rất cần thiết. Theo số liệu Tổng cục Thống kê, tính
đến cuối năm 2011 Việt Nam có khoảng 4.236.352 hộ kinh doanh cá thể phi
nông nghiệp góp phần giải quyết việc làm cho 8.071.686 người. Chỉ tính
riêng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực
tế tính đến cuối năm 2011 đã là 1.005 nghìn tỷ đồng, chiếm 50,2 % cơ cấu
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả
nước. Ngoài ra, hàng năm lĩnh vực kinh tế hộ còn đóng góp hàng trăm ngàn
tỷ đồng, góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế của địa phương… [20,
tr.298-302]
Thông qua khâu mua bán lẻ, thành phần kinh tế hộ đóng vai trò quan
trọng trong việc góp phần tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm, kích thích thị
trường chung phát triển. Kinh tế hộ còn là nền tảng, cơ sở ban đầu để hình
thành phát triển lên công ty, doanh nghiệp.


14

- Đóng góp GDP cho kinh tế của địa phương.

Kinh tế hộ gia đình đã có những đóng góp nhất định vào tổng sản phẩm
(GDP) cho kinh tế của thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Tỷ lệ đóng
góp bình quân giai đoạn 2007-2011 ở mức trung bình là 6,7%, trong đó năm
2007 là 5,7%, năm 2008 là 6,2%, năm 2009 là 6,8%, năm 2010 là 7,3%. Chỉ
tính riêng năm 2011 tỷ lệ phần trăm GDP khu vực kinh tế hộ đóng góp chiếm
7,7% với tổng số sản phẩm được tạo ra, tương ứng với số tiền là 335.986 triệu
đồng (theo giá so sánh 1994). Tốc độ đóng góp GDP hàng năm là không đều
bình quân giai đoạn 2007-2011 là 20,3%. Các giai đoạn 2007-2008, giai đoạn
2009-2010 GDP tăng nhưng các giai đoạn 2007-2008, giai đoạn 2010-2011
lại giảm. Qua số liệu trên cho thấy từ năm 2007-2011 số lượng hộ kinh doanh
liên tục tăng về mặt lượng nhưng tỷ lệ đóng góp GDP của khu vực này là
không ổn định, nhảy cóc (Bảng 1.1).
Bảng 1.1 Đóng góp GDP của HKD theo giá so sánh 1994
Trong đó
Tổng GDP TP
Năm

Quy Nhơn
(triệu đồng)

Đóng góp
GDP của HKD
(triệu đồng)

Tỷ lệ % GDP

Tốc độ tăng

của HKD so với


GDP của

tổng GDP của

HKD hàng

TP Quy Nhơn

năm (%)

2007

2.731.694

155.707

5,7

116,6

2008

3.108.176

192.707

6,2

123,8


2009

3.395.569

230.899

6,8

119,8

2010

3.867.629

282.337

7,3

122,3

2011

4.363.452

335.986

7,7

119,0


GĐ 2007-2011

3.493.304

239.527

6,7

120,3

Nguồn: Chi cục Thống kê TP Quy Nhơn


15

Nếu so sánh tổng giá trị sản xuất (GDP) theo giá thực tế năm 2011 khu
vực kinh tế hộ đã đóng góp 954.124 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng
trưởng là 14,8%. Trong đó, ngành công nghiệp đóng góp tới 49% tương ứng
với số tiền là 462.750 triệu đồng, khu vực dịch vụ cũng đóng góp tỷ lệ cao
bằng 46,5% tương ứng với 443.668 triệu đồng.
Bảng 1.2 Đóng góp GDP theo giá thực tế và phân theo ngành kinh tế
Chia ra
Năm

Tổng số

Nông, lâm nghiệp

Công nghiệp


và thủy sản

và xây dựng

Dịch vụ

Triệu đồng
Năm 2006

212.456

16.996

101.979

93.481

Năm 2010

683.820

41.029

335.072

307.719

Năm 2011

954.124


47.706

462.750

443.668

Tốc độ phát triển phát triển (%)
Năm 2006

112,8

106,2

117,5

113,5

Năm 2010

113,9

104,3

117,7

113,8

Năm 2011


114,8

102,1

118,2

114,2

113,3

105,7

117,7

113,6

Thời kỳ
2007-2011

Nguồn: Chi cục Thống kê TP Quy Nhơn
Nhìn chung tốc độ tăng trưởng còn chậm và có xu hướng dịch chuyển
dần từ ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản sang các ngành nghề công nghiệpxây dựng và dịch vụ [4, tr.15-16].
- Đóng góp vào tổng số thu ngân sách nhà nước địa phương.
Ngoài vai trò chính đóng góp vào việc tăng trưởng của nền kinh tế và
giải quyết việc làm cho người lao động, kinh tế hộ gia đình còn đóng góp
một phần về số thu ngân sách nhà nước hàng năm cho địa phương. Theo số


16


liệu thống kê từ Chi cục Thuế thành phố Quy Nhơn năm 2011 tổng số thu từ
kinh tế hộ của thành phố là 36 tỷ đồng/tổng số thu của thành phố là 584 tỷ
đồng, tăng gấp đôi số thu năm 2007 là 18 tỷ đồng, số thu bình quân giai
đoạn 2007-2011 là 27,2 tỷ đồng. Các sắc thuế thu từ kinh tế hộ thường bao
gồm các loại sau:
(1) Thuế Môn bài.
(2) Thuế Giá trị gia tăng
(3) Thuế Thu nhập cá nhân
(4) Thuế Tiêu thụ đặc biệt
Bảng 1.3 Đóng góp số thu NSNN giai đoạn 2007-2011

Năm

Tổng thu

Trong đó

NSNN TP

Thu NSNN từ % số thu HKD Tốc độ tăng hàng

Quy Nhơn

HKD

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

của Quy Nhơn


từ HKD (%)

2007

420

18

4,3

113,4

2008

480

22

4,6

122,2

2009

520

28

5,4


127,3

2010

523

32

6,1

114,3

2011

584

36

6,2

112,5

GĐ2007-2011

505,4

27,2

5,3


117,9

so với tổng thu năm của số thu

Nguồn: Chi cục Thuế TP Quy Nhơn
Mặc dù số thu NSNN từ lĩnh vực kinh tế hộ gia đình của thành phố là
không nhiều, tổng số thu tiền thuế năm 2011 khoảng 36 tỷ đồng chiếm 6,2%
số thu của toàn Chi cục thuế thành phố Quy Nhơn nhưng số thuế thu được
tăng hàng năm cũng phản ảnh một phần về tình hình phát triển kinh tế hộ của
thành phố. Kinh tế hộ có phát triển mới góp phần vào việc tăng thu ngân sách
và ngược lại. Do đó, tốc độ phát triển của hộ kinh doanh thường tỷ lệ thuận


×