Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sử dụng công cụ chứng khoán phái sinh trên thị trường cafe thế giới và phòng vệ biến động giá cho café việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.25 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Đề tài : Sử dụng cơng cụ chứng khốn phái sinh trên
thị trường cafe thế giới và phòng vệ biến động giá
cho café Việt Nam


MỤC LỤC
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG...............................................................................1
...............................................................................................................................1
Đề tài : Sử dụng công cụ chứng khoán phái sinh trên thị trường cafe thế giới và
phòng vệ biến động giá cho café Việt Nam...........................................................1
MỤC LỤC.............................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................3
I/ Tổng quan về chứng khoán phái sinh............................................................4
1/ Khái niệm..................................................................................................4
2/ Phân loại....................................................................................................4
3/ Ứng dụng của các công cụ phái sinh.........................................................5
4/ Vai trị của chứng khốn phái sinh............................................................6
5/ Hậu quả khơng mong muốn khi sử dụng chứng khốn phái sinh.............6
1/ Thế giới.....................................................................................................7
3/ Phân tích những hạn chế khi sử dụng ckps ở VN...................................21
III / Kiến nghị giải pháp tăng cường hiệu quả trong ứng dung chúng khoán
phái sinh...........................................................................................................24
KẾT LUẬN.........................................................................................................27


LỜI MỞ ĐẦU
Thương mại Việt Nam với thế giới ngày càng tăng cao nhờ mở rộng
được nhiều thị trường. Xuất khẩu ngày càng đóng một vai trị cực kỳ quan trọng


đối với nên kinh tế.Việt Nam với thế mạnh về nơng sản thì việc xuất khẩu nơng sản
có rất nhiều lợi thế thương mại. Trong các nông sản của Việt Nam thì cafe có một
tỷ trọng rất lớn. Trong những năm gần dây “ngành cà phê đã góp phần quan trọng
vào nền kinh tế Việt Nam, chiếm khoảng 3% GDP, cung cấp sinh kế cho hơn hai
triệu rưỡi người”. Trên bản đồ xuất khẩu cà phê của thế giới sau thời gian đứng
thứ 2 thế giới Việt Nam đã vượt qua Brasil trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn
nhất thế giới. Cho đến nay, cà phê vẫn luôn giữ vài trò là một trong những ngành
hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta và được chọn là một trong những mặt hàng
trọng điểm cần phát huy. Tuy nhiên, trong những năm qua, việc phát triển ngành
cà phê khá bấp bênh. Tính chất giá cà phê của nước ta là phụ thuộc vào giá cả của
thị trường thế giới, chỉ một vụ rớt giá mạnh cũng khiến cho người trồng cà phê và
các nhà kinh doanh cà phê gánh chịu rủi ro lớn, có khi dẫn đến phá sản. Do vậy là
một vấn đề lớn cần được quan tâm để phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê. Trên
thế giới, để hạn chế rủi ro giá cả cho nhà sản xuất xuất khẩu nơng sản trong đó có
cà phê, các nước thường sử dụng thành công một biện pháp là xây dựng thị trường
giao dịch chứng khoán phái sinh để các chủ thể có thể là nhà sản xuất, xuất khẩu
nông sản tham gia giao dịch để san sẻ rủi ro về giá cả hàng hóa cho đối tác khác
trên thị trường đó và cho thị trường quốc tế. Vì vậy khơng lý do gì Việt Nam khơng
áp dụng hình thức này khi mà sự phát triển sản phẩm giao dịch cho các hàng hoá
Việt Nam là điều tất y ếu và cần thiết tương ứng với giai đoạn phát triển kinh tế và
hội nhập hiện nay. Theo đây, bọn em xin trình bày đề tài tiểu luận “sử dụng cơng
cụ chứng khốn phái sinh trên thị trường cafe thế giới và phòng vệ biến động giá
cho café Việt Nam”. Bài tiểu luận sẽ cịn nhiều những thiếu xót, chúng em mong cơ
góp ý để bài viết thêm hồn thiện. Chúng em xin cảm ơn cô!


I/ Tổng quan về chứng khoán phái sinh
1/ Khái niệm
-


Khái niệm: Chứng khốn phái sinh là một loại cơng cụ tài chính mà giá trị của chúng
tùy thuộc vào giá trị của một hoặc một số tài sản cơ sở. Tài sản cơ sở có thể là giá cả
của một hàng hóa, tiền tệ, hoặc chứng khốn nào đó…
2/ Phân loại
Có 4 loại chứng khốn phái sinh cơ bản:
a/ Hợp đồng kì hạn (Forwards)

-

Là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để mua và bán một tài sản cơ sở
vào một ngày trong tương lai với giá được thỏa thuận vào ngày hôm nay. Nếu vào
ngày đáo hạn,giá thực tế cao hơn giá hợp đồng thì người sở hữu hợp đồng sẽ thu được
lợi nhuận, và ngược lại, nếu giá thực tế thấp hơn, người sở hữu hợp đồng sẽ bị lỗ
VD: ngày 5/8 A kí hợp đồng kì hạn mua 10 tấn café của B với giá kì hạn 925USD/tấn
giao trong 2 tháng tới. ngày 5/10,giá café là 900 USD/tấn do đó A đã bị lỗ 25 USD/
tấn.

-

Hợp đồng kì hạn được giao dịch trên thị trường OTC và chỉ được thanh toán vào ngày
đáo hạn do đó tiềm ẩn nhiểu rủi ro : rủi ro khơng có khả năng thực hiện hợp đồng, tính
thanh khoản không cao,…
b/ Hợp đồng tương lai (Futures)

-

Là hợp đồng giữa hai bên mua và bán để mua bán tài sản cơ sở vào một ngày trong
tương lai với giá đã thỏa thuận ngày hôm nay mà không phụ thuộc vào giá tại thời
điểm thực hiện hợp đồng.
 Phân biệt Futures vs Forward

FORWARDS
Thỏa thuận cá nhân giữa hai bên
Không được chuẩn hóa
Thường chỉ có một ngày giao hành
nhất định
Được thanh tốn lãi lỗ khi hợp đồng
hết hạn
Có thể giao hàng hoặc thanh tốn bù
trừ bằng tiền mặt
Rủi ro tín dụng
c/ Hợp đồng quyền chọn (Options)

FUTURES
Được giao dịch trên sở giao dịch
Được chuẩn hóa
Quy định nhiều ngày giao hàng
Được tính lãi lỗ hàng ngày
Hợp đồng thường được kết thúc
trước khi đáo hạn
Hầu như khơng có rủi ro tín dụng


-

-

Là hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên, theo đó một bên cho bên kia được quyền mua
hoặc bán một số lượng xác định các tài sản cơ s, tại hay trước một thời điểm trong
tương lai với mức giá xác định tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng.
Có 2 loại quyền chọn:

+ quyền chọn mua (call option) cho phép người mua được quyền mua một tài sản cơ
sở tại hay trước thời điểm trong tương lai với mức giá xác định.
+ quyền chọn bán (put option) cho phép người bán được quyền bán một tài sản cơ sở
tại hay trước thời điểm trong tương lai với mức giá xác định.

-

Có 2 kiểu quyền chọn:
+ quyền chọn Mĩ ( American-style option): là loại quyền chọn thực hiện vào bất kì thời
điểm nào trước khi đáo hạn.
+ quyền chọn Âu (European-style Option) : là loại quyền chọn chỉ có thể thực hiện vào
ngày đáo hạn chứ không được thực hiện trước ngày đó.
d/ Hợp đồng hốn đổi( Swaps)

-

Là hợp đồng thỏa thuận trao đổi luồng tiền tài chính trong tương lai theo một số
nguyên tắc xác định tại thời điểm hiện tại.
Có 4 loại swaps: hốn đổi tiền tệ, hốn đổi lãi suất, hốn đổi chứng khốn và hốn đổi
hàng hóa.
3/ Ứng dụng của các cơng cụ phái sinh
a/ Phịng vệ

-

Chứng khốn phái sinh là một cơng cụ chuyển giao rủi ro từ bên này sang bên kia . vì
thế các bên sử dụng hợp đồng phái sinh để giảm thiểu rui ro có thể gạp phái cho
mình .Ví dụ, một nông dân trồng café và một chủ nhà máy sản xuất café có thể ký
một hợp đồng tương lai để trao đổi một số tiền mặt xác định cho một số café xác định
trong tương lai. Cả hai bên đã làm giảm nguy cơ tương lai: đối với người nông dân là

sự không chắc chắn của giá cả, và đối với chủ nhà máy là sự khơng sẵn có của café .
b/ Đầu cơ

-

một số cá nhân và tổ chức sẽ tham gia vào một hợp đồng phái sinh để đầu cơ giá trị
của các tài sản cơ sở, đánh cược rằng các bên tìm kiếm bảo hiểm sẽ là sai lầm về giá
trị tương lai của tài sản cơ sở. Các nhà đầu cơ tìm mua một tài sản trong tương lai ở
một mức giá thấp theo một hợp đồng phái sinh khi giá thị trường tương lai là cao, hoặc
bán một tài sản trong tương lai ở một mức giá cao theo một hợp đồng phái sinh khi giá
thị trường tương lai là thấp.
c/ đầu cơ chênh lệch giá ( arbitrage)

-

đồng thhời tiến hành mua và bán dựa trên sự chênh lệch giá cả hoặc lãi suất thu về lợi
nhuận với rủi ro thấp nhất , bằng cách mua rẻ ở một nơi và bán giá cao ở nơi khác .


4/ Vai trị của chứng khốn phái sinh
a/ Xác định biến động giá
-

-

Forward và Future góp phần hình thành giá giao ngay : trong thời hạn hợp đồng, giá
tương lai ln có xu hướng tiến về giá giao ngay cảu tài sản cơ sở. Tại thời điểm giao
hàng, giá tương lai gần bằng giá giao ngay,do đó giá giao ngay của tài sản cơ sở trong
tương lai được xác định.
Option giúp xác định xu thế giá: ví dụ, khi giá của quyền chọn mua tại thời điểm hiện

tại cao, ta ngầm hiểu tài sản cơ sở có xu hướng tang giá trong tương lai, vì thế người
mua quyền chọn mua sẽ có thể chịu ít rủi ro hơn người bán quyền chọn mua. Khoản
chi phí bỏ ra để mua quyền chọn lúc này được coi như chi phí bảo hiểm của người
bán.
b/ Phân tán rủi ro nhà đầu tư

-

Chứng khoán phái sinh cho phép những người muốn giảm rủi ro của mình chuyển
giao rủi ro cho những người chấp nhận nó. Thị trường này rất có hiệu quả trong việc
phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư. Thực tế thị trường các sản phẩm phái sinh sẽ
làm một bên được lợi và tất yếu bên kia không tránh khỏi những thiệt hại nhưng
những giao dịch này vẫn rất phát triển do “ khẩu vị rủi ro” của mỗi nhà đầu tư là khác
nhau và ai cũng mong muốn rủi ro của mình ở mức chấp nhận được nên vẫn tiến hành
chuyển giao rủi ro cho các nhà đầu tư khác.
c/ Thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính

-

-

Các nhà đầu tư ln sẵn sang cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính thong
qua các công cụ phái sinh để giảm thiểu rủi ro của mình, vì vậy tạo điều kiện cho nền
kinh tế phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn.
Bên cạnh đó thị trường phái sinh không dẫn vốn của nền kinh tế vào những âm mưu
đầu cơ khủng khiếp, và việc phòng ngừa các rủi ro được hiệu quả hơn, ít tốn kem hơn.
5/ Hậu quả khơng mong muốn khi sử dụng chứng khốn phái sinh

-


Khi điều kiện thị trường có những chuyển biến theo chiều hướng thuận lợi, nếu
một doanh nghiệp thực hiện việc phịng ngừa thì có thể sẽ bỏ qua những cơ hội thực
hiện
các ưu thế mà thị trường đang có. Trên thực tế, thực hiện phòng ngừa rủi ro, doanh
nghiệp sẽ giảm đi được các khoản lỗ nhưng đồng thời cũng làm giảm đi các khoản lãi
tiềm năng

-

Rào cản tham gia thị trường phái sinh thấp, tỉ lệ sinh lời cao khiến mục đích phịng vệ
chuyển thành mục địch đầu cơ mà chính nhà đầu tư khơng biết, chiến lược sai lệch dễ
gây ra nhiều hậu quả khó lường trước.


II/ Thực tế sử dụng CKPS trong thị trường café Việt Nam và thế giới
1/ Thế giới
a/tình hình biến động giá café thế giới
Tình hình sản xuất cà phê biến động qua các năm tùy theo điều kiện thời tiết, bệnh
dịch và các yếu tố khác. Điều này khiến thị trường cà phê mang tính chất cố hữu là
khơng ổn định và có đặc trưng là giá dao động lớn. Sự dao động giá để lại hậu quả lớn
cho những người mà cuốc sống của họ phụ thuộc vào mặt hàng này. Khi giá thấp,
người trồng khơng có đủ nghị lực để đầu tư vào sản xuất với những chí phí như phân
bón, thuốc trừ sâu hay chi phí thay thế cây cũ cũng như khơng có đủ điều kiện tài
chính để chi trả cho cuộc sống của mình, để gửi con em đi học, trả tiền thuốc men…
Những năm gần đây, giá cà phê Arabica đã tăng từ 45cent/pound năm 2001 lên mức
cao nhất trong 34 năm đạt gần 309cent/pound. Giá cà phê Robusta tăng từ 17cent lên
120 cent/pound năm 2011.
Sau cuộc khủng hoảng thừa những năm 1999-2004, giá cà phê được phục hồi vào năm
2007 dao động trên mức 120cent/pound. Khi cuộc khủng hoảng nổ ra vào năm 2008,
giá cà phê Arabica và Robusta giảm nhẹ xuống mức quanh 110cent/pound.

Năm 2011, giám đốc điều hành của Illycaffe SpA, ông Andrea Illy, nhận định rằng cà
phê tại New York đã bị định giá cao hơn tới 50% so với thực tế bởi các nhà đầu cơ thổi
phồng giá kỳ hạn lên, góp phần gây ra “bong bóng” trên thị trường hàng hố tồn cầu.
Arabica kỳ hạn đã tăng giá gấp hơn 2 lần trong năm vừa qua. Ông Illy cho biết giá cà
phê sẽ “hợp lý hơn” nếu ở mức khoảng 1,80 – 2,20 USD/lb. Theo ơng, giá có thể giảm
xuống chỉ 1,50 USD/lb khi sản lượng tăng kéo dự trữ tăng trên toàn cầu.
Giá cà phê kỳ hạn tại New York đã tăng lên mức 2,9665 USD/lb vào ngày 9/3/2011,
mức cao chưa từng có kể từ tháng 5/1997, và tăng gấp hơn 2 lần trong năm vừa qua do
lo ngại nhu cầu sẽ vượt cung trên thị trường thế giới, khi mà thời tiết ở Mỹ Latinh có
nhiều bất ổn. Nông dân ở Brazil và nhiều nước sản xuất khác có thể sẽ nỗ lực đẩy tăng
sản lượng để tranh thủ lúc giá cao.
Ông Illy cho rằng “chúng ta đang trong giai đoạn “bong bóng” với tất cả các hàng hố,
mà bong bóng thì tất yếu sẽ vỡ”. Ơng dự báo sản lượng cà phê tồn cầu có thể tăng
10% trong niên vụ tới, được khích lệ bởi giá cao trong vụ này. Trong khi đó, nhu cầu
tiêu dùng có thể giảm khoảng 1% trong năm nay sau khi giảm 1,5% trong năm 2010
do giá cao.
Ông cho biết thêm rằng Illycaffe có thể chuyển phần chi phí tăng sang người tiêu dùng
trong năm nay, sau khi đã tăng giá 10% trong năm vừa qua. Việc tăng giá có thể sẽ bắt
đầu từ tháng 6, tháng 7 hoặc tháng 8, khi công ty mua cà phê từ người sản xuất. Cà
phê Brazil chiếm một nửa tổng lượng pha trộn của công ty.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 đã tăng 5,05 US cent hay 1,9% vào lúc đóng cửa
phiên giao dịch cuối tuần qua, chốt ở mức 2,7205 USD/lb tại New York, trong khi


robusta cùng kỳ hạn tăng 117 USD hay 4,7% lên 2.604 USD/tấn tại London, sua khi
đạt mức cao kỷ lục từ 13/3/2008 là 2.615 USD/tấn.
Biểu đồ giá cà phê ở New York

Biểu đồ giá cà phê Robusta


b/ Các sàn giao dịch CKPS về café trên thế giới
Ngày nay hợp đồng phái sinh là một kênh quản trị rủi ro và đầu cơ rất được ưa chuộng
trên thế giới. Hợp đồng phái sinh được phát triển cho rất nhiều sản phẩm khác nhau.
Nơng sản trong đó có cà phê là một trong những sản phẩm lâu đời nhất và hiện nay
vẫn đóng vai trị to lớn trong quy mơ hợp đồng của nhiều sàn giao dịch lớn trên thế


giới. Có rất nhiều sàn như Liffe, NYBOT, CBOT, BM&FF của Brazil, TGE của Nhật,
SICOM của Singapore,….
Sàn giao dịch Liffe
Liffe là chữ viết tắt của London International Financial & Futures Exchange. Được
thành lập vào năm 1984 cung cấp các hợp đồng tương lai và quyền chọn kết hợp với
lãi suất ngắn hạn. Đến cuối năm 1996, Liffe là sàn giao dịch lớn nhất London. Liffe là
sàn giao dịch cà phê Robusta thuộc mảng giao dịch phái sinh của Euronext, ngoài đơn
vị thành viên Liffe tại London Euronext cịn có sàn giao dịch tại Amsterdam, Brussels,
Lisbon và Paris.
Từ năm 2000, sau khi phát triển mạng giao dịch điện tử Liffe Connect, khối lượng
giao dịch tại Liffe tăng gấp đôi. Tạo cơ hội cho các thành phần được tiếp cận thị
trường vào bất cứ lúc nào với tốc độ nhanh nhất. Sau đó vào tháng 04/2007, Euronext
lại được NYSE-New York Stock Exchange – Sở giao dịch chứng khoán New York
mua lại và gần đây nhất là vào tháng 11/2003 vừa qua, NYSE Euronext lại được ICEIntercontinentalExchange của Hoa Kỳ mua lại.
Khối lượng giao dịch trung bình của cà phê trên sàn Liffe khoảng 12-13 ngàn lot/ngày.
Lượng hợp đồng mở giao dịch đạt mức 140-180 ngàn lot tương đương khoảng 700900 ngàn tấn cà phê.
Các quy định khi giao dịch trên sàn Liffe:
Đơn vị giao dịch

Lot (5 tấn)

Giá


USD/tấn

Giới hạn biến động giá tối thiểu

1USD/tấn

Giới hạn biến động giá tối đa

Khơng có

Tháng giao dịch HĐPS

1 3 5 7 9 11

Ký hiệu

F H K N U X

Giờ giao dịch

9:00 – 17:30 (tại London)

Ngày thông báo đầu tiên

Ngày đầu tiên của tháng giao dịch gần
nhất

Ngày thông báo cuối cùng

Ngày cuối cùng của tháng giao dịch

gần nhất

Thời gian giao dịch cuối cùng

12:30 của ngày giao dịch cuối cùng
của tháng giao hàng

Địa điểm thanh toán bù trừ

ICEU

Điều khoản về chất lượng

Cà phê Robusta loại 1 được bán theo


giá của hợp đồng. Các loại có chất
lượng khác có thể bán với giá cao hơn
hoặc giảm giá so với giá trong hợp
đồng.

Sàn giao dịch NYBOT

Customer

Market
services

Bclear


Sale
account/

Manager
Ms service desk, Technology Partnership, Customer
Technical Support Group, Marker Operation, LCH
Cleanet, Membership, Product Management, Statistics.

Biểu đồ: Customer Services – Contact Details sàn giao dịch NYBOT
Sàn giao dịch NYBOT là một trong những sàn giao dịch lớn và lâu đời nhất trên thế
giới. Tiền thân của NYBOT là sự ra đời của NYCE (The NewYork Cotton Exchange)
vào năm 1870. Các hợp đồng Bông lần đầu tiên được giao dịch. Năm 1882, các hợp
đồng tương lai cà phê chính thức được đi vào hoạt động trên sàn này. Đến năm 1977,
sàn giao dịch Cà phê và Đường đổi tên thành sàn giao dịch Cà phê, Đường và Cocoa –
CSCE (Coffee Sugar and Cocoa Exchange, Inc). Từ năm 1982 đến 1986, các sản phẩm
quyền chọn các mặt hàng trên lần lượt được đưa vào sàn giao dịch. Năm 1998, hai sàn
CSCE và NYCE gộp thành sàn giao dịch NewYork. Năm 2004, CSCE và NYCE chính
thức hợp nhất thành sàn giao dịch NewYork (NYBOT). Đến nay, NYBOT vẫn duy trì
phương thức giao dịch truyền thống thơng qua các tín hiệu và cử chỉ của các nhà môi
giới trên sàn. Giao dịch sẽ được các bên tham gia xác nhận bằng văn bản hoặc thông


qua hệ thống đặt lệnh điện tử. Sản phẩm của cà phê giao dịch trên NYBOT là cà phê
Arabica. Dự trữ khoảng trên 3,5 triệu bao khoảng 21 triệu tấn.
Có hai loại hợp đồng giao sau được giao dịch đó là: hợp đồng C và hợp đồng mini C.
Mỗi hợp đồng C được kí tự bởi kí hiệu “KC” tượng trưng cho 37.500 lbs (khoảng 250
bao) được chứng nhận cho sản phẩm cà phê Arabica cho một số nước trong vùng trung
tâm Nam Mỹ châu Á và các nước Châu Phi. Hợp đồng có giới hạn biến động giá tối
thiểu là 0.05 cent/ lb ước lượng giá trị là 18.75 USD/ hợp đồng. Tại mức giá 70 cent/lb
một hợp đồng sẽ có mức giá cao nhất là: 26,25 USD. Hợp đồng mini C có khối lượng

bằng 1/3 hợp đồng C. Hợp đồng mini C được thiết kế để các nhà sản xuất, bán lẻ và
các nhà đầu tư có quy mô nhỏ dễ dàng tham gia thị trường. Hợp đồng mini C có nhiều
đặc điểm giống hợp đồng C. Chỉ khác biệt về kích thước và hình thức thanh tốn. Một
hợp đồng mini C cho cà phê Arabica khoảng 12.500 lb giá trị khoảng 18.75 USD/ hợp
đồng. Tháng giao hàng của hợp đồng mini C được liên kết với tháng giao hàng của
hợp đồng C cho mục đích thanh tốn cuối cùng. Mini C tháng 2,3,4,5,6,7 đến tháng
giao hàng nếu khơng đóng trạng thái sẽ xảy ra giao hàng thật đối với hợp đồng C,
nhưng với hợp đồng mini C kết thúc hợp đồng sẽ chỉ thanh toán khoản chênh lệch
bằng tiền mặt.
Đơn vị giao dịch

C: 37500 lbs (250 bao)
Mini C: 12.500 lbs

Giá

US cent/lb

Giới hạn biến động giá tối thiểu

0.05 cent/lb

Tháng giao dịch

C:

Kí hiệu

3


5

7

9

12

H

K N

U

Z

2

4

8

11

HĐPS

Mini C:

6


Giờ giao dịch

9:15 – 18:30 (tại London)

Ngày thông báo đầu tiên

7 ngày (trừ ngày nghỉ) trước tháng
giao dịch gần nhất

Ngày thông báo cuối cùng

7 ngày (trừ ngày nghỉ) trước tháng
giao dịch gần nhất

Thời gian giao dịch cuối cùng

1 ngày trước ngày thông báo cuối
cùng

Địa điểm thanh toán bù trừ

ICUS

Điều khoản về chất lượng

Sở giao dịch sử dụng loại cà phê nào
để thiết lập là loại "cơ sở " . Coffees


được đánh giá tốt hơn sẽ bán ở mức

giá cao hơn và ngược lại.

c/ Kinh nghiệm sử dụng ckps trong lĩnh vực café ở 1 số nước
• Brazil
Trong số các nước sản xuất cà phê, Brazil là nước duy nhất thiết lập thành cơng cho
mình 1 sở giao dịch hợp đồng tương lai. Sở giao dịch Bolsa de Mercadorias & Futuros
(BM&F) được thành lập năm 1985. Nhờ hệ thống Globex, sở được kết nối với những
sàn giao dịch ở Mỹ; điều này giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài phịng vệ việc mua
bán cà phê ở Brazil thực có thể sử dụng hợp đồng tương lai của BM&F để phịng vệ,
do đó tránh được rủi ro cơ sở so với khi phịng vệ trên các sàn hàng hóa khác. Khối
lượng hợp đồng tương lai (contract size) là 100 bao 60kg giúp cho hợp đồng dễ dàng
tiếp cận với những nông dân sản xuất. Hiện nay, trên sàn BM&F, những hợp đồng
tương lai mini với khối lượng 10 bao (60kg/bao) đã được cung cấp nhằm giúp những
người trồng cà phê nhỏ tham gia phịng vệ.
Sở có quy định riêng về chất lượng cà phê, ngày giao hàng và đồng USD được sử
dụng để yết giá hợp đồng tương lai. Hợp đồng quyền chọn trên hợp đồng tương lai
cũng được giao dịch. Với quyền chọn bán, người giữ quyền có thể quyết định bán và
người bán quyền phải mua trong vị thế đối ứng của hợp đồng tương lai. Người mua
quyền chọn mua có thể thực hiện mua cà phê và người bán quyền chọn bán phải bán
hợp đồng tương lai.
Được thiết kế dễ tiếp cận với nông dấn sản xuất, hợp đồng tương lai hay quyền chọn
được giao dịch trực tiếp với những người dân trồng cà phê. Liên kết với sàn giao dịch
trên thế giới, đây cũng là địa điểm giao dịch để phòng vệ rủi ro hiệu quả cho các hãng
rang xay sử dụng nguyên liệu đầu vào là cà phê Arabica. Năm 2008, gần 80 triệu bao
cà phê được giao dịch qua 838.090 hợp đồng, 5831 hợp đồng tương lai đã được giao
dịch. Năm 2009, 596.435 hợp đồng tương lai và 5155 hợp đồng quyền chọn cà phê
Arabica được giao dịch trên sàn. Nhà đầu tư giao kết 640.754 hợp đồng tương lai và
17453 hợp đồng quyền chọn vào năm 2010.
• Mexico
Vào những năm 1992-1993, Aserca (Apoyosy Servicios a la commercialization

Agropecian) 1 tổ chức thuộc chính phủ, thực hiện cung cấp các hợp đồng quyền chọn
mua và bán cho hàng hóa. Năm 1999, hợp đồng quyền chọn bán cà phê được cung
cấp. Theo đó nơng dân sẽ mua hợp đồng quyền chọn bán từ các cơ sở địa phương của
Aserca và sau đó tổ chức này sẽ thực hiện mua bán hợp đồng quyền chọn trên sàn cho
phù hợp. Nguyên tắc cảu giao dịch này là hiểu được là Aserca sẽ tập hợp rủi ro của các
nông dân và thực hiện phòng vệ.
Nhưng sau một số vấn đề, người dân trồng cà phê từ chối tham gia chương trình của
chính phủ về thực hiện tự phịng vệ. Hơn 60 nông dân trồng cà phê nhỏ gần thị trấn
Cuetzalan đã dồn tiền mua hợp đồng quyền chọn để phòng vệ cho việc sản xuất của


họ, khoảng 6900 (60kg) cà phê 1 năm. Khi phòng vệ, những hợp tác xã xuất khẩu cà
phê chế biến trực tiếp với Nhật Bản, Châu Âu, Mỹ tự dự đoán ố lượng và chốt mức giá
mong muốn để sau đó bán ra trên sàn ICE.
Khi vụ mùa qua đi, nếu họ vẫn còn hàng tồn kho hoặc mua quá nhiều hơn dự tính,
nơng dân có thể mua quyền chọn bán trong trường hợp dự báo giá giảm. Để tham gia
vào thị trường bị khống chế bởi các quỹ đầu tư lớn, những nhà đầu cơ và nhà nhập
khẩu quốc gia, nông dân đã được đào tạo bởi 1 công ty chuyên để về chứng khoán phái
sinh GAMAA trong hơn 1 năm. Khi đó, cơng ty sẽ tham gia thị trường thay măt các
hợp tác xã để lấy phí. Ngồi ra còn tham gia phòng vệ sự giảm giá của đồng Peso
Mexico, cũng như kiếm lời bằng đồng USD để trả phí bằng tiền Peso. Với sự giúp đỡ
của GAMAA, hợp tác xã đã tránh được những khủng hoảng giảm giá năm 2009. Họ
đã phòng vệ ở mức 150 USD/100 Ib và an toàn khi giảm xuống 115USD.
2/ Việt Nam
a/Tổng quan về thị trường cà phê Việt Nam
• Cà phê Việt Nam trên thế giới:
Năm 1997, Việt Nam vượt qua Indonesia để trở thành quốc gia xuất khẩu cà phê đứng
thứ ba thế giới. Vào năm 2000, với 734.000 tấn cà phê xuất khẩu, Việt Nam tiếp tục
vượt qua Colombia để chắc chân ở vị trí thứ hai thế giới. Vị trí này được duy trì kể từ
đó đến nay.

Xuất khẩu cà phê nhân hàng năm luôn đạt mức tăng trưởng cao. Năm 2011, kim ngạch
xuất khẩu là 1,25 triệu tấn, trị giá 2,75 tỷ đô la, tăng 3,2% về lượng và 48,7% về giá trị
so với năm 2010. Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu là 1,73 triệu tấn, 3,67 tỷ đô la, tăng
37,8% về lượng và 33,4% về giá trị so với năm 2011.
Tuy chiếm gần 30% khối lượng cà phê nhân giao dịch toàn cầu, nhưng giá trị kim
ngạch mới chỉ chiếm 10% trong tổng giá trị thương mại 35 tỷ USD của cà phê nhân
thế giới.
(số liệu năm 2013)
• Tình hình tiêu thụ cà phê trong nước:
Thị trường bán lẻ cà phê Việt Nam đã đạt 127,33 triệu USD trong năm 2008 và tăng
lên khoảng 287,34 triệu USD năm 2012. Mintel dự đoán sẽ tăng đến 573,75 triệu USD
vào năm 2016.
Thị trường cà phê Việt Nam được chia thành 2 phân khúc rõ ràng. Cà phê rang xay (cà
phê phin) chiếm khoảng 2/3 lượng cà phê được tiêu thụ; còn lại là cà phê hòa tan.
Theo nghiên cứu của Học viện Marketing Ứng dụng I.A.M về thói quen sử dụng cà
phê, 65% người tiêu dùng có sử dụng cà phê Việt Nam uống cà phê 7 lần/tuần,
nghiêng về nam giới (59%). Riêng cà phê hịa tan có 21% người tiêu dùng sử dụng cà
phê hòa tan từ 3 đến 4 lần trong tuần, nghiêng về nhóm người tiêu dùng là nữ (52%).
Sức tiêu thụ cà phê Việt Nam còn khá thấp Việt Nam sử dụng chừng 5% cà phê thơ để
chế biến, trong khi đó tỷ lệ này của Brazil là 50%. Việt Nam có 5 nhãn hiệu cà phê hịa
tan, Brazil có 20 nhãn hiệu. Về cà phê rang xay, thì Việt Nam có 20 nhãn hiệu, trong
khi đó số lượng của Brazil là 3.000 nhãn hiệu.
Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu cà phê nhân ở Việt Nam
• Về xuất khẩu:
Doanh nghiệp xuất khẩu cà phê


Việt Nam có 153 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cà phê, trong khi chỉ có 20 cơng ty
nước ngồi thu mua và cung cấp cho 8 nhà rang xay lớn của thế giới.
Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê FDI

Niên vụ 2011- 2012: tổng số sản lượng thu mua của các doanh nghiệp FDI bằng 45%
sản lượng của cả niên vụ, trong đó hàng năm lượng thu mua của các doanh nghiệp FDI
thu như Nestlé chiếm 15% (khoảng 250.000 tấn), Nedcoffee chiếm 9% (khoảng
150.000 tấn). Ở Gia Lai, chỉ riêng chi nhánh Công ty TNHH Louis Dreyfus
Commodities đã chiếm hơn 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả tỉnh trong
năm 2012.
Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nhân trong nước
Năm 2010: tập đoàn Intimex chỉ xếp vị thứ 2 trong các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê
nhân lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch vào khoảng 142.134 tấn (13.59% kim
ngạch xuất khẩu cà phê cả nước), đứng vị trí đầu tiên là Tổng cơng ty cà phê Việt Nam
với kim ngạch 177.902 tấn (16.46% kim ngạch xuất khẩu cả nước) và tập đồn Thái
Hịa xếp vị trí thứ 2 với kim ngạch xuất khẩu là 82.951 tấn (7.93% kim ngạch xuất
khẩu cà phê cả nước).
Nhưng đến niên vụ 2011-2012, Tập đồn Intimex xếp vị trí đứng đầu trong các doanh
nghiệp xuất khẩu cà phê với kim ngạch xuất khẩu là 360.000 tấn (chiếm 21% kim
ngạch xuất khẩu cả nước), Tổng cơng ty Tín Nghĩa Đồng Nai xuất khẩu khoảng
127.000 tấn xếp vị trí thứ 5 (chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu cả nước).
Chỉ trong vòng 2 năm từ năm 2010 đến 2012 trong số 153 doanh nghiệp xuất khẩu cà
phê hiện nay, chỉ 30 doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có lượng hàng xuất khẩu hàng năm
tương đối lớn và ổn định; còn lại đều là các doanh nghiệp thương mại, khơng có chân
hàng dự trữ, nên thua lỗ liên miên. Ngoài nguyên nhân những doanh nghiệp xuất khẩu
có vốn điều lệ nhỏ khơng cạnh tranh thu mua cà phê được với các doanh nghiệp FDI
thì cịn có các ngun nhân khác từ chính việc điều hành, quản lý nguồn vốn không
chuyên nghiệp của các doanh nghiệp gây ra. Điển hình là tình trạng thua lỗ của 2 công
ty là Tổng công ty cà phê Việt Nam và Tập đồn Thái Hịa.
Về xuất khẩu cà phê rang xay và hịa tan:
Theo số liệu của Bộ nơng nghiệp Hoa Kì (USDA) lượng cà phê hịa tan xuất khẩu của
Việt Nam niên vụ 2011-2012 là 21.600 tấn.
Năm 2012: Trung Nguyên doanh thu từ việc xuất khẩu cà phê sang thị trường Trung
Quốc là 50 triệu đô la.

Doanh thu xuất khẩu cà phê hòa tan của Vinacafé Biên Hòa chiếm 8-10% doanh thu
hằng năm chủ yếu tập trung ở 2 thị trường Mỹ chiếm 85% thị phần xuất khẩu và cịn
Hồng Kơng, Đài Loan, Trung Quốc chiếm 15%.
Về cà phê nhân:
Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nhân
của Việt Nam. Tổng tiêu thụ robusta ở Mỹ đã tăng 7% trong năm 2012, sau khi tăng
3,9% trong năm 2011 và 3,6% năm 2010 (theo StudyLogic). Trong khi đó, nhu cầu các
sản phẩm từ Arabica chỉ tăng 1,9% trong năm 2012, sau khi tăng 4,1% năm 2011 và
5,4% năm 2010.
Trung Quốc cũng sẽ là thị trường nhập khẩu tiềm năng. Việt Nam cung cấp khoảng
90% tổng lượng cà phê Trung Quốc nhập khẩu từ các nước ASEAN trong khoảng từ
năm 2002-2011.


Việt Nam sẽ tăng diện tích và sản lượng cà phê bền vững bởi các công ty rang xay lớn
nhất thế giới như Nestlé, Starbucks, D.E Master Blenders 1753, Kraft Food Group,
Tchibo đồng thời lên tiếng về việc sẽ tăng tỉ lệ cà phê bền vững trong nguyên liệu sản
xuất của họ (theo Coffee in the United States: Sustainability Trends).
Về cà phê hòa tan và rang xay:
Thị trường cà phê hòa tan và rang xay của Việt Nam vẫn đang hấp dẫn đối với các
doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ các nhà máy của Nestlé, Vinacafé Biên Hòa, Trung
Nguyên đều đã hoạt động hết công suất và họ đều đang mở rộng qui mô sản xuất lên
và việc mới đây ngày 28/4 công ty cà phê Ngon của Ấn Độ vừa mới khánh thành nhà
máy chuyên sản xuất cà phê hịa tan lớn nhất Châu Á tại cụm Cơng Nghiệp huyện Cư
Kuin, Đắk Lắk với công suất 10.000 tấn/năm.
Tuy Việt Nam có rất nhiều loại cà phê hịa tan nhưng chủ yếu là cà phê truyền thống.
Trong tương lai với sự tham gia của nhiều thương hiệu cà phê đặc biệt (Starbucks đã
mở cửa hàng cà phê đầu tiên tại Việt Nam) thị trường sẽ phân chia lại và định hình rõ
ràng hơn 2 loại cà phê đại trà và cà phê đặc biệt.
Vinacafé Biên Hịa dự đốn sẽ có những hành động để tăng thị phần cà phê rang xay

cho mình với doanh thu của cà phê rang xay hiện nay của công ty ở khoảng 10-12 tỷ
đồng. chiếm chưa tới 1% doanh thu.
Về cà phê Ready-To-Drink:
Nếu Illy đưa dòng sản phẩm Illy Issimo và Starbucks đưa các dòng sản phẩm như
Capuccino RTD, Frappuccino RTD về Việt Nam thì có lẽ Trung Ngun và Vinacafé
Biên Hịa sẽ phải nghiên cứu và hợp tác với một công ty sản xuất nước giải khát nào
đó như “Tân Hiệp Phát” để ra mắt dịng sản phẩm RTD cho mình.
b/Thực tế ứng dụng CKPS ở Việt Nam
• Cơ sở pháp lý:
- Nhu cầu thực tiễn: Tại Việt Nam, các công cụ phái sinh có nguồn gốc từ tiền tệ, hàng
hóa đã được sử dụng từ nhiều năm nay. Về phái sinh hàng hóa, trung tâm giao dịch cà
phê Bn Mê Thuột đã được thành lập năm 2006 với chức năng chính là tổ chức việc
mua bán các loại cà phê sản xuất tại Việt Nam theo phương thức giao ngay và giao sau
(giao dịch kỳ hạn). Đến nay thì việc sử dụng các công cụ phái sinh tiền tệ đã được mở
rộng cho nhiều ngân hàng thương mại trong nước và nước ngồi, với đa dạng các cơng
cụ như: hốn đổi, quyền chọn, các sản phẩm kỳ hạn…
Thực tiễn đã chứng minh một điều là nhu cầu giao dịch các chứng khoán phái sinh là
có thực. Sau q trình 12 năm hình thành và phát triển, bên cạnh các “sản phẩm truyền
thống” như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ… đã đến lúc thị trường cần mở rộng
thêm các sản phẩm mới, đa dạng hơn, hấp dẫn hơn như các chứng khoán phái sinh.
- Khung pháp lý của thị trường chứng khoán phái sinh:
Khung pháp lý cho TTCK phái sinh hoạt động, vừa chính thức định hình khi Chính
phủ ban hành Nghị định 42/2015/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/7/2015.
heo đó, khi triển khai TTCK phái sinh, trước mắt sẽ đưa vào giao dịch các chứng
khốn phái sinh đã được chuẩn hóa để niêm yết, các sản phẩm đơn giản, dễ sử dụng
với mục đích phịng ngừa rủi ro là chính như: hợp đồng tương lai chỉ số, dùng để
phòng ngừa rủi ro cho danh mục cổ phiếu; hợp đồng tương lai trái phiếu, dùng để
phòng ngừa rủi ro cho danh mục trái phiếu. Việc triển khai các chứng khoán phái sinh
niêm yết khác dựa trên chứng khoán, sẽ được Bộ Tài chính hướng dẫn theo lộ trình tại



Đề án phát triển TTCK phái sinh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kèm theo
Quyết định 366/2014/QĐ-TTg ngày 11/3/2014. Để tạo sự linh hoạt trong phát triển các
sản phẩm mới cho TTCK phái sinh theo nguyên tắc thận trọng, Nghị định về TTCK
phái sinh xác định rõ nguyên tắc: Tùy thuộc vào trình độ phát triển của TTCK, cũng
như nhu cầu của nền kinh tế, Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định việc triển khai các
sản phẩm mới, dựa trên các tài sản cơ sở khác phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo thông lệ quốc tế, trên TTCK phái sinh tập trung do Sở Giao dịch chứng khoán
đứng ra tổ chức có 3 loại sản phẩm phái sinh chủ yếu được giao dịch gồm: hợp đồng
tương lai, hợp đồng quyền chọn và một số hợp đồng kỳ hạn trên trái phiếu chính phủ
và tín phiếu kho bạc nhà nước. Trên TTCK phái sinh phi tập trung (thị trường OTC)
cũng có 3 loại phái sinh chủ yếu là: hợp đồng quyền chọn không niêm yết, hợp đồng
kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi.
Nếu như TTCK cơ sở (thị trường hiện tại) giúp nhà đầu tư kiếm lợi nhuận, thì với chức
năng chính là phịng ngừa rủi ro, TTCK phái sinh chủ yếu sẽ hỗ trợ nhà đầu tư bảo vệ
những lợi nhuận đã kiếm được. Các chứng khoán phái sinh, tuy được sử dụng để
phòng ngừa rủi ro, nhưng bản thân chúng lại tiềm ẩn rủi ro nếu nhà đầu tư không quản
lý tốt các hoạt động đầu tư. Do đó, để giảm thiểu rủi ro, các thành viên tham gia thị
trường, nhất là các đơn vị trung gian cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cho thị trường
như cơng ty chứng khốn, phải đáp ứng các chuẩn rất cao về vốn, công nghệ, quản trị
rủi ro, đội ngũ nhân sự…
Theo Quyết định 366/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì hết năm 2015 sẽ tập trung
xây dựng khung pháp lý, hồn thiện hạ tầng cơng nghệ giao dịch, thanh toán bù trừ
chứng khoán phái sinh… để giai đoạn 2016-2020 đưa TTCK phái sinh vào vận hành.
Để đưa TTCK phái sinh vào vận hành, một khối lượng công việc rất lớn đang đặt ra:
xây dựng hệ thống công nghệ giao dịch, thanh toán, bù trừ, đến đào tạo nhân sự, xây
dựng hệ thống quy trình, quy chế, đảm bảo vận hành TTCK phái sinh hiệu quả trong
thời gian tới. Là thị trường đi sau, yêu cầu rất quan trọng đặt ra đối với tổ chức vận
hành TTCK phái sinh tại Việt Nam là không lặp lại những bài học thất bại trong quản
lý TTCK phái sinh đã từng xảy ra ở các quốc gia.

• Thực trạng cung cấp các sản phẩm phái sinh ở Việt Nam
Ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh mới bắt đầu được sử dùng từ đầu những
năm 2000. Tuy nhiên, các nghiệp vụ phái sinh cịn mang tính thí điểm và đơn lẻ. Số
lượng giao dịch của các cơng cụ này cịn hết sức khiêm tốn. Một số tổ chức tín dụng
được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện giao dịch các công cụ phái sinh như:
Cơng cụ tài chính phái
sinh
Quyền chọn lãi suất đối
với các khoản cho vay
hoặc đi vay trung hạn bằng
USD hoặc EUR
Thực hiện nghiệp vụ tiền
gửi kết hợp quyền chọn
tiền tệ
Hoán đổi tiền tệ chéo

Ngân hàng thực hiện

Thời gian thực hiện

BIDV

NH đầu tiên thực
hiện

BIDV
BIDV


Hoán đổi lãi suất kèm theo Vietcombank

điều kiện quyền chọn
Quyền chọn ngoại tệ(ngoại VIB,
Viecombank,
tệ/VNĐ)
ACB,
BIDV,
Techcombank,
MB,
Agribank
Hợp đồng tương lai trên Techcombank
9/2004
thị trường hàng hóa
Quyền chọn mua bán vàng ACB, Agribank, Saigon 10/12/2004
Bank
Nhưng doanh số về hoạt động này vẫn không đáng kể so với doanh số các hoạt động
truyền thống. Như vậy, mặc dù thị trường các cơng cụ tài chính phái sinh đã hình
thành ở Việt Nam, nhưng cịn rất nhỏ bé và chưa phổ biến.
Trên đây là các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối, còn gần đây các công
cụ phái sinh dần bắt đầu được sử dụng trên thị trường hàng hóa (cà phê, cao su, đậu
nành của Techcombank, cà phê của BIDV, ACB. Các công cụ phái sinh để quản trị rủi
ro đối với hàng hóa chủ yếu là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn còn
hợp đồng giao sau và hợp đồng hốn đổi chưa được thực hiện.
• Cơng cụ phái sinh các doanh nghiệp Xuất khẩu cà phê Việt Nam đang áp dụng
+Phương thức hợp đồng tương lai ( FUTURES CONTRACT)
Từ năm 1997 đến nay, có 2 phương thức bán hàng ra nước ngoài đang
được nhiều doanh nghiệp sử dụng đồng thời. Đó là bán theo phương thức Outright (giá
cố định, thời gian giao hàng cố định) và bán theo phương thức Differentials hay Price
To Be Fixed (bán trừ lùi, chốt giá sau). Bán hàng giao ngay (Outright) trong truyền
thống giao thương cà phê thế giới có nghĩa người mua và người bán chốt giá ngay tại
thời điểm ký hợp đồng mua bán mà không cần biết giá cà phê tại thời điểm giao hàng

diễn biến ra sao. Phương thức này được các doanh nghiệp cà phê Việt Nam áp dụng
phổ biến vào đầu những năm 1990, nhưng nếu cả hai bên thoả thuận giá ngay thì việc
họ gặp rủi ro về giá là hồn tồn có thể xảy ra nên sau này phương thức này được thay
thế bằng phương pháp ký hợp đồng nhưng không chốt giá mà khi giao hàng mới chốt
giá bán dựa vào giá cà phê giao dịch trên thị trường London (Anh) và trừ lùi một
khoảng chênh lệch so với giá ở thị trường Luân Đôn vào thời điểm giao hàng, còn gọi
là phương thức bán trừ lùi Differentials). Phương thức bán trừ lùi phổ biến trong hơn
chục năm qua thường áp dụng cho các hợp đồng giao xa mà nhà nhập khẩu thường
ứng trước 70% số tiền của hợp đồng cho nhà xuất khẩu, phần cịn lại được tính tốn
khi giao hàng và chốt giá dựa vào giá cà phê giao dịch trên thị trường kỳ hạn London.
Các năm trước, đây là phương thức bán cà phê tiến bộ so với giao ngay bởi gắn giá cà
phê Việt Nam với giá thế giới, hạn chế thiệt hại so với phương thức giao ngay nếu giá
cà phê thế giới tăng. Với cách thức này doanh nghiệp có thể trúng lớn và cũng có thể
lỗ nặng, tuỳ theo giá thị trường thế giới lên hay xuống ở thời điểm giao hàng. Để bảo
đảm kinh doanh cà phê ở thị trường trong nước khơng bị lỗ trong tình hình giá lên
xuống chập chờn, nhà bn cà phê sẽ mua bán một lượng cà phê trên mạng, đặt lệnh
bán ngay khi thấy giá có lời, đó là hình thức của giao dịch hợp đồng tương lai, trong
đó giá cà phê được "chốt" ngay tại thời điểm đặt lệnh (là thời điểm mà giá cà phê trên
thị trường quốc tế được Doanh nghiệp "ưng ý" nhất), cịn hàng thì giao sau với thời
điểm do hai bên thỏa thuận. Điều quan trọng là, tại thời điểm giao cà phê, giá lên hay
xuống thì vẫn giao theo giá đã được "chốt" lệnh từ trước. Giả sử mua cà phê vào giá
13.000đ/kg, khi xuất khẩu giá rớt còn 12.000đ/kg, bị lỗ 1.000 đồng. Thế nhưng cũng


trong cùng thời điểm đó, cơng ty đã mua vào và bán ra trên thị trường kỳ hạn một
lượng cà phê tương ứng với giá bán ra 15.000đ/kg, lời 2.000đ/kg. Nhờ cân đối được
giữa mua bán trên thị trường trong nước và thị trường kỳ hạn, công ty vẫn bảo đảm có
lãi và tính tốn giá mua cà phê của người nông dân ở mức hợp lý. Và cũng nhờ vào
khoản lãi trên thị trường kỳ hạn, nhà xuất khẩu cà phê sẵn sàng mua cà phê của nông
dân với giá cao hơn giá thị trường. Thực t ế, có thời điểm giá mua vào trên thị trường

trong nước là 14.300đ/kg, Công ty Inexim Đắc Lắc đã mua cà phê của nơng dân giá
15.000đ/kg khi tính tốn bán ra thị trường kỳ hạn được giá trên 18.000đ/kg.
Điểm đặc biệt ở phương thức giao dịch này là các hợp đồng được bên mua
và bán ký trên mạng hoặc qua điện thoại trên cơ sở lịng tin. Thơng tin về giá cà phê
thế giới vừa được gửi về, các quyết định mua bán bắt đầu cũng được đưa ra. Hàng
trăm, thậm chí hàng ngàn cú điện thoại được gọi tới cácdoanh nghiệp thông báo quyết
định bán khi người ta thấy giá cả hợp lý. Một sàn giao dịch điện tử được thiết lập để
người bán và người mua thỏa thuận giá cả và ký hợp đồng. Cà phê sẽ được chuyển
giao ở một thời điểm nào đó mà hai bên thống nhất trong tương lai. Vào thời điểm đó,
giá cà phê có cao hay thấp hơn giá đã thỏa thuận thì hợp đồng vẫn giữ nguyên giá trị.
Cho nên, bên mua và bên bán có thể tính tốn được lỗ lãi ngay khi vừa ra quyết định.
Trong khi mua bán như vậy, cà phê là ảo nhưng lợi nhuận lại thực. Hình thức mua bán
mới mẻ này thực chất là: ký hợp đồng trên mạng và bán cà phê qua điện thoại. Thông
thường, phiên giao dịch sẽ được kết thúc vào nửa đêm. Sau mỗi ngày làm việc như
vậy, các bảng, biểu đồ giá cà phê cũng được xây dựng để các nhà sản xuất cà phê có
thể dự đốn giá trong tương lai.
Ưu thế lớn nhất của giao dịch này là người ta có thể trong tương lai theo
mức giá hiện tại – mức giá mà các doanh nghiệp biết chắc là hợp lý, nhờ thế hạn chế
được những rủi ro, điều này không một phương thức kinh doanh truyền thống nào đạt
được. Ngồi bảo hiểm rủi ro về giá, hình thức này cịn được các cơng ty tham gia
như một kênh đầu tư (mua bán các hợp đồng tương lai nhằm kiếm lợi từ chênh lệch
giá) hoặc sử dụng hợp đồng tương lai như công cụ xác định giá của thị trường hàng
thật. Từ giá bán cà phê futures trên sàn LIFFE có thể tính tốn giá thu mua cà phê
thị trường trên thị trường nội địa sao cho có lãi. Tuy nhiên, buôn bán trên thị trường kỳ
hạn lãi cũng nhiều mà lỗ cũng dữ. Do vậy người kinh doanh phải có điểm dừng lỗ.
Ngồi doanh nghiệp, nơng dân cũng được lợi: Trước đây, nếu giá xuất khẩu lên cao thì
doanh nghiệp mua cà phê của nơng dân giá cao. Cịn giá xuất khẩu rớt thấp thì ép giá
người trồng cà phê. Với hợp đồng tương lai, doanh nghiệp sẵn sàng mua cà phê của
nông dân với giá cao hơn giá thị trường trong nước khi tính tốn bán ra thị trường kỳ
hạn có lời.

Ví dụ: Giá ký hợp đồng xuất khẩu cà phê giao ngay là 915 đô la M ỹ/tấn,
tương đương mua vào của nông dân là 14.000 đồng/kg thì có lãi. Cùng thời điểm đó,
giá London lên 1.095 đô la Mỹ /tấn, giá FOB sẽ là 1.005 đô la Mỹ/tấn (trừ lùi 90 đô la
M ỹ/tấn so với giá London ) như vậy có thể đẩy giá mua cà phê của nông dân lên
15.400 đồng/kg. Rõ ràng, doanh nghiệp nếu đưa ra quyết định mua bán trên LIFFE
được đúng thời điểm giá lên thì sẽ mua được giá cao cho nông dân. M ua bán cà phê
trên thị trường tương lai thật sự là một phương thức hỗ trợ tích cực hoạt động xuất
khẩu cà phê trên thị trường trong nước giúp nhà xuất khẩu cà phê hạn chế rủi ro do giá
biến động, kiểm soát giá cả trong tương lai và cịn có thể kiếm lời.
+Hình thành sàn giao dịch giao sau cà phê phục vụ cho hình thức hợp đồng tương lai
Trong khi ở một số nước sản xuất cà phê lớn, như Brazil, sàn giao dịch cà phê được
đại đa số nông dân trồng cà phê khai thác như phương thức bảo hiểm giá bán, thì ở


Việt Nam hoạt động mua bán cà phê qua sàn giao dịch còn quá xa lạ với người trồng
cà phê. Vị thế ngày càng vững chắc của cây cà phê Việt Nam là một trong những cơ sở
quan trọng để Hiệp hội Cà phê Ca cao (Vicofa) triển khai ý tưởng đưa cà phê Việt
Nam lên sàn giao dịch quốc tế. Việc tổ chức thị trường giao sau ở Đắc Lắc thực tế đã
có mầm mống từ năm 1995. Đắc Lắc là tỉnh đi đầu cả nước về việc tổ chức thị trường
giao sau về cà phê. Các công ty xuất khẩu cà phê và trung tâm thị trường của tỉnh đã tổ
chức mua thông tin về giá cà phê trên các thị trường thế giới của hãng Reuters. Các
thông tin này được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh,
để làm cơ sở cho việc định giá mua bán cà phê tại thành phố Buôn Ma Thuột. Việc làm
này đã giúp cho người nông dân và tiểu thương trong tỉnh phần nào tránh được tình
trạng ép giá Ngay từ tháng 11/2004, Vicofa đã tiến hành xây dựng Trung tâm Giao
dịch cà phê Buôn Ma Thuột BCEC (Buon Ma Thuot Coffee Exchange Center), với
kỳ vọng đây sẽ là nơi đấu giá tập trung, công khai của các DN, tổ chức, cá nhân
kinh doanh cà phê. Hình thức mua bán cà phê qua sàn giao dịch theo các loại hợp đồng
lựa chọn, kỳ hạn, tương lai, chốt giá sau. . . bước đầu đã giúp các DN kinh doanh,
xuất khẩu cà phê Việt Nam có những công cụ bảo hiểm rủi ro về giá hữu hiệu tránh

khỏi tình trạng cà phê được mùa lại rớt giá. Vì vậy, đề án phát triển sàn giao dịch cà
phê chính là một trong những bước nhằm nâng cao giá trị cà phê Việt Nam không chỉ
về chất lượng mà cịn tránh bị đối tác nước ngồi ép giá, hay thua thiệt do khơng nắm
bắt được thơng tin. Chính phủ đã chấp thuận để các Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Ngoại giao, Bộ Công thương và Vicofa xúc tiến triển khai xây dựng Đề
án hợp t ác và chủ động làm việc với Sàn Giao dịch Hàng hoá Chicago về khả năng
đưa sản phẩm cà phê Việt Nam giao dịch tại CME và phát triển sàn giao dịch cà phê
tại Việt Nam, trên cơ sở đó tiến tới mở rộng khả năng hợp tác ra các hàng hố nơng
sản khác. Ngồi ra, việc xây dựng phần mềm giao dịch cho sàn cà phê Buôn Mê Thuột
cũng sẽ được triển khai song song để thay thế cho phương thức đặt lệnh thủ công trên
sàn hiện nay. Trong dự thảo quy chế giao dịch mà BCEC đưa ra gần như khơng khác
gì mấy so với cung cách giao dịch chứng khốn ở sàn chứng khốn TPHCM. Đó là các
thuật ngữ giá tham chiếu, giá mở cửa, giá đóng cửa, biên độ dao động giá, lệnh giới
hạn, lệnh thị trường, lệnh hủy, ngày giao dịch cuối cùng, ký quỹ thành viên, ký quỹ
giao dịch, giao dịch khớp lệnh, giao dịch thỏa thuận, phí giao dịch đóng cho BCEC
và nhiều thuật ngữ khác chẳng khác gì chơi chứng khốn. Tuy nhiên, do đặc thù là
giao dịch hàng hóa nên đơn vị giao dịch của cà phê là theo lô, mỗi lô 5 tấn cà phê.
Loại cà phê giao dịch là cà phê vối (Robusta) quy định cho hạng 2 (R2) của tiêu chuẩn
TCVN 4193-2005, các phẩm cấp khác được cộng thêm hay trừ đi tùy theo từng thời
điểm. Mức ký quỹ giao dịch là 10% giá trị khối lượng hàng hóa. Đ ể tránh trường hợp
thao túng thị trường hay thỏa thuận để làm giá mở cửa, giá đóng cửa, trong thời gian
khớp lệnh định kỳ, mỗi thành viên không được đặt lệnh giao dịch quá 100 lô (500 tấn).
Biên độ dao động giá không vượt quá 8% so với giá tham chiếu. Để tránh lũng đoạn
thị trường, tổng hạn mức giao dịch cà phê của toàn bộ các hợp đồng trong thời hạn
giao dịch không vượt quá 50% tổng khối lượng cà phê được sản xuất ra ở Việt Nam
của ngay năm trước đó dựa t heo số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn. Hạn mức giao dịch của một thành viên không vượt quá 10%


tổng hạn mức được phép giao dịch của toàn thị trường. Khác với mua bán chứng

khoán, giao dịch cà phê vừa có y ếu tố hợp đồng giao ngay và việc chuy ển giao sản
phẩm phải hoàn tất trong năm ngày kể từ ngày giao dịch có kết quả. Cịn các hợp đồng
kỳ hạn phải hoàn tất vào ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của kỳ hạn hợp đồng,
tính từ thời điểm “ngày giao dịch cuối cùng”. Một điểm đáng chú ý là các hợp đồng kỳ
hạn chưa đến hạn thực hiện nhưng việc thanh toán vốn vẫn được thực hiện ngay sau
khi giao dịch được khớp lệnh bằng cách thanh toán bù trừ qua ngân hàng ủy thác.
Nhiều DN hội viên của Vicofa nhận xét rằng cách thức giao dịch ở BCEC, theo dự
thảo, cũng giống với thị trường kỳ hạn London (LIFFE) của Anh và New
York (NYBOT) của Mỹ. Tuy nhiên cũng có điểm khác là BCEC khống chế biên độ giá
giao dịch còn hai sàn LIFFE và N YBOT thì khơng. Như vậy, các thành viên tham gia
giao dịch với BCEC cũng có thể “lướt sóng” giống như chơi chứng khoán, hoặc dùng
giao dịch kỳ hạn (có thanh tốn bù trừ) để phịng chống rủi ro cho giao dịch cà phê
giao ngay. BCEC có ba loại thành viên, bao gồm thành viên kinh doanh, thành viên
môi giới và thành viên quan sát. Thành viên kinh doanh bao gồm cả DN trong và
ngồi nước có hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực cà phê, các nông trường, trang trại,
hợp tác xã, hộ gia đình cá nhân với điều kiện có ít nhất 3 héc ta cà phê trở lên. Thành
viên môi giới là các tổ chức môi giới tài chính, thương mại và mức phí mơi giới được
quy định khơng q 20% mức phí giao dịch mà BCEC thu của các thành viên. Các
thành viên kinh doanh có thể cử người đại diện giao dịch tại sàn. Thành viên quan sát
là những người chưa đủ điều kiện làm thành viên chính thức của BCEC. Tuy nhiên,
thực tế, ý tưởng về những sàn giao dịch mới chỉ dừng lại ở mơ hình chợ đầu mối, nơi
các DN đấu giá, mua bán trực tiếp, được chọn lựa chủng loại hàng hóa một cách thoải
mái hơn. Song tại hầu hết những chợ đầu mối này, khả năng cung cấp các biện pháp
bảo hiểm rủi ro về giá cho DN thông qua các hình thức hợp đồng giao dịch kỳ hạn lại
rất hạn chế. Vì vậy, đến thời điểm hiện nay, tại Việt Nam chỉ có Trung tâm Giao dịch
Cà phê Bn Ma Thuột (BCEC) có thể được xem như một sàn giao dịch nông sản
giao sau, với mặt hàng giao dịch duy nhất là cà phê. N goài việc đấu giá giao ngay,
BCEC cịn cung cấp những cơng cụ hạn chế rủi ro. Trung tâm giao dịch Cà phê Buôn
Ma Thuột (BCEC) - sàn giao dịch cà phê đầu tiên ở VN - đi vào hoạt động từ
tháng 2/2008 đã mang lại vũ khí mới cho người dân Tây Nguy ên. Sàn giao dịch cà

phê Buôn M a Thuột được phép phối hợp với tổ chức môi giới (được Ngân hàng Nhà
nước cho phép) tổ chức giao dịch cà phê với các sàn giao dịch của thế giới (LIFFE - t
hị trường London, NYBOT - New York. . . ) theo phương thức đấu giá tập trung, công
khai gồm giao dịch mua bán giao ngay và giao sau. Hai bên mua - bán sẽ chốt giá theo
giá thị trường quốc tế tại thời điểm giao hàng, bên bán nếu không đủ số lượng sẽ bị
phạt theo thông lệ kinh doanh. Sàn có hai tổ chức ủy thác là Ngân hàng Thương mại
CP Kỹ thương VN (Techcombank) để thanh toán cho các hoạt động giao dịch tại
Trung tâm; Chi nhánh Cty Giám định hàng hóa nơng sản xuất khẩu tại Đăk Lăk (Cà
phêControl) có nhiệm vụ kiểm định chất lượng, phẩm cấp, chủng loại cà phê. Hiệp hội
Cà phê VN cũng sẽ xây dựng cơ chế phối hợp với Trung tâm giao dịch Cà phê Buôn
Ma Thuột, tạo điều kiện cho hộ sản xuất, nhà xuất khẩu có nhiều cơ hội mua bán hàng
cà phê đúng theo giá thị trường chung trên thế giới. Tình đến thời điểm này chúng ta


đang từng bước phát triền và hòan thiện thị trường giao sau, thực hiện các hợp đồng
tương lai đối với cà phê. Theo quy định các tổ chức kinh doanh trong nước muốn trở
thành thành viên của BCEC phải có vốn tự có ít nhất là 5 tỷ đồng, và có 3 năm liên tục
gần nhất có số lượng cà phê xuất khẩu, chế biến hoặc tiêu thụ ít nhất là 5.000 tấn/niên
vụ. Đối với các tổ chức môi giới phải có giấy phép hoạt động mơi giới tài chính,
thương mại và có vốn điều lệ tối thiểu là 3 tỷ đồng, cịn đối với các tổ chức mơi giới
nước ngoài là 2 triệu USD. Các tổ chức, đơn vị không hội đủ các điều kiện để trở
thành thành viên nhưng muốn tham gia giao dịch tại Trung tâm phải được môi giới
thông qua một tổ chức thành viên. Trung tâm có sàn giao dịch nên các tổ chức thành
viên có thể giao dịch trực tiếp tại sàn hoặc giao dịch qua mạng Internet. Thời gian giao
dịch tại trung tâm là 5 phiên/tuần bắt đầu từ 19h30 đến 21h00 theo giờ giao dịch của
thị trường Luân Đôn. Sản phẩm cà phê đăng ký tham gia giao dịch tại trung tâm gồm 2
loại cà phê chính là cà phê Arabica ký hiệu trong giao dịch là A và cà phê Robusta ký
hiệu là R. M ỗi loại cà phê được phân thành 6 thứ hạng từ hạng đặc biệt đến hạng 5 và
loại cà phê nhân xô (hỗn hợp). Sản phẩm cà phê đăng ký giao dịch t ại trung tâm phải
đáp ứng yêu cầu về phẩm cấp theo Quy định của Chính phủ Lâu nay, hầu hết DN xuất

khẩu cà phê VN hằng ngày nhận thông tin qua mạng Reuters, sau đó tính tốn quy ra
tiền Việt Nam và chốt giá. Với phương thức kinh doanh đơn điệu này, các DN VN mới
chỉ bán cà phê ngoài “cổng chợ” cà phê quốc tế chứ chưa vào được trong chợ. Nay với
phương thức mua bán qua sàn giao dịch, chúng ta đang đột phá vào chợ cà phê quốc
tế. Công ty Đầu tư Xuất nhập khẩu Đắk Lắk (Inexim Daklak) là DN đầu tiên tham gia
giao dịch mua bán cà phê trên thị trường kỳ hạn(26/11/2004), để đột phá vào chợ cà
phê quốc tế, một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ với các DN VN. Qua đó, cơng ty đã nắm
được giá cả và quy luật lên xuống của cà phê, linh hoạt đặt giá nên hạn chế được nhiều
rủi ro khi giá cà phê biến động mạnh, đồng thời chủ động được nguồn hàng trong
trường hợp khan hiếm. “Việc theo dõi này rất hiệu quả nhờ tiếp cận nhanh với giá t hị
trường bên ngoài, DN và người trồng cà phê đều có lợi. Khi giá lên như giá hiện nay,
nếu DN thấy có lời, họ quyết định bán hoặc thấy giá thấp thì họ mua vào. Nếu DN đưa
ra quyết định mua bán đúng thời điểm, có lời, thì nông dân cũng được hưởng lợi nhờ
DN thu mua cà phê giá cao”. Mặc dù với hợp đồng tương lai, DN luôn bảo đảm được
một khoản lợi nhuận như dự t ính ban đầu và loại bỏ những biến động giá của thị
trường nhưng trong trường hợp giá tăng cao thì DN cũng khơng được hưởng mức giá
tăng ngồi dự kiến. Điều này là tất nhiên bởi trong kinh doanh, việc sử dụng các sản
phẩm phái sinh để hạn chế rủi ro là việc làm cần thiết đối với mỗi DN, khơng thể phó
mặc tồn bộ rủi ro cho thị trường để có thể thu lãi lớn nhưng cũng có thể thua lỗ lớn.
Việc tạo lập các thị trường hàng hóa tập trung cũng như các phương thức giao dịch gắn
liền
với
nó đã
phát
triển
rất
lâu
trên
thị trường cà phê quốc tế
3/ Phân tích những hạn chế khi sử dụng ckps ở VN

Ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh mới bắt đầu được sử dùng từ đầu những năm
2000. Tuy nhiên, các nghiệp vụ phái sinh cịn mang tính thí điểm và đơn lẻ. Số lượng


giao dịch của các cơng cụ này cịn hết sức khiêm tốn. Một số tổ chức tín dụng được
Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện giao dịch các công cụ phái sinh như:
Hoán đổi lãi suất giữa hai đồng tiền

Chi nhánh ngân hàng Citibak

Hoán đổi lãi suất chéo giữa hai đồng
tiền chéo

Chi nhánh ngân hàng Standard
Chartered

Thực hiện hoán đổi tiền tệ chéo

Ngân hàng Vietcombank

Quyền chọn lãi suất đối với các khoản
cho vay hoặc đi vay trung hạn bằng
USD hoặc EUR

Ngân hàng BIDV

Thực hiện nghiệp vụ tiền gửi kết hợp
quyền chọn tiền tệ

Ngân hàng BIDV


Hoán đổi tiền tệ chéo

Ngân hàng BIDV

Hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện
quyền chọn

Ngân hàng Vietcombank

Hoán đổi lãi suất cộng dồn

Ngân hàng HSBC

Quyền chọn ngoại tệ

Ngân hàng VIB
Ngân hàng Vietcombank
Ngân hàng ACB
Ngân hàng BIDV
Ngân hàng Techcombank
Ngân hàng Mbbank
Ngân hàng Eximbank
Ngân hàng Agribank

Hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện
trong tương lai

Chi nhánh ngân hàng Calyon


Hợp đồng tương lai trên thị trường
hàng hóa

Ngân hàng Techcombank

Thực hiện giao dịch hoán đổi ngoại tệ

Vinasin

Quyền chọn mua bán vàng

Ngân hàng ACB

Chi nhánh ngân hàng Citiank

Ngân hàng Sacombank


Ngân hàng Agribank

Như vậy, mặc dù thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt
Nam, nhưng còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến.
Nguyên nhân của việc hạn chế áp dụng các công cụ phái sinh ở Việt nam hiện nay:
Về phía doanh nghiệp:
- Mức độ tham gia thị trường vốn của các doanh nghiệp chưa lớn, các nhà quản
trị doanh nghiệp chưa có nhu cầu và cũng chưa có hiểu biết nhiều về bản chất của các
loại cơng cụ tài chính phái sinh.
- Các tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại: nguồn nhân lực
hạn chế, hệ thống thông tin quản lý chưa phát triển; đối tác mua, bán công cụ tài chính
phái sinh với các NHTM là các doanh nghiệp lại hạn chế. Do đó, các tổ chức tài chính

cũng chưa có nhu cầu, chưa chủ động phát triển và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ về
công cụ tài chính phái sinh.
-Tư duy kinh doanh truyền thống cịn phổ biến, trong thực tế, những biến động
về tỷ giá, lãi suất được dự báo khá “chắc chắn” và giống nhau giữa các “nhà” có mặt
trên thị thường tài chính và những “sai lệch” dễ dự báo đó được các bên “cân đối”
ngay vào giá của sản phẩm mình như lãi suất, tỷ giá, chứng khoán.
-Thiếu đào tạo thực tế về sản phẩm phái sinh. Đây là thực trạng ở Việt Nam.
Các chuyên gia đào tạo về sản phẩm phái sinh hiện nay cịn q ít, hơn nữa số đơn vị
cung cấp và tham gia giao dịch không bao nhiêu. Chính vì vậy, số chun gia có cơ
hội tiếp cận với thực tiễn ứng dụng sản phẩm phái sinh ở Việt Nam là rất hạn chế.
- Còn nhập nhằng giữa phịng ngừa rủi ro và đầu cơ. Doanh nghiệp khơng nghĩ
rằng sử dụng sản phẩm phái sinh là trả một khoản tiền để mua một giấc ngủ ngon cho
mình, đồng thời chủ động trong các kế hoạch kinh doanh và kiểm sốt được chi phí
của mình trong tương lai. Thay vào đó, họ chỉ mong muốn kiếm đuợc lợi nhuận và
không muốn lỗ (?). Khi mục tiêu chỉ nhằm vào đánh cuộc với biến động giá, thì khi
biến động giá này không đúng như kỳ vọng, các doanh nghiệp lập tức không sử dụng
tiếp các sản phẩm phái sinh nữa (như trường hợp của hợp đồng giao sau cà phê và
quyền chọn vàng, ngoại tệ). Có trường hợp doanh nghiệp ký hợp đồng mua kỳ hạn
xong, thấy biến động bất lợi thì địi hủy hợp đồng. Như vậy doanh nghiệp hiện mới chỉ
nhìn vào lợi nhuận của sản phẩm phái sinh, chứ khơng thấy được lợi ích phịng ngừa
rủi ro mang lại.
- Tâm lý ỷ lại. Chính sách bảo hộ ngầm của Nhà nước như việc để cho tỷ giá
đô la Mỹ/ đồng Việt Nam và lãi suất cơ bản của tiền đồng Việt Nam liên tục ổn định
trong nhiều năm đã khiến cho các doanh nghiệp hồn tồn khơng chú ý đến phòng
ngừa rủi ro giá và lãi suất.
Về phía nhà nước:
- Khn khổ pháp lý: các luật lệ, các chính sách quản lý nhà nước cịn thiếu; cơ
chế nghiệp vụ chưa có. Hiện tại, cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam cũng mới cấp
giấy phép hạn chế cho một số TCTD, một số doanh nghiệp được mua/ bán đối với một
số cơng cụ tài chính phái sinh mà thôi.

- Văn bản pháp quy điều chỉnh áp dụng cơng cụ tài chính phái sinh:


- Điều chỉnh giao dịch kỳ hạn:Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày
25/2/1999
- Điều chỉnh giao dịch hoán đổi ngoại tệ:
+ Quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày 24/12/1997
+ Quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/01 của Thống đốc
NHNN
- Điều chỉnh giao dịch ngoại hối kỳ hạn và hoán đổi: Quyết định số 648/2004:
qui định kỳ hạn của hợp đồng forward và swap
- Điều chỉnh giao dịch quyền chọn ngoại tệ: 1452/2004/QĐ-NHNN của Thống
đốc ngân hàng.
- Điều chỉnh giao dịch hoán đổi lãi suất: Quyết định số 1133/2003/QĐ-NHNN
ngày 30/9/2003 (ban hành kèm theo qui chế).
- Điều chỉnh hốn đổi rủi ro tín dụng: Cơng văn 3324/NHNN-CSTT, tháng 4/
2006.
- Chi phí giao dịch có liên quan để mua/ bán/ giao dịch cơng cụ tài chính phái
sinh cịn cao. Chi phí giao dịch bao gồm:
+ Chi phí tìm kiếm thơng tin;
+ Chi phí thương lượng với đối tác
+ Chi phí để điều chỉnh trạng thái nhằm thích nghi với điều kiện mới
của thị trường và tài thương lượng;
+ Chi phí phát sinh từ những yếu tố bất định và rủi ro về thông tin, thể
chế... (uncertaily cost - chi phí rủi ro khơng dự đốn được);
+ Chi phí ủy quyền tác nghiệp;
+ Chi phí thực hiện và giám sát.
III / Kiến nghị giải pháp tăng cường hiệu quả trong ứng dung chúng khoán phái
sinh
1)

Qui định về giới hạn và giá mua
Qui định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá quá cao hay quá
thấp làm cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác, đây là những qui
định nhằm kiểm soát các nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Việc kết hợp các chiến lược
phòng ngừa rủi ro trong các quyền chọn tiền tệ là rất phong phú, nó cho phép các
doanh nghiệp Việt Nam kết hợp vừa phịng ngừa tỉ giá vừa tiến cơng khi có cơ hội . Dĩ
nhiên là mặt trái của quyền chọn là đầu cơ rất cao. Các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá
lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các quyền chọn mua và bán.
2)
Yêu cầu về vốn và thế chấp trong giao dịch cơng cụ tài chính phái sinh
Khi một cơng ty có những khó khan về mặt tài chính hoặc thậm chí đang cịn hoạt
động rất tốt vẫn phải đưa ra những khoản thế chấp hay các mức duy trì đặt cọc cao để
chắc chắn cơng ty sẽ tuân thủ hợp đồng mỗi khi có biến động cao trong giá. Mức duy


trì có thể là một khoản tối thiểu mà khi tài khoản lý quỹ giảm xuống một mức nào đó
thì cách tham gia hợp đồng bổ sung vào
Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất cao, có
thể lên tới 30% hợp đồng ( so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối với các
nhà môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải đủ vốn, mặc dù họ
chỉ là các ngân hang hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao dịch phái
sinh. Yêu cầu về vốn rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các ngân hang Việt
Nam giảm bớt nguy cơ về động cơ sẵn sang chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất
khả năng thanh tốn của nhà mơi giới
3)
u cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng
phái sinh
Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng hiện nay là
chính phủ chỉ cho phép một số ngân hang làm thí điểm. Có thế nói “ thí điểm” hiện
nay là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong những trường hợp

như thế, giá trị hợp lý của một số hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số
ngân hang, và chắc chắn cao hơn trên thị trường thế giới. Tất cả nhũng bóp méo giá trị
các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người mua gánh chịu. Tác dụng ngược của
các độc quyền là sẽ khơng tồn tại cơng cụ phịng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí
quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư , hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo
hiểm cùng tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gạc lại bằng
cách đầu cơ trên những thị trường bất đầu cơ trên khơng khí bât ổn của giá cả thị
trường
Chính vì vậy cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do để các định chế tài chính có
đủ các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm phái sinh. Bên cạnh đó thiết lập khung
quản lý chung cho các định chế này
4)
Yêu cầu về đăng kí và lập báo cáo tài chính
Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả các thành
viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh phải hiểu
biết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau. Chẳng hạn như một ngân hàng
Việt Nam đồng ý thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng với người mua
tương lai. Trong trường hợp này người mua tương lai cần phải có những thông tin rằng
hiện nay ngân hàng Việt Nam hiện đang ký quỹ là bao nhiêu tại một ngân hàng nước
ngoài để mua vàng thế giới bán lại cho người từ trong nước. Nói cách khác, trong cuộc
chơi này ai cũng phải có thơng tin lẫn nhau, để cuộc chơi tăng them phần minh bạch
và có lơi cho thị trường giao dịch
5)
Hồn thiện những qui định tài chính kế tốn lien quan, nâng cao tính thanh
khoản của sản phẩm phái sinh
Hiện nay, các cơng cụ phái sinh chưa có thị trường giao dịch chính. Các hợp đồng kỳ
hạn và tương lai phải giao dịch trên có sàn nước ngồi như London hay NewYork. Còn
lại là giao dịch qua quầy, nhiều bất lợi đói với tính thanh khoản cũng như các loại rủi
ro tín dụng
Tuy nhiên, đi đơi với việc phát triển thị trường là việc nâng cao chất lượng hàng hóa

cho thị trường. Hàng hóa ở đây là các cơng cụ tài chính phái sinh, từ cơng cụ thuần


×