Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nghiên cứu tính đa dạng các loài dơi (mammalia chiroptera) ở khu dự trữ sinh quyển cù lao chàm hội an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.78 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

NGUYỄN VIẾT THỊNH

NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG CÁC LOÀI
DƠI (MAMMALIA: CHIROPTERA) Ở KHU DỰ
TRỮ SINH QUYỂN CÙ LAO CHÀM-HỘI AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

HÀ NỘI - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

NGUYỄN VIẾT THỊNH

NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG CÁC LOÀI
DƠI (MAMMALIA: CHIROPTERA) Ở KHU DỰ
TRỮ SINH QUYỂN CÙ LAO CHÀM – HỘI AN


Chuyên ngành:
Mã số chuyên ngành:

Động vật học
60 42 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn: TS. Vũ Đình Thống

HÀ NỘI - 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................... 3
1.1. TỔNG QUAN ........................................................................................ 3
1.1.1. Khái quát về bộ Dơi (Chiroptera) .................................................. 3
1.1.2. Lược sử nghiên cứu dơi ở Việt Nam ............................................. 3
1.1.3. Khái quát về phân loại, nghiên cứu đặc điểm sinh thái và tiếng
kêu siêu âm của dơi ở Việt Nam ...................................................... 5
1.1.4. Tình hình nghiên cứu động vật hoang dã ở Khu Dự trữ Sinh
quyển Cù Lao Chàm – Hội An ........................................................ 5
1.1.5. Đặc điểm tự nhiên và dân sinh kinh tế ở Khu bảo tồn biển Cù
Lao Chàm ......................................................................................... 7
1.2. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.......................................................................... 9
1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ................................................................. 11
1.4. NỘI DUNG .......................................................................................... 11
CHƯƠNG 2: THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU...................................................................................................... 12

2.1. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU ..................................... 12
2.1.1. Thời gian ......................................................................................12
2.1.2. Địa điểm .......................................................................................12
2.2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................. 16
2.2.1. Vật liệu nghiên cứu ......................................................................16
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu .............................................................17
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................. 25
3.1. THÀNH PHẦN LOÀI DƠI BẮT GẶP Ở KHU DỰ TRỮ SINH
QUYỂN CÙ LAO CHÀM – HỘI AN .................................................. 25
3.2. MÔ TẢ KHÁI QUÁT CÁC LOÀI DƠI BẮT GẶP Ở KHU DỰ TRỮ
SINH QUYỂN CÙ LAO CHÀM – HỘI AN ........................................ 26
3.2.1. Dơi chó mũi ống Cynopterus horsfieldii .....................................29
3.2.2. Dơi lá đuôi Rhinolophus affinis ...................................................35
1


3.2.3. Dơi lá mũi nhỏ Rhinolophus pusillus ..........................................41
3.2.4. Dơi nếp mũi nâu Hipposideros galeritus.....................................47
3.2.5. Dơi nếp mũi xám lớn Hipposideros grandis ...............................53
3.2.6. Dơi nếp mũi xinh Hipposideros pomona.....................................58
3.3. KHÓA ĐỊNH LOẠI CÁC LOÀI DƠI BẮT GẶP Ở KHU DỰ TRỮ
SINH QUYỂN CÙ LAO CHÀM – HỘI AN ........................................ 63
3.3.1. Khóa định loại căn cứ vào đặc điểm hình thái ngoài...................63
3.3.2. Khóa định loại căn cứ vào đặc điểm tiếng kêu siêu âm ..............66
3.4. SO SÁNH TÍNH ĐA DẠNG CỦA CÁC LOÀI DƠI Ở KHU DỰ TRỮ
SINH QUYỂN CÙ LAO CHÀM – HỘI AN VÀ MỘT SỐ QUẦN
ĐẢO CỦA VIỆT NAM ĐÃ CÓ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ DƠI 67
3.5. NHẬN ĐỊNH VỀ TÌNH TRẠNG BẢO TỒN VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆN TRẠNG CỦA CÁC LOÀI DƠI Ở KHU
DỰ TRỮ SINH QUYỂN CÙ LAO CHÀM – HỘI AN ........................ 73

3.6. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO TỒN DƠI Ở KHU DỰ TRỮ
SINH QUYỂN CÙ LAO CHÀM – HỘI AN ........................................ 73
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................... 75
Kết luận ..................................................................................................75
Kiến nghị ................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 77
Tài liệu tiếng Việt ..................................................................................77
Tài liệu tiếng Anh ..................................................................................79

2


MỞ ĐẦU
Trong lớp thú, chỉ có những loài thuộc bộ Dơi (Chiroptera) có khả năng
bay lượn thực sự và kiếm ăn trong không trung. Về mặt phân loại, bộ Dơi có
thành phần loài đa dạng và phong phú thứ hai (chỉ sau bộ Gặm nhấm Rodentia)
trong lớp thú. Cho đến nay, đã có hơn 1.300 loài dơi thuộc 18 họ được phát
hiện trên thế giới [34]. Các loài dơi có vai trò quan trọng trong các hệ sinh thái,
và trong đời sống kinh tế. Ở nhiều nước trên thế giới như Anh, Đức, Hoa Kỳ,
Phi-líp-pin và nhiều nước khác, dơi được nghiên cứu một cách hệ thống, chi
tiết trên toàn bộ lãnh thổ. Đáng chú ý, nhiều đặc điểm sinh lý, sinh thái học,
cấu trúc phân tử, cấu trúc xương, đặc điểm tiếng kêu siêu âm của các loài dơi
ở những nước đó đã được quan tâm nghiên cứu.
Ở Việt Nam, các loài dơi mới được quan tâm nghiên cứu trong khoảng 10
năm gần đây. Tuy nhiên, việc nghiên cứu ở nước ta còn hạn chế, không đồng
bộ và chưa nhận được sự quan tâm của cộng đồng. Từ năm 1994 trở về trước,
đã có 65 loài dơi thuộc 25 giống, 6 họ được ghi nhận tại Việt Nam [1]. Tuy
nhiên, đó là kết quả tổng hợp những ghi nhận qua các đợt điều tra chung về
động vật có xương sống. Những năm gần đây, việc nghiên cứu về dơi ở Việt
Nam đã được quan tâm hơn. Đến năm 2000, Lê Vũ Khôi đã thống kê được 88

loài dơi thuộc 25 giống và 7 họ [5]. Năm 2009, Nguyễn Xuân Đặng và Lê Xuân
Cảnh công bố thành phần loài thú hiện biết ở Việt Nam; trong đó bao gồm 113
loài dơi thuộc 33 giống, 7 họ [2]. Cho đến nay, đã có 120 loài dơi thuộc 38
giống, 8 họ hiện biết ở nước ta (Vũ Đình Thống và Csorba, tài liệu chưa công
bố).
Mặt khác, đa số những công trình đã nghiên cứu về dơi ở Việt Nam mới
chỉ thực hiện ở mức độ điều tra thành phần loài ở một số khu vực; trong đó,
chủ yếu là những vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên trong đất liền. Dẫn

1


liệu về các loài dơi sinh sống trên hệ sinh thái đảo của nước ta còn rất hạn chế.
Thực tế, kết quả nghiên cứu về dơi ở một số quần đảo của Việt Nam như Cát
Bà, Côn Đảo, Phú Quốc đã cho thấy: hệ sinh thái đảo là nơi sinh sống của nhiều
loài dơi quý hiếm; trong đó có loài đặc hữu của Việt Nam [63], [60].
Cù Lao Chàm là một quần đảo bao gồm 8 đảo nhỏ (Hòn Lao, Hòn Dài,
Hòn Mồ, Hòn Khô Mẹ, Hòn Khô Con, Hòn Lá, Hòn Tai và Hòn Ông), có vị trí
quan trọng đối với an ninh, quốc phòng và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Từ năm 2005 đến nay, quần đảo Cù Lao Chàm nhận được sự quan tâm
và đầu tư ngày càng nhiều từ những cơ quan và tổ chức ở trong và ngoài nước
nhằm phát triển du lịch và dân sinh kinh tế. Đặc biệt, từ năm 2010 đến nay,
lượng khách du lịch thăm Cù Lao Chàm tăng đột biến: có những ngày trong
mùa du lịch(từ tháng 4 đến tháng 8 hằng năm), số lượng khách nhiều hơn 3 lần
tổng số nhân khẩu sinh sống trên đảo Hòn Lao. Sự phát triển du lịch dẫn đến
áp lực phát triển cơ sở hạ tầng và từng bước ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến môi trường sinh thái và sinh cảnh sống của các loài động, thực vật; trong
đó, có những loài dơi.
Nhận thấy tiềm năng và giá trị đa dạng của khu hệ động vật trên quần đảo
Cù Lao Chàm thuộc Khu Dự trữ Sinh quyển Cù Lao Chàm – Hội An; với sự

tài trợ về kinh phí bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia
(NAFOSTED) trong đề tài mã số 106.11-2012.02, Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam trong đề tài mã số VAST04.07/15-16; chúng tôi lựa chọn
và thực hiện đề tài “Nghiên cứu tính đa dạng các loài dơi (Mammalia:
Chiroptera) ở Khu Dự trữ Sinh quyển Cù Lao Chàm – Hội An”.

2


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VÀ LÝ DO
CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN
1.1.1. Khái quát về bộ Dơi (Chiroptera)
Trong lớp thú, bộ Dơi (Chiroptera) có thành phần loài đa dạng và phong
phú thứ hai (chỉ sau bộ Gặm nhấm - Rodentia)[49]. Cho đến nay, đã có hơn
1.300 loài dơi, thuộc 203 giống và 18 họ được phát hiện trên thế giới [34], [53].
Trong thành phần loài thú hiện biết ở Việt Nam, bộ Dơi đa dạng và phong phú
nhất [2], [60]. Dơi có vai trò quan trọng trong các hệ sinh thái [45].
1.1.2. Lược sử nghiên cứu dơi ở Việt Nam
Dẫn liệu đầu tiên về dơi ở Việt Nam được công bố bởi Peters (1869) [51].
Sau đó, có một số ghi nhận về dơi ở Việt Nam từ kết quả điều tra chung về thú
và động vật (Van Peenen 1997) [56 ]. Cho tới năm 1994, đã có 65 loài dơi thuộc
25 giống, 6 họ được ghi nhận tại Việt Nam [1]. Đó là kết quả tổng hợp từ những
kết quả điều tra chung về khu hệ động vật ở một số khu vực và chưa có kết quả
nghiên cứu riêng về dơi [10]. Từ năm 1997 đến nay, công tác nghiên cứu dơi
đã được quan tâm hơn trước. Một số chuyên gia từ các nước như Anh, Đan
Mạch, Hoa Kỳ, v.v... đã điều tra dơi ở một số vườn quốc gia của Việt Nam [40].
Năm 2000, thành phần loài dơi ghi nhận được ở Việt Nam bao gồm 88 loài
thuộc 25 giống và 7 họ [5]. Năm 2005, thành phần loài dơi ghi nhận được ở
Việt Nam bao gồm 107 loài thuộc 31 giống, 7 họ [6]. Năm 2009 thành phần

loài dơi ghi nhận ở Việt Nam là 113 loài dơi thuộc 33 giống, 7 họ [2]. Cho đến
nay, thành phần loài dơi hiện biết ở Việt Nam bao gồm 120 loài thuộc 38 giống,
8 họ, 2 phân bộ (Vũ Đình Thống và Csorba, tài liệu chưa công bố). Đáng chú
ý, thành phần loài dơi đã có nhiều thay đổi trong suốt 20 năm qua; trong đó,

3


nhiều loài có vị trí phân loại bị thay đổi, nhiều loài mới ghi nhận cho khu hệ
dơi Việt Nam và nhiều loài mới cho khoa học được phát hiện qua điều tra thực
địa và phân loại bộ mẫu vật trong các bảo tàng [60], [62], [63], [64]. Có thể
nhận thấy rằng: trong số những công trình đã công bố về khu hệ dơi của Việt
Nam, hầu hết kết quả thu được từ phân tích đặc điểm hình thái phân loại [40],
[24], [43].
Năm 2007, một loài mới cho khoa học (Kerivoura titania) được phát hiện
ở Việt Nam [19]. Năm 2008, loài mới cho khoa học (Murina harpioloides)
được phát hiện ở Việt Nam [43]. Cũng trong năm 2008, một loài dơi mới khác
cho khoa học (Myotis phanluongi) được phát hiện ở Việt Nam [24].
Năm 2009, một loài dơi mới cho khoa học (Murina eleryi) được phát hiện
ở Việt Nam [38].
Năm 2010, thành phần loài dơi ở Vườn Quốc Gia Côn Đảo (15 loài thuộc
7 giống và 6 họ) và Bái Tử Long (17 loài 7 giống và 5 họ) đã được ghi nhận
trong kết quả điều tra của Vũ Đình Thống và những người khác[13].
Năm 2011, một kết quả tổng hợp về tính đa dạng của các loài dơi ở Vườn
Quốc gia Côn Đảo, bao gồm 16 loài thuộc 6 họ đã được công bố bởi Đào Nhân
Lợi và những người khác [33].
Năm 2012, một phân loài dơi mới cho khoa học (Hipposideros alongensis
alongensis) và vị trí phân loại của loài Dơi nếp mũi hạ long đã được công bố
bởi Vũ Đình Thống và những người khác [63].
Năm 2013, Nguyen Truong Son và những người khác. Công bố một loài

dơi mới Myotis indochinensis cho khoa, phát hiện được ở Việt Nam [47].
Năm 2015, một số loài mới cho khoa học đã được phát hiện ở Việt Nam
Murina lorelieae ngoclinhensis được công bố bởi Vuong Tan Tu và những
người khác [69]; Nguyen Truong Son và những người khác, công bố một loài
dơi mới Murina kontumemsis cho khoa học[48]; đồng thời, một số loài đã được

4


ghi nhận ở Việt Nam trước đây nhưng vị trí phân loại đã thay đổi (Vũ Đình
Thống và Csorba – tài liệu chưa công bố).
1.1.3. Khái quát về phân loại, nghiên cứu đặc điểm sinh thái và tiếng kêu
siêu âm của dơi ở Việt Nam
Cho tới nay, đã có 120 loài dơi thuộc 38 giống, 8 họ được ghi nhận ở
Việt Nam [43]; Vũ Đình Thống và Csorba (tài liệu chưa công bố). Trong đó,
có những ghi nhận về một giống (Nyctalus) và 1 loài (Nyctalus cf. noctula)
chưa đủ cơ sở khoa học [43]. Mặt khác, nhiều loài dơi đã được ghi nhận trong
những tài liệu công bố trước đây nhưng không cung cấp thông tin chi tiết và
nguồn mẫu vật. Một số loài hiện được đánh giá là tổ hợp loài và cần nghiên cứu
chi tiết với sự kết hợp tổng thể dẫn liệu về hình thái, tiếng kêu siêu âm và sinh
học phân tử để khẳng định vị trí phân loại của chúng[44], [60]. Trong đó, đáng
kể đến là nhiều loài thuộc các giống: Cynopterus, Hipposideros, Rhinolophus,
Harpiacephalus, Myotis, Pipistrellus, Hypsugo, Ia, Miniopterus và Tadarida.
Khi giải quyết được những vấn đề còn tồn tại về vị trí phân loại của các loài
thuộc những giống nêu trên, thành phần loài dơi ở Việt Nam sẽ thay đổi đáng
kể.
1.1.4. Tình hình nghiên cứu động vật hoang dã ở Khu Dự trữ Sinh quyển
Cù Lao Chàm – Hội An
1.1.4.1. Tình hình nghiên cứu dơi ở Cù Lao Chàm
Trước khi nghiên cứu này được thực hiện, Kuznetsov (2000) [45] là tài

liệu duy nhất đã công bố có ghi nhận về dơi ở quần đảo Cù Lao Chàm. Trong
tài liệu đó, tác giả Kuznetsov ghi nhận 5 loài dơi (Hipposideros armiger, H.
bicolor, H. larvatus, Pipistrellus ceylonicus và P. javanucus), nhưng không
cung cấp mã số mẫu hoặc nơi bảo quản mẫu vật. Do vậy, không có thông tin
về nguồn mẫu dơi thu được ở Cù Lao Chàm trước đây để tác giả tham khảo.
Mặt khác, vị trí phân loại của các loài H. bicolor, H. larvatus và một số loài
5


thuộc giống Pipistrellus đang có sự thay đổi trong những năm gần đây. Vu Dinh
Thong (2011) [60] xác định những ghi nhận trước đây về loài H. bicolor ở Việt
Nam cần được quan tâm nghiên cứu kỹ hơn trong thời gian tới do hai loài H.
bicolor và loài H. pomona có đặc điểm hình thái tương tự nhau. Trong số 2 loài
này, H. pomona phân bố rộng và thường gặp ở Việt Nam (IUCN - Liên minh
Bảo tồn Thiên nhiên quốc tế, [60].
1.1.4.2. Tình hình nghiên cứu các loài động vật khác trên cạn ở Cù Lao
Chàm
Quần đảo Cù Lao Chàm có 8 Hòn đảo, nhưng hầu hết những công trình
nghiên cứu đa dạng sinh học nói chung và động vật trên cạn nói riêng chủ yếu
được điều tra nghiên cứu ở Hòn Lao. Nên kết quả thu được còn rất hạn chế.
Trong đó, đáng kể đến là những công trình nghiên cứu dưới đây:
Năm 1998, một số chuyên gia thuộc Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga đã tổ
chức điều tra nhanh về đa dạng sinh học tại các đảo gần bờ của Việt Nam; trong
đó, có quần đảo Cù Lao Chàm. Kết quả điều tra đã ghi nhận được 7 loài thằn
lằn và 1 loài rắn [3].
Năm 2007, các chuyên gia thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại
học Quốc gia Hà Nội tiến hành khảo sát tại quần đảo Cù Lao Chàm và ghi nhận
được 12 loài thú, 13 loài chim và 5 loài ếch nhái [tài liệu chưa công bố của Ban
quản lý KBTB Cù Lao Chàm].
Năm 2008, khi xây dựng Hồ sơ thành lập Khu Dự trữ Sinh quyển thế

giới Cù Lao Chàm - Hội An (UBND tỉnh Quảng Nam 2008), Ủy ban quốc gia
UNESCO Việt Nam đã thông báo ở quần đảo Cù Lao Chàm có 12 loài thú, 13
loài chim, 130 loài bò sát và 5 loài ếch nhái [15].
Năm 2013, Võ Tấn Phong, Lê Đình Thủy và Đinh Thị Phương Anh tiến
hành điều tra bước đầu về khu hệ chim ở quần đảo Cù Lao Chàm và ghi nhận
được 52 loài [7].

6


Từ năm 2011 đến 2014, Phan Thị Hoa đã tiến hành điều tra nghiên cứu hệ
lưỡng cư, bò sát ở quần đảo Cù Lao Chàm và Khu Bảo tồn Thiên nhiên Sơn
Trà. Kết quả điều tra ghi nhận được 11 loài lưỡng cư và 35 loài bò sát ở Khu
Dự trữ Sinh quyển Cù Lao Chàm [3].
Kết quả tổng hợp đó cho thấy: khu hệ động vật rừng của quần đảo Cù
Lao Chàm không phong phú và đa dạng như ở các hệ sinh thái rừng trong nội
địa; nhưng với tính chất là hệ sinh thái rừng hải đảo và diện tích rừng không
lớn thì số loài ghi nhận bước đầu có ý nghĩa khoa học và giá trị bảo tồn cao.
Đồng thời, Cù Lao Chàm cần có những nghiên cứu tiếp theo để đánh giá đầy
đủ hơn về tính đa dạng loài động vật hoang dã trên cạn.
Những kết quả nghiên cứu nêu trên mới chỉ ghi nhận được một số loài
động vật có xương sống thuộc các lớp Lưỡng cư, Bò sát, Chim, Thú. Có thể
nhận thấy rằng, khu hệ động vật của quần đảo Cù Lao Chàm cần được quan
tâm nghiên cứu nhiều hơn trong thời gian tới.
1.1.5. Đặc điểm tự nhiên và dân sinh kinh tế ở Khu bảo tồn biển Cù Lao
Chàm
1.1.5.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý – Địa hình
Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới Cù Lao Chàm - Hội An được UNESCO
công nhận năm 2009. Quần đảo Cù Lao Chàm nằm cách thị xã Hội An, tỉnh

Quảng Nam khoảng 19 km về phía Đông, tọa độ địa lý: 15°52′30′′- 16°00′00′′N;
108°24′30′′-108°44′30′′E. Quần đảo Cù Lao Chàm bao gồm 8 đảo với tổng diện
tích khoảng 2.000 ha. Trong đó đảo lớn nhất là Hòn Lao với diện tích 1.317 ha
và là nơi có đỉnh núi cao nhất (571m). Đây cũng là đảo duy nhất trong quần
đảo đang có khoảng 3.000 dân cư sinh sống. Cụm đảo chủ yếu là đồi núi thấp,
hầu hết các đảo nhỏ đều có hình chóp cụt. Độ cao so với mực nước biển từ 70200m. Đảo Hòn Lao có một dãy núi chính xếp theo hình cánh cung từ Tây Bắc
7


xuống Đông Nam, độ cao từ 187 m (Đỉnh Tục Cả) đến 517 m chia Hòn Lao
thành 2 sườn có độ dốc khác nhau
+ Sườn Đông có độ dốc lớn, đá tảng bao quanh chân núi hiểm trở, không
có bãi bồi ven biển.
+ Sườn Tây dốc thoải ít đá tảng, có các bãi bồi ven biển như Bãi Bấc,
Bãi Ông, Bãi Làng, Bãi Xếp, Bãi Chồng, Bãi Bìm và Bãi Hương [3].
Khí hậu và thủy văn
Khí hậu
Quần đảo Cù Lao Chàm có khí hậu hải dương điều hòa, ảnh hưởng bởi
khí hậu nhiệt đới gió mùa. Gió Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 6 và đi cùng là
nhiệt độ cao của mùa hè. Gió mùa Đông Bắc từ tháng 12 năm trước đến tháng
3 năm sau mang theo không khí lạnh. Trong tháng 10 đến tháng 11 khí hậu của
quần đảo thường chịu ảnh hưởng của bão nhiệt đới. Biên độ nhiệt trong năm ở
Cù Lao Chàm giao động trong khoảng 6oC-7oC. Khí hậu có hai mùa rõ rệt: mùa
mưa (từ tháng 9 đến tháng 12) và mùa khô (từ tháng 1 đến tháng 8).
Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Cù Lao Chàm khoảng 27,50C. Nhiệt độ
cao nhất từ tháng 5 đến tháng 8 và thấp nhất từ tháng 12 năm trước đến tháng
2 năm sau. Lượng mưa hàng năm bình quân là 2045 mm, tập trung từ tháng 9
đến tháng 12 (khoảng 75% lượng mưa cả năm).
Thủy văn
Cù Lao Chàm có trữ lượng nước ngọt lớn, từ lượng mưa hàng năm

(>2000mm). Tuy nhiên, do địa hình đồi dốc và lớp đất phủ bề mặt mỏng nên
một lượng lớn nước mưa đã đổ xuống biển mà chưa kịp chuyển thành dòng
ngầm. Hiện nay, ở Cù Lao Chàm có 3 khe suối có thể khai thác nước phục vụ
sinh hoạt. Ngoài ra, còn gặp 12 mạch nước lộ thiên. Tài nguyên nước ngầm
được đánh giá là khá phong phú với tầng nước ngầm nằm sâu 2-5 m dưới mặt
đất, trong khe nứt, trong đới phong hóa [3].
8


1.1.5.2. Điều kiện dân sinh – kinh tế
Quần đảo Cù Lao Chàm thuộc xã Tân Hiệp, có 4 thôn với 2.776 nhân
khẩu, tỷ lệ tăng dân số bình quân các năm gần đây là 0,4%. Trong đó có là
1.367 nam, 1.409 nữ. Trên địa bàn số người trong độ tuổi lao động là 1.691
người, sống chủ yếu ở Hòn Lao[3]. Xã Tân Hiệp có một trường Trung học cơ
sở và một trường tiểu học.
Mạng lưới giao thông trên đảo Hòn Lao chủ yếu là đường mòn, đất đá;
trong đó đường liên thôn có chiều dài hơn 6 km. Đường giao thông nội bộ ở
các khu dân cư đã được bê tông hóa với tổng chiều dài 7 km. Ngoài ra, trên đảo
còn có tuyến đường quốc phòng từ Bãi Làng đến Bãi Hương với chiều dài
khoảng 3 km.
1.2. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong thành phần loài thú hiện biết ở Việt Nam, bộ Dơi (Chiroptera) có
thành phần loài đa dạng và phong phú nhất [2], [44], [60]. Tuy nhiên, khu hệ
dơi Việt Nam còn ít được quan tâm trên cả phương diện nghiên cứu và bảo tồn.
Hầu hết những công trình nghiên cứu và tài liệu đã công bố trước đây về dơi
của Việt Nam chủ yếu tập trung vào đặc điểm hình thái, vị trí phân loại, tình
trạng bảo tồn. Mặt khác, các công trình nghiên cứu đó cũng tập trung thực hiện
ở những khu vực trong đất liền thuộc hệ thống Khu Bảo tồn Thiên nhiên và
Vườn Quốc gia của Việt Nam [43]. Đáng chú ý, số lượng công trình nghiên
cứu về siêu âm của dơi ở Việt Nam còn rất hạn chế. Borissenko và Kruskop

(2003) [24] là tài liệu đầu tiên đề cập đến tần số tiếng kêu siêu âm của một số
loài dơi ở Việt Nam. Tuy nhiên, dẫn liệu về siêu âm trong tài liệu đó chỉ được
ghi nhận ở mức sơ bộ. Mặt khác, do thiết bị nghiên cứu còn hạn chế nên một
số dẫn liệu chưa sát thực (Borissenko – thông tin qua thảo luận cá nhân). Ví dụ:
Borissenko và Kruskop (2003) [24] ghi nhận tần số tiếng kêu siêu âm của loài
9


Dơi lá mũi lớn (Rhinolophus luctus) là 110 kHz. Về mặt hình thái, Dơi lá mũi
lớn là một trong số những loài dơi có kích thước cơ thể lớn nhất họ Dơi lá mũi
(Rhinolophidae) với dài cẳng tay trong khoảng 70,0-80,0 mm [24], tần số tiếng
kêu siêu âm của loài này chắc chắn thấp hơn 110 kHz. Thực tế, tần số tiếng kêu
siêu âm của Dơi lá mũi lớn ghi nhận được ở một số nước khác trong khu vực
Đông Nam Á trong khoảng 32,0-42,0 kHz [35]. Một số công trình nghiên cứu
về tiếng kêu siêu âm của dơi ở Việt Nam đáng kể đến là Vũ Đình Thống và
những người khác (2007) [11]; Furey và những người khác (2009) [38]; [60],
[59], [58], [63], [64], [65], [67], [68]. Những kết quả nghiên cứu về tiếng kêu
siêu âm có vai trò quan trọng trong công tác phân loại, giám sát, nghiên cứu
đặc điểm sinh thái học và tập tính của dơi [60], [64]. Mặt khác, việc nghiên cứu
tính đa dạng của các loài dơi hiện nay đòi hỏi dẫn liệu tổng thể về hình thái
phân loại, tiếng kêu siêu âm và sinh học phân tử.
Trong hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia của Việt Nam
hiện nay, Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm là một trong số những khu bảo vệ
được thành lập nhằm bảo tồn hệ sinh thái biển và hải đảo, có điều kiện tự nhiên
đa dạng với nhiều kiểu sinh cảnh khác nhau: hang động, rừng trên núi, rạn san
hô, v.v... Những sinh cảnh trên cạn ở Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm có thể là
nơi sinh sống của nhiều loài dơi. Cù Lao Chàm cũng là một trong những địa
danh đã và đang phát triển du lịch sinh thái với tốc độ và quy mô lớn, bao gồm
du lịch tham quan các hệ sinh thái rừng theo tuyến. Mặt khác, nhiều công trình
phục vụ dân sinh và quân sự cũng đã và đang được xây dựng trên đảo Hòn Lao

(hệ thống hồ chứa nước, đường dẫn và bể chứa nước, hệ thống đường bộ xuyên
và quanh đảo, v.v…) có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiện trạng đa
dạng sinh học nói chung và tình trạng bảo tồn của những loài dơi nói riêng.
Tuy nhiên, cho tới trước khi thực hiện đề tài này, dẫn liệu về các loài thú
ở Khu Dự trữ Sinh quyển Cù Lao Chàm – Hội An còn rất hạn chế. Một số công

10


trình nghiên cứu có ghi nhận nhưng không chỉ rõ nguồn mẫu vật. Nhằm khắc
phục sự thiếu hụt về dẫn liệu và cũng cấp cơ sở khoa học cho công tác quản lý
và bảo tồn đa dạng sinh học, tôi lựa chọn và thực hiện đề tài “Nghiên cứu tính
đa dạng các loài dơi (Mammalia: Chiroptera) ở Khu Dự trữ Sinh quyển Cù Lao
Chàm – Hội An”.
1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
 Cung cấp cơ sở khoa học và bộ mẫu đại diện về các loài dơi ghi nhận
được ở Khu Dự trữ Sinh quyển Cù Lao Chàm – Hội An;
 Đánh giá tính đa đạng và hiện trạng của các loài dơi ở khu vực nghiên
cứu căn cứ trên kết quả điều tra thực địa.
 Cung cấp dẫn liệu về tiếng kêu siêu âm của các loài dơi ghi nhận được
qua các đợt điều tra thực địa làm cơ sở khoa học cho công tác giám sát
và bảo tổn.
1.4. NỘI DUNG
 Điều tra thực địa và thu mẫu đại diện của mỗi loài dơi bắt gặp ở khu vực
nghiên cứu.
 Phân tích và định loại những mẫu vật thu được căn cứ vào đặc điểm hình
thái ngoài, đặc điểm sọ, răng, tiếng kêu siêu âm, ...
 Ghi nhận địa điểm bắt gặp, ước tính số lượng cá thể, đặc điểm sinh cảnh
nơi bẫy bắt, v.v...
 Ghi và phân tích tiếng kêu siêu âm của các loài dơi bắt gặp trên thực địa

trong điều kiện sinh cảnh tự nhiên của chúng và trong điều kiện thí
nghiệm.

11


CHƯƠNG 2: THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
2.1.1. Thời gian
Đề tài được công nhận tại Quyết định số 286/QĐ-STTNSV của Viện
trưởng Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, ký ngày 10 tháng 6 năm 2015.
Thực tế, để đảm bảo thời gian và điều kiện nghiên cứu ở Cù Lao Chàm, với sự
hỗ trợ về thủ tục hành chính và kinh phí của các đề tài khác, nội dung nghiên
cứu trên thực địa của luận văn này được thực hiện từ tháng 5 đến tháng 7 năm
2015; thời gian xử lý số liệu và mẫu vật ở Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh
vật từ tháng 6 đến hết tháng 11 năm 2015.
2.1.2. Địa điểm
2.1.2.1. Điều tra trên thực địa
Khu Dự trữ Sinh quyển Cù Lao Chàm – Hội An bao gồm: vùng lõi (Khu
bảo tồn biển Cù Lao Chàm), vùng đệm (bao gồm vùng cửa sông Thu Bồn và
dọc theo sông Thu Bồn đến Đô thị cổ Hội An) và vùng chuyển tiếp (là phần
còn lại của khu dự trữ sinh quyển và đô thị cổ Hội An). Đề tài được nghiên cứu
thuộc Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm (có 8 hòn đảo: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn
Mồ, Hòn Khô Mẹ, Hòn Khô Con, Hòn Lá, Hòn Tai và Hòn Ông.) Trong số các
đảo thuộc Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm, đảo Hòn Lao có tổng diện tích nói
chung và diện tích rừng nói riêng lớn hơn cả và có người sinh sống (hình 1 –
theo Phan Thị Hoa 2015 [3]). Các đảo còn lại có diện tích nhỏ, chỉ có cây bụi
hoặc diện tích đất trống với thảm cỏ thấp. Do vậy, cho tới nay, cũng như tất cả
những công trình nghiên cứu trước đây về đa dạng sinh học trong hệ sinh thái

trên cạn của Khu Dự trữ Sinh quyển Cù Lao Chàm – Hội An, nội dung nghiên
cứu trên thực địa của luận văn này mới chỉ tập trung thực hiện ở đảo Hòn Lao.
12


Hình 1: Bản đồ thảm thực vật quần đảo Cù Lao Chàm [3]

13


2.1.2.2. Xử lý số liệu và mẫu vật
Tất cả mẫu vật và số liệu đã thu thập trong thời gian thực hiện luận văn
này được xử lý và bảo quản ở Phòng Bảo tàng Động vật thuộc Viện Sinh thái
và Tài nguyên sinh vật.
Thông tin chi tiết về các mẫu vật thuộc mỗi loài bắt gặp ở Cù Lao Chàm
trong thời gian thực hiện luận văn này được mô tả khái quát dưới đây:
Dơi chó mũi ống Cynopterus horsfieldii
IEBR-T.090613.1, đực, trưởng thành; IEBR-T.090613.2, đực, trưởng
thành; IEBR-T.090613.1.2, đực, trưởng thành. Cả 3 mẫu vật này nêu trên được
thu ngày 09 tháng 6 năm 2015, tại Hang Tò Vò thuộc đảo Hòn Lao.
Dơi lá đuôi Rhinolophus affinis
+ IEBR-T.080515.4, đực, trưởng thành; IEBR-T.080515.7, đực, trưởng
thành; IEBR-T.mRaff01h, đực, trưởng thành; IEBR-T.mRaff09h, đực, trưởng
thành; IEBR-T.mRaff04h, đực, trưởng thành; IEBR-T.mRaff05h, đực, trưởng
thành; IEBR-T.mRaff 06h, đực, trưởng thành. Cả 7 mẫu này thu ngày 08 tháng
5 năm 2015 tại đảo Hòn Lao.
+ IEBR-T.100515.4, đực, trưởng thành; thu ngày 10 tháng 5 năm 2015 tại
đảo Hòn Lao.
+ IEBR-T.140715.2, đực, trưởng thành; IEBR-T.140715.4, đực, trưởng
thành; IEBR-T.140715.3, đực, trưởng thành; thu ngày 14 tháng 7 năm 2015 tại

đảo Hòn Lao.
+ IEBR-T.150715.4, đực, trưởng thành; thu ngày 15 tháng 7 năm 2015 tại
đảo Hòn Lao.
+ Ngoài những mẫu nêu trên, có 2 cá thể cái mắc bẫy ngày 15 tháng 7 năm
2015 được thả ngay sau khi do dài cẳng tay và định loại trên thực địa.

14


Dơi lá mũi nhỏ Rhinolophus pusillus
+ IEBR-T.140715.1, đực, trưởng thành; thu ngày 14 tháng 7 năm 2015 tại
đảo Hòn Lao.
+ IEBR-T.150715.3, đực, trưởng thành; thu ngày 14 tháng 7 năm 2015 tại
đảo Hòn Lao.
Dơi nếp mũi nâu Hipposideros galeritus
+ IEBR-T.080515.6, đực, trưởng thành; thu ngày 08 tháng 5 năm 2015 tại
đảo Hòn Lao.
+ IEBR-T.090515.2, đực, trưởng thành; IEBR-T.090515.3, đực, trưởng
thành; thu ngày 09 tháng 5 năm 2015 tại đảo Hòn Lao.
+ IEBR-T.150715.7, đực, trưởng thành; thu ngày 15 tháng 7 năm 2015 tại
đảo Hòn Lao.
Dơi nếp mũi xám lớn Hipposideros grandis
+ IEBR-T.080515.5, đực, trưởng thành; IEBR-T.080515.8, đực, trưởng
thành; thu ngày 08 tháng 5 năm 2015 tại đảo Hòn Lao.
+ IEBR-T.150715.5, đực, trưởng thành; IEBR-T.150715.6, đực, trưởng
thành; IEBR-T.mHgra04h, đực, trưởng thành; IEBR-T.mHgra03h, đực, trưởng
thành; IEBR-T.mHgra01h, đực, trưởng thành; thu ngày 15 tháng 7 năm 2015
tại đảo Hòn Lao.
+ Ngoài những cá thể được giữ làm mẫu vật nêu trên, chúng tôi đã ghi
nhận được những đàn Dơi nếp mũi xám lớn đâu trong hang động gần Bãi

Hương và bay kiếm ăn dọc theo các suối cạn và đường mòn dưới tán rừng.
Dơi nếp mũi xinh Hipposideros pomona
+ IEBR-T.090515.1, đực, trưởng thành; thu ngày 09 tháng 5 năm 2015 tại
đảo Hòn Lao.

15


+ IEBR-T.100515.1, đực, trưởng thành; IEBR-T.100515.2, đực, trưởng
thành; IEBR-T.100515.3, đực, trưởng thành; thu ngày 10 tháng 7 năm 2015 tại
đảo Hòn Lao.
+ IEBR-T.150715.1, đực, trưởng thành; IEBR-T.150715.2, đực, trưởng
thành; thu ngày 15 tháng 7 năm 2015 tại đảo Hòn Lao.
+ Ngoài những cá thể được giữ làm mẫu vật nêu trên, có một cá thể cái
mắc bẫy và được thả ngay sau khi đo kích thước hình thái ngoài và chụp ảnh.
2.2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.2.1.1. Thiết bị bắt dơi
+ Lưới mờ
+ Bẫy thụ cầm
+ Vợt cầm tay
2.2.1.2. Thiết bị và hóa chất xử lý mẫu
+ Panh, kẹp, kéo, kim nhọn, ghim, đĩa petri
+ Kính lúp, máy đo siêu âm
+ Dụng cụ chứa mẫu: bình nhựa hoặc bình thủy tinh
+ Thước kẹp dùng để đo kích thước dơi và sọ dơi
+ Máy ảnh
+ Sổ tay và dụng cụ ghi chép
+ Hóa chất: cồn tuyệt đối, dung dịch cồn 70°, …
+ Tuýp thu mẫu cơ và màng cánh phục vụ xử lý DNA

+ Một số thiết bị phụ trợ khác: máy định vị tọa độ địa lý (GPS), đèn chiếu
sáng, máy đếm số lượng cá thể dơi tại cửa hang động, v.v…

16


2.2.1.3. Mẫu vật nghiên cứu
Luận văn này là công trình nghiên cứu về khu hệ dơi ở Khu bảo tồn biển
Cù Lao Chàm. Do vậy, tất cả những mẫu vật nghiên cứu trong luận văn này
được thu qua các đợt điều tra thực địa từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2015.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.2.1. Quan sát
Phương pháp quan sát dơi có thể áp dụng khi gặp những đàn dơi sinh sống
trong hang động hoặc dưới tán cây. Trong phạm vi của đảo Hòn Lao, chúng tôi
không tìm thấy đàn dơi nào đậu dưới tán cây trong suốt quá trình điều tra thực
địa. Cho đến nay, đã có 10 hang động được phát hiện trong phạm vi quần đảo
Cù Lao Chàm. Trong đó, có 5 hang thuộc đảo Hòn Lao, 5 hang còn lại thuộc
các đảo khác. Đáng chú ý: trong số 10 hang động hiện biết ở quần đảo Cù Lao
Chàm, chỉ có 1 hang (Hang Tò Vò) có dơi sinh sống cùng với Chim yến và một
số loài động vật khác. Do đặc thù của công tác quản lý nơi sống và khai thác tổ
Chim yến, chúng tôi không được phép tiếp cận mà phải nhờ những cán bộ địa
phương thu mẫu dơi ở Hang Tò Vò để xác định vị trí phân loại của loài dơi sinh
sống trong hang đó. Do vậy, phương pháp quan sát và ước tính số lượng cá thể
dơi ở nơi đậu chỉ được thực hiện ở một hang nhỏ có dơi sinh sống gần khu vực
Bãi Hương thuộc đảo Hòn Lao (hình 2).
Ngoài ra, chúng tôi cũng quan sát tập tính kiếm ăn và bắt mồi của dơi dọc
theo các tuyến khảo sát ban đêm: dọc theo suối cạn và đường đi dưới tán rừng.
Trong đó, Suối Bãi Bìm được quan tâm điều tra nhiều nhất qua cả hai đợt điều
tra thực địa.


17


2.2.2.2. Bẫy bắt dơi trên thực địa
Bẫy thụ cầm
Bẫy thụ cầm có kích cỡ 1,2m x 1,5m, bao gồm 4 khung kim loại; trong
mỗi khung kim loại có các sợi dây cước song song theo chiều thẳng đứng,
khoảng cách giữa các sợi dây vào khoảng 1,5 cm. Khung kim loại được lắp vào
một giá thể có chân đỡ, phía dưới giá thể có máng (Hình 3). Bẫy thường được
đặt ngang những lối mòn dưới tán rừng, ngang suối cạn và những đường đi hẹp
có dơi thường bay qua lại.

Hình 2: Một hang dơi thuộc khu vực Bãi Hương, đảo Hòn Lao

18


Photo by Vu Dinh Thong

Hình 3: Bẫy thụ cầm được giăng ngang Suối Bãi Bìm, đảo Hòn Lao
Lưới mờ
Lưới mờ có kích thước khác nhau (12,0 x 2,4 m; 12,0 x 4,0 m; 6,0 x 2,4m,
6 x 3,2m, 3 x 3,2m, 3 x 2,4m) là những công cụ để bắt dơi. Việc lựa chọn kích
thước lưới mờ căn cứ vào các điều kiện thực tế của sinh cảnh. Lưới mờ được
giăng trước cửa các hang có dơi cư trú, các lối mòn, các khe núi hoặc căng
ngang mặt nước (kênh, suối, hồ). Lưới mờ có thể sử dụng động lập (Hình 4)
hoặc kết hợp với bẫy thụ cầm tùy thuộc vào địa hình và sinh cảnh của địa điểm
thu mẫu.

19



Hình 4: Lưới mờ được giăng ngang suối Bãi Bìm thuộc đảo Hòn Lao
Vợt cầm tay
Vợt cầm tay là thiết bị hữu hiệu để thu mẫu dơi trong không gian hẹp như
hẻm núi hoặc hang động nhỏ. Trong thời gian thực hiện đề tài nay, vợt cầm tay
đã được sử dụng để bắt dơi ở hang động nhỏ gần Bãi Hương.
2.2.2.3. Xử lý mẫu trên thực địa
Trong số những cá thể bắt được bằng lưới hoặc bẫy hay vợt cầm tay, chúng
tôi chỉ giữ lại một số cá thể để làm mẫu vật để xử lý và phân loại trong bảo
tàng. Những cá thể cái đang trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú được thả
ngay sau khi ghi tiếng kêu siêu âm (đối với những loài thuộc Phân bộ Dơi nhỏ
- Microchiroptera), chụp ảnh và đo một số kích thước hình thái ngoài cần thiết
đối với việc định loại: dài cẳng tay (FA), cao tai (EH), dài xương chày (TIB),
dài bàn chân sau (HF), và dài đuôi (Tail). Trong nhiều tài liệu đã công bố và
20


nội dung của luận văn này, kích thước cao tai (EH) còn có tên gọi khác là dài
tai. Khi bắt gặp những cá thể cái đang trong thời kỳ sinh sản (mang thai, cho
con bú) bị mắc lưới hoặc bẫy, chúng tôi chỉ đo kích thước dài cẳng tay, chụp
ảnh, lấy mẫu màng cánh trước bằng khoan chuyên dụng với đường kính 3-5
mm tại ví trí màng cánh có thể phục hồi rồi thả ngay tại sinh cảnh đặt bẫy hoặc
lưới đó.
Đối với những cá thể giữ lại làm mẫu vật, một phần nhỏ cơ ức được cắt
nhỏ ngay sau khi giết và bảo quản trong tuýp nhỏ chứa cồn tuyệt đối để nghiên
cứ về đặc điểm sinh học phân tử, góp phần xác định vị trí phân loại của mỗi
loài khi đặc điểm hình thái không rõ. Cho đến nay, tất cả những mẫu dơi đã thu
được ở Cù Lao Chàm có thể định loại đến loài căn cứ vào đặc điểm hình thái.
Do vậy, những mẫu màng cánh và cơ đã thu phục vụ nghiên cứu đặc điểm phân

tử sẽ được xử lý trong những công trình nghiên cứu sau. Tất cả mẫu vật được
bảo quản tại Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện Hàn lâm Khoa
học và Công nghệ Việt Nam.
2.2.2.4. Ghi và xử lý tiếng kêu siêu âm
Bộ Dơi (Chiroptera) bao gồm Phân bộ Dơi lớn (Megachiroptera) và Phân
bộ Dơi nhỏ (Microchiroptera). Trong đó, chỉ có một số ít loài thuộc phân bộ
dơi lớn sử dụng tiếng kêu siêu âm trong hoạt động sống của chúng. Tuy nhiên,
những loài dơi này không sử dụng thường xuyên và tín hiệu siêu âm của chúng
không thể hiện tính đặc trưng của loài. Ngược lại, tất cả những loài thuộc Phân
bộ Dơi nhỏ đều sử dụng siêu âm trong quá trình bay lượn và kiếm ăn với tín
hiệu siêu âm thể hiện rõ đặc điểm đặc trưng của giống và loài. Vì vậy, trong
phạm vi của luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu tiếng kêu siêu âm
của những loài thuộc Phân bộ Dơi nhỏ.
Việc ghi tiếng kêu siêu âm được thực hiện trong môi trường sống tự nhiên
của loài và trong điều kiện thí nghiệm bằng hệ thống PCTape. Phần mềm
21


×