Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Hoàn thiện công tác kế toán tài chính tại BHXH thành phố Đà Nẵng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.7 KB, 98 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kế toán tài chính là công cụ quản lý, giám sát chặt chẽ, có hiệu quả mọi
hoạt động kinh tế, tài chính, cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, kịp thời,
đáp ứng yêu cầu tổ chức, quản lý điều hành của cơ quan Nhà nước, doanh
nghiệp, tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, không phải các nhà quản lý điều hành
nào cũng thấu hiểu được tầm quan trọng này, đây là một trong những nguyên
nhân dẫn đến hiệu quả kiểm soát kế hoạch chi tiêu chưa cao, sử dụng các
nguồn kinh phí không đúng nội dung, mục đích, để xảy ra gian lận, sai sót,
thất thoát tài sản, BCTC cung cấp thông tin chưa đầy đủ, kịp thời…
BHXH thành phố Đà Nẵng là đơn vị sự nghiệp, trực thuộc BHXH Việt
Nam, với chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH bắt buộc,
BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp (gọi chung là BHXH), BHYT bắt
buộc, BHYT tự nguyện (gọi chung là BHYT) trên địa bàn thành phố theo quy
định của BHXH Việt Nam và quy định của pháp luật. BHXH thành phố Đà
Nẵng chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Tổng giám đốc BHXH Việt
Nam và chịu sự quản lý hành chính Nhà nước trên địa bàn thành phố của
UBND thành phố Đà Nẵng.
Với quy mô đối tượng ngày càng mở rộng theo Luật BHXH và Luật
BHYT, trách nhiệm của BHXH thành phố Đà Nẵng nói riêng và của toàn
ngành BHXH Việt Nam nói chung ngày càng nặng nề. Trong năm 2011, tổng
số thu BHXH, BHYT, BHTN của BHXH thành phố Đà Nẵng là: 1.467 tỷ
đồng, chi BHXH, BHYT, BHTN là: 1.676 tỷ đồng, chi QLBM là: 34,764 tỷ
đồng. So với năm 2010, tất cả các chỉ tiêu đều gia tăng rất lớn (trên 10%), đòi
hỏi công tác kế toán tài chính cần phải có những chuyển biến tích cực để đảm
bảo đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ.
Song song với quy mô phát triển là hoạt động thu - chi tài chính tại



BHXH thành phố Đà Nẵng diễn ra ngày một nhiều hơn với các nội dung thu chi ngày càng đa dạng và phong phú. Mặc dù công tác kế toán tài chính đã
ngày càng được xem trọng nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định, nổi lên
một số vấn đề đáng lưu ý: Báo cáo tài chính chưa phản ánh được số dư tài
khoản tổng hợp, công tác đối chiếu số dư tài khoản tiền gửi với các nguồn
kinh phí và công nợ có liên quan chưa được quan tâm, phần mềm kế toán
chưa được xem trọng công tác phân quyền và khai thác thông tin...
Với những bất cập hiện có, công tác kế toán tài chính tại BHXH thành
phố chưa thật sự là công cụ quản lý hiệu quả hoạt động tài chính tại đơn vị,
thông tin trên báo tài chính chưa phản ánh đầy đủ tình hình tài chính của toàn
ngành. Đến thời điểm hiện tại, chưa có luận văn nào nghiên cứu đánh giá thực
trạng về công tác kế toán tài chính tại BHXH thành phố Đà Nẵng nhằm hoàn
thiện công tác này.
Từ những lý do trên, hoàn thiện công tác kế toán tài chính là yêu cầu
cấp thiết tại BHXH thành phố Đà Nẵng, đó chính là lý do tôi chọn đề tài
‘‘Hoàn thiện công tác kế toán tài chính tại BHXH thành phố Đà Nẵng”
làm luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu thực trạng công tác kế toán tài chính tại BHXH
thành phố Đà Nẵng.
- Trên cơ sở các văn bản quy định của Nhà nước về kế toán tài chính có
liên quan, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán
tài chính tại BHXH thành phố Đà Nẵng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu công tác kế toán tài
chính tại BHXH thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác kế toán tài chính tại BHXH thành phố


3


Đà Nẵng, không bao gồm các BHXH quận, huyện trực thuộc, cụ thể:
+ Nghiên cứu nội dung tổ chức công tác kế toán tài chính tại BHXH
thành phố Đà Nẵng: Tổ chức chứng từ kế toán, tổ chức tài khoản kế toán, tổ
chức sổ kế toán, tổ chức lập BCTC;
+ Nghiên cứu công tác tổ chức lập, chấp hành và quyết toán dự toán chi
NSNN tại BHXH thành phố Đà Nẵng;
+ Nghiên cứu công tác kiểm tra, đối chiếu số dư các tài khoản tiền gửi
với số dư các nguồn kinh phí và công nợ có liên quan tại BHXH thành phố
Đà Nẵng;
+ Nghiên cứu công tác ứng dụng phần mềm kế toán tại BHXH thành
phố Đà Nẵng;
+ Nghiên cứu công tác tự kiểm tra kế toán đối với đơn vị và BHXH
quận, huyện trực thuộc.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích, đánh giá được thực tiễn công tác kế toán tài chính tại
BHXH thành phố Đà Nẵng nhằm xây dựng các giải pháp hoàn thiện công tác
này, luận văn đã sử dụng các phương pháp: hệ thống, phân tích và tổng hợp,
từ đó so sánh và đối chiếu giữa thực tiễn công tác kế toán tài chính tại BHXH
thành phố Đà Nẵng với những qui định của Luật kế toán, Chế độ kế toán
ngành BHXH, những qui định khác của Nhà nước, của Ngành có liên quan
đến công tác kế toán tài chính tại đơn vị.
Ngoài ra, luận văn cũng đã sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp
đối với các người có trách nhiệm tại BHXH thành phố Đà Nẵng:
- Đối với Giám đốc: Thu thập ý kiến nhận xét đánh giá chung về công
tác kế toán tài chính tại đơn vị và quan điểm của Giám đốc trong công tác
này.
- Đối với Trưởng phòng KH-TC: Thu thập thông tin về các vấn đề liên


quan trực tiếp đến công tác kế toán tài chính (công tác phân quyền sử dụng

phần mềm kế toán, công tác bảo mật và an toàn dữ liệu kế toán) và những
thông tin chung về công tác kế toán tài chính tại đơn vị.
- Đối với Kế toán tổng hợp: Thu thập thông tin về việc sử dụng chi tiết
phần mềm kế toán, cách vận hành phần mềm kế toán trong tất cả các chức
năng công việc và những thông tin chi tiết về công tác kế toán tài chính tại
đơn vị.
- Đối với Trưởng phòng TC-HC: Thu thập thông tin về mối liên hệ với
phòng KH-TC về việc theo dõi tiền lương và thanh toán tiền lương tại đơn vị.
Các vấn đề về việc mua sắm TSCĐ.
Nguồn dữ liệu thu thập để phục vụ cho luận văn là các chứng từ, sổ
sách, BCTC của một kỳ kế toán năm 2011 của BHXH thành phố Đà Nẵng,
bao gồm cả số liệu tổng hợp toàn ngành (riêng BCTC là báo cáo năm 2011).
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn kết cấu thành ba
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác kế toán tài chính tại đơn vị sự
nghiệp công lập.
Chương 2: Thực trạng công tác kế toán tài chính tại BHXH thành phố
Đà Nẵng.
Chương 3: Hoàn thiện công tác kế toán tài chính tại BHXH thành phố
Đà Nẵng.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Kế toán tài chính là công cụ rất quan trọng và không thể thiếu được
trong hoạt động kinh tế, tài chính của tất cả các tổ chức kinh tế, sự nghiệp và
quản lý điều hành của Nhà nước. Trong lĩnh vực sự nghiệp công lập, công tác
kế toán tài chính chưa được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Trong phạm


5


vi Đại học Đà Nẵng, một số nghiên cứu liên quan đến công tác này như:
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà Nẵng của Trần Thị Thanh Định
(2011) với đề tài: "Hoàn thiện tổ chức kế toán tại Trường Cao Đẳng Thương
mại". Luận văn này chủ yếu đề cập đến việc hoàn thiện tổ chức kế toán với
một số nội dung còn khuyến khuyết về: Hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống
tài khoản kế toán và cách ghi chép; hệ thống sổ sách kế toán, báo cáo tài
chính; tăng cường ứng dụng CNTT... Ngoài ra luận văn còn có một số kiến
nghị đối với Nhà nước và các cơ quan quản lý về một số vấn đề như: sửa đổi
chế độ kế toán phải kịp thời với tình hình thực tế, phân loại tài khoản trong hệ
thống tài khoản cho phù hợp liên quan đến nhóm tài khoản loại 3-Thanh toán.
- Luận văn Thạc sĩ quản trị kinh doanh, Đại học Đà Nẵng của Đoàn
Nguyên Hồng (2010) với đề tài: "Hoàn thiện công tác kế toán tài chính tại
bệnh viện hữu nghị Việt Nam-Cuba Đồng Hới". Luận văn này về cơ bản đã
phân tích đánh giá một cách tổng hợp về công tác kế toán cũng như công tác
quản lý tài chính tại một đơn vị sự nghiệp công lập, cụ thể là Bệnh viện hữu
nghị Việt Nam-Cu Ba Đồng Hới thuộc lĩnh vực sự nghiệp y tế. Tuy nhiên,
phần mềm kế toán ứng dụng được qui định bởi Bộ tài chính nhưng không
thấy đề cập đến việc vận dụng một cách cụ thể như thế nào để có góc nhìn về
một phần mềm kế toán được sử dụng trong một đơn vị sự nghiệp công lập.
Mỗi luận văn như đã nêu, ở một khía cạnh khác nhau, một mặt nào đó
đã phản ánh cơ bản được ngành, lĩnh vực và đơn vị cụ thể mình đã nghiên
cứu. Tuy nhiên, công tác kế toán tài chính là một nội dung khá rộng, không
chỉ riêng là hoạt động của phòng KH-TC mà liên quan đến các phòng chức
năng khác nhau có liên quan, từ công tác quản lý tài chính đến công tác ứng
dụng CNTT mà cụ thể là phần mềm kế toán... Vì vậy, theo tác giả tìm hiểu về
công tác kế toán tài chính của một ngành, lĩnh vực và đơn vị cụ thể nào đó
cần phải đánh giá được một cách toàn diện và chi tiết mới phản ảnh được hết


yêu cầu, nhiệm vụ của công tác này. Nội dung đề cập đến công tác kế toán tài

chính dưới góc độ chung cho các đơn vị sự nghiệp công lập có thể tham khảo
một cách có chọn lọc và tổng hợp từ các luận văn như đã nêu để áp dụng cụ
thể vào đơn vị mình nghiên cứu.
Trong thực tế, đối với mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều có tính đặc thù
khác nhau, vì vậy công tác kế toán tài chính sẽ có những nét riêng biệt. Đến
thời điểm hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác kế toán tài
chính tại BHXH thành phố Đà Nẵng.
Gắn với mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra là nghiên cứu Thực trạng công
tác kế toán tài chính tại BHXH thành phố Đà Nẵng và đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán tài chính tại BHXH thành phố Đà
Nẵng, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở pháp lý là các qui định của Nhà nước
về công tác kế toán tài chính như Luật NSNN, Luật kế toán, Chế độ kế toán
HCSN, Chế độ kế toán BHXH… và các giáo trình, tài liệu nghiên cứu có liên
quan.
Để hệ thống hóa được cơ sở lý luận của các vấn đề thực tiễn nghiên
cứu, xác định được tài liệu cần lựa chọn, cũng như chọn lọc được những nội
dung cần thiết từ tài liệu đã được chọn, tác giả đã chia hoạt động công tác kế
toán tài chính tại BHXH thành phố Đà Nẵng thành những phần riêng biệt
như: tổ chức chứng từ kế toán, tổ chức tài khoản kế toán, tổ chức sổ kế toán
và tổ chức lập báo cáo tài chính; các nghiệp vụ có liên quan đến công tác kế
toán tài chính, ứng dụng phần mềm kế toán… Sau đó, tiến hành đi vào
nghiên cứu chi tiết đối với từng phần, đối chiếu với cơ sở lý thuyết để thực
hiện cho mục tiêu nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, nguồn tài liệu sử dụng luôn được xác định
là phải có tầm tham khảo đủ rộng để có thể bao quát tổng thể phạm vi của đề
tài; mức độ tham khảo tài liệu phải có chiều sâu, nội dung phải đảm bảo đầy


7


đủ chi tiết đến từng vấn đề cần nghiên cứu, đáp ứng được với yêu cầu của cấp
độ nghiên cứu và nhằm giải quyết được các vấn đề đã đặt ra; nội dung cơ sở
lý luận từ các nguồn tài liệu được chọn lọc chỉ đề cập đến những vấn đề có
liên quan đến việc nghiên cứu; thông tin sử dụng để đánh giá các vấn đề có
tính khách quan, luôn kịp thời, tránh trường hợp bị lạc hậu so với qui định,
thông tin chuyên ngành về BHXH…
Công tác kế toán tài chính tại mỗi ngành, mỗi lĩnh vực trong các đơn vị
sự nghiệp công lập đều có những hoạt động mang tính đặc thù: Đặc thù về
hoạt động tài chính, cung cấp dịch vụ công, mối liên hệ giữa các phòng chức
năng, quan điểm của Lãnh đạo về công tác kế toán tài chính, vấn đề ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác kế toán…, những vấn đề này có ảnh
hưởng rất lớn đến công tác kế toán tài chính tại đơn vị, cũng như khả năng
xảy ra những rủi ro trong hoạt động kế toán tài chính. Vì vậy, nguồn tài liệu
nghiên cứu cũng phải đề cập để hiểu rõ các đơn vị sự nghiệp công lập nói
chung và ngành BHXH nói riêng để có cái nhìn tổng quát cũng như thấy được
những nét khác biệt của ngành nghiên cứu.
Để tiếp cận với các vấn đề khác biệt của ngành BHXH, tác giả đã thông
qua việc thu thập và nghiên cứu chế độ kế toán BHXH, các văn bản liên quan
đến hoạt động tài chính của ngành BHXH, của BHXH thành phố Đà Nẵng,
kết hợp với việc phỏng vấn những người có trách nhiệm của đơn vị, tìm hiểu
mối liên hệ giữa các phòng chức năng, tìm hiểu các phương thức quản lý tài
chính liên quan đến hoạt động kế toán tài chính, đặc biệt chú trọng đến những
hoạt động kế toán tài chính có tính chất rủi ro cao, tìm hiểu việc sử dụng phần
mềm kế toán tại đơn vị.
Nghiên cứu này thực hiện trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang đẩy
mạnh xã hội hóa và đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
lập, trong đó có cải cách cơ chế quản lý tài chính. Đối với ngành BHXH, ngày


20/01/2011 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 04/2011/QĐTTg thay thế cho Quyết định số 41/2007/QĐ-TTg ngày 29/3/2007 về quản lý

tài chính đối với BHXH Việt Nam. Quyết định này nhằm mục đích thực hiện
tốt chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN
cũng như tổ chức thực hiện nhiệm vụ này đảm bảo theo qui định của pháp
luật. Đồng thời đổi mới cơ chế quản lý tài chính và biên chế đối với hoạt động
của BHXH Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác; thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí để tạo điều kiện đầu tư phát triển; tăng thu
nhập, cải thiện đời sống CBCCVC và gắn trách nhiệm với lợi ích của
CBCCVC trong hoạt động nghiệp vụ; trao quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm cho thủ trưởng đơn vị trong sử dụng biên chế và kinh phí quản lý được
giao nhằm thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn, nâng cao hiệu quả
trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện minh bạch và công khai
tài chính theo qui định của pháp luật.
Với một số hạn chế nổi lên trong công tác kế toán tài chính tại BHXH
thành phố Đà Nẵng cần khắc phục, cùng với việc phấn đấu thực hiện tốt các
mục tiêu đặt ra trong cơ chế quản lý tài chính mới của ngành BHXH mà Thủ
tướng chính phủ đã ban hành, nghiên cứu nhằm Hoàn thiện công tác kế toán
tài chính tại BHXH thành phố Đà Nẵng có thể nói là nhu cầu cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay tại BHXH thành phố Đà Nẵng.


9

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN TÀI CHÍNH
TẠI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
CÔNG LẬP
1.1.1 Khái niệm về đơn vị sự nghiệp công lập
Đơn vị sự nghiệp công lập là các tổ chức được cơ quan có thẩm quyền
của Đảng, cơ quan Nhà nước và Tổ chức chính trị - xã hội thành lập và quản

lý theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản, hoạt
động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học, văn hóa,
thể dục thể thao, du lịch, lao động - thương binh và xã hội, thông tin truyền
thông và các lĩnh vực sự nghiệp khác được pháp luật quy định.
Ngoài các đơn vị sự nghiệp công lập, Nhà nước còn khuyến khích phát
triển các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực xã hội
hóa theo quy định của Nhà nước như: Giáo dục - đào tạo, dạy nghề; y tế; văn
hoá; thể dục thể thao; môi trường; xã hội; dân số; gia đình; bảo vệ chăm sóc
trẻ em. Đơn vị sự nghiệp ngoài công lập do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân, nhóm cá nhân hoặc cộng đồng dân cư
thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tự bảo đảm kinh phí hoạt động
bằng vốn ngoài NSNN và hoạt động theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Phân cấp quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập
Phân loại theo phân cấp quản lý tài chính trong cùng một ngành theo hệ
thống ngành dọc từ trên xuống, đơn vị sự nghiệp có 3 loại sau:
- "Đơn vị dự toán cấp I là đơn vị trực tiếp nhận dự toán ngân sách hàng
năm do Thủ tướng Chính phủ hoặc UBND giao. Đơn vị dự toán cấp I thực
hiện phân bổ, giao dự toán ngân sách cho đơn vị cấp dưới trực thuộc" [8, tr.3],
chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc tổ chức, thực hiện công tác kế toán


và quyết toán ngân sách của đơn vị mình và công tác kế toán, quyết toán ngân
sách của các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc theo quy định;
- "Đơn vị dự toán cấp II là đơn vị cấp dưới đơn vị dự toán cấp I, được
đơn vị dự toán cấp I giao dự toán và phân bổ dự toán được giao cho đơn vị dự
toán cấp III (trường hợp được ủy quyền của đơn vị dự toán cấp I)" [8, tr.3],
chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác kế toán và quyết toán ngân sách
của đơn vị mình và công tác kế toán, quyết toán của các đơn vị dự toán cấp
dưới theo quy định;
- "Đơn vị dự toán cấp III là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách, được

đơn vị dự toán cấp I hoặc cấp II giao dự toán ngân sách" [8, tr.3], có trách
nhiệm tổ chức, thực hiện công tác kế toán và quyết toán ngân sách của đơn vị
mình và đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc (nếu có) theo quy định.
"Đơn vị cấp dưới của đơn vị dự toán cấp III được nhận kinh phí để thực
hiện phần công việc cụ thể, khi chi tiêu phải thực hiện công tác kế toán và
quyết toán theo quy định" [8, tr.3]. Đơn vị này chỉ được mở tài khoản giao
dịch ở ngân hàng hoặc kho bạc khi được cơ quan có thẩm quyền cho phép.
1.1.3. Đặc điểm cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập
a. Đặc điểm chung
- Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính trong ṿng 3
năm, sau 3 năm sẽ xem xét phân loại lại cho phù hợp;
- Được xây dựng cơ chế chi tiêu nội bộ làm căn cứ để cán bộ, viên chức
thực hiện sau khi đã tổ chức thảo luận rộng rãi dân chủ, công khai trong đơn
vị và có ý kiến của tổ chức công đoàn đơn vị;
- Mở tài khoản tại KBNN để thực hiện thu, chi qua KBNN đối với các
khoản kinh phí thuộc NSNN theo quy định của Luật NSNN, gồm: Kinh phí
NSNN cấp; các khoản thu, chi phí và lệ phí thuộc NSNN và các khoản khác
của NSNN (nếu có);


11

- Được mở tài khoản tại ngân hàng hoặc KBNN để phản ánh các khoản
thu, chi hoạt động dịch vụ;
- Trích tối thiểu 25% số chênh lệch thu lớn hơn chi (nếu có) để lập Quỹ
phát triển hoạt động sự nghiệp;
- Trả thu nhập tăng thêm (tiền lương tăng thêm) cho NLĐ từ phần kinh
phí tiết kiệm chi, chênh lệch thu lớn hơn chi (nếu có);
- Trích lập quỹ dự phòng ổn định thu nhập, quỹ khen thưởng, quỹ phúc
lợi, mức trích tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công và thu nhập tăng

thêm bình quân thực hiện trong năm.
b. Đặc điểm cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập tự
bảo đảm và tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động
- Nếu có các hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng và nhiệm vụ
được cấp có thẩm quyền giao sẽ được vay vốn của các tổ chức tín dụng, huy
động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu tư mở rộng và nâng cao
chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức hoạt động dịch vụ và tự chịu trách
nhiệm trả nợ vay theo quy định của pháp luật;
- Định mức chi quản lý và chi nghiệp vụ trong quy chế chi tiêu nội bộ
có thể cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quy định;
- Thu nhập tăng thêm được tính theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị
(đối với đơn vị tự đảm bảo chi phí hoạt động) và thu nhập tăng thêm được
tính tối đa không quá 02 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm do
Nhà nước quy định (đối với đơn vị tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động);
- Tạm chi trước thu nhập tăng thêm: Mức tạm chi trước thu nhập tăng
thêm hàng quý tối đa không quá 40% số chênh lệch thu lớn hơn chi đơn vị
xác định được theo quý.


c. Đặc điểm cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập do
NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động
- Định mức chi quản lý và chi nghiệp vụ trong quy chế chi tiêu nội bộ
không được vượt quá mức chi do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định;
- Thu nhập tăng thêm được tính tối đa không quá 01 lần quỹ tiền lương
cấp bậc, chức vụ trong năm do Nhà nước quy định;
- Tạm chi trước thu nhập tăng thêm: Mức tạm chi trước thu nhập tăng
thêm hàng quý tối đa không quá 40% số chênh lệch thu lớn hơn chi đơn vị
xác định được theo quý.
1.1.4. Nguồn thu và nội dung chi hoạt động sự nghiệp

a. Nguồn thu hoạt động sự nghiệp
- Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo quy
định của Nhà nước;
- Thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và khả
năng của đơn vị: Sự nghiệp giáo dục đào tạo; sự nghiệp y tế, đảm bảo xã hội;
sự nghiệp văn hóa thông tin; sự nghiệp thể dục, thể thao; sự nghiệp kinh tế…;
- Lãi được chia từ các hoạt động liên doanh, liên kết, lãi tiền gửi ngân
hàng từ các hoạt động dịch vụ;
- Nguồn vốn viện trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật;
- Nguồn thu khác, gồm:
+ Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng và vốn huy động của cán bộ,
viên chức trong đơn vị;
+ Nguồn vốn tham gia liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
b. Nội dung chi hoạt động sự nghiệp
* Chi thường xuyên:
- Chi hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có


13

thẩm quyền giao, gồm: Tiền lương; tiền công; các khoản phụ cấp lương; các
khoản trích nộp BHXH, BHTN, BHYT, KPCĐ theo quy định hiện hành; dịch
vụ công cộng; văn phòng phẩm; các khoản chi nghiệp vụ; sửa chữa thường
xuyên TSCĐ và các khoản chi khác theo chế độ quy định;
- Chi hoạt động thường xuyên phục vụ cho công tác thu phí và lệ phí,
gồm: Tiền lương; tiền công; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích nộp
BHXH, BHTN, BHYT, KPCĐ theo quy định hiện hành cho số lao động trực
tiếp phục vụ công tác thu phí và lệ phí; các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn;
sửa chữa thường xuyên TSCĐ và các khoản chi khác theo chế độ quy định

phục vụ cho công tác thu phí và lệ phí;
- Chi cho các hoạt động dịch vụ gồm: Tiền lương; tiền công; các khoản
phụ cấp lương; các khoản trích nộp BHXH, BHTN, BHYT, KPCĐ theo quy
định hiện hành; nguyên, nhiên, vật liệu, lao vụ mua ngoài; khấu hao TSCĐ;
sửa chữa TSCĐ; chi trả lãi tiền vay, lãi tiền huy động theo hình thức vay của
cán bộ, viên chức; chi các khoản thuế phải nộp theo quy định của pháp luật và
các khoản chi khác (nếu có).
* Chi không thường xuyên:
- Chi thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Đối với các đơn
vị sự nghiệp công không phải là tổ chức khoa học công nghệ thì đây là nội
dung chi triển khai và thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, cấp
Bộ (Ngành), cấp Nhà nước;
- Chi thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức:
chuẩn hóa cán bộ, bồi dưỡng chuyên môn định kỳ theo kế hoạch của đơn vị...;
- Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia;
- Chi thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng (điều tra, quy


hoạch, khảo sát, nhiệm vụ khác) theo giá hoặc khung giá Nhà nước quy định;
- Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài theo
quy định;
- Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
- Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà nước quy định
(nếu có);
- Chi đầu tư XDCB, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn TSCĐ thực
hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Chi thực hiện các dự án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài;
- Chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết;
- Các khoản chi khác theo quy định (nếu có).
1.1.5. Nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị sự nghiệp công lập về

quản lý NSNN
- Tổ chức lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý, thực
hiện phân bổ dự toán ngân sách được cấp có thẩm quyền giao cho các đơn vị
trực thuộc và điều chỉnh phân bổ dự toán theo thẩm quyền;
- Tổ chức thực hiện dự toán thu, chi ngân sách được giao; nộp đầy đủ,
đúng hạn các khoản phải nộp ngân sách theo quy định của pháp luật; chi đúng
chế độ, đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm; quản lý, sử dụng tài sản
của Nhà nước đối với các đơn vị trực thuộc theo đúng chế độ quy định;
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện thu, chi ngân sách đối với các đơn
vị trực thuộc;
- Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê; báo
cáo, quyết toán ngân sách và công khai ngân sách theo quy định của pháp
luật;


15

- Duyệt quyết toán đối với các đơn vị dự toán cấp dưới.

1.2. CÔNG TÁC KẾ TOÁN TÀI CHÍNH TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ
NGHIỆP CÔNG LẬP
1.2.1. Cơ sở, nguyên tắc và yêu cầu của kế toán tài chính trong các
đơn vị sự nghiệp công lập
a. Cơ sở kế toán trong các đơn vị sự nghiệp công lập
Đối với các doanh nghiệp, việc áp dụng cơ sở kế toán được đề cập tại
chuẩn mực kế toán số 01"Chuẩn mực chung" ban hành kèm theo quyết định
số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và các
chuẩn mực khác có liên quan, đó là cơ sở kế toán dồn tích. Nhà nước chưa qui
định cơ sở kế toán cụ thể đối với các đơn vị sự nghiệp công lập nói riêng và
đơn vị HCSN nói chung. Các cơ sở kế toán hiện nay đang được áp dụng:

- Cơ sở kế toán dồn tích: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của đơn vị
liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí
phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm
thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền [9]. BCTC lập trên cơ
sở dồn tích phản ánh tình hình tài chính của đơn vị trong quá khứ, hiện tại và
tương lai. Thường được áp dụng đối với những đơn vị có qui mô hoạt động
lớn, đặc biệt là hoạt động kinh doanh liên quan đến hàng tồn kho.
- Cơ sở kế toán dựa trên dòng tiền: Là phương pháp kế toán dựa trên
cơ sở Thực thu-Thực chi, “chỉ cho phép ghi nhận các giao dịch khi các giao
dịch này phát sinh bằng tiền” [21]. Thường được áp dụng đối với những đơn
vị có qui mô hoạt động nhỏ, hoạt động chủ yếu dựa vào các luồng tiền vào ra.
b. Yêu cầu và nguyên tắc của kế toán tài chính trong các đơn vị sự
nghiệp công lập


Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mình, khi tổ chức kế toán tài
chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập, cần thực hiện tốt các yêu cầu và
nguyên tắc sau:
- Đảm bảo ghi chép, hạch toán, phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời
các hoạt động kinh tế hàng ngày của đơn vị vào hệ thống chứng từ, sổ sách kế
toán theo đúng chuẩn mực và chế độ kế toán qui định;
- Kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa vụ thu nộp,
thanh toán nợ, kiểm tra việc quản lý sử dụng tài sản, nguồn kinh phí, phát
hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán;
- Thực hiện chế độ kiểm kê tài sản theo đúng quy định nhằm tăng
cường công tác quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản;
- Thực hiện chế độ BCTC thường xuyên và định kỳ, gửi cho các cơ
quan theo đúng quy định;
- Tổ chức công tác kế toán cần bố trí hợp lý về nhân sự, công việc
nhằm tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả chất lượng thông tin phục vụ;

Trong nền kinh tế hội nhập và phát triển thì thông tin kế toán phải dựa
trên những nguyên tắc chung thống nhất nhằm tạo ra sự thống nhất về thông
tin kế toán của các đơn vị trong nền kinh tế và kế toán tài chính đơn vị sự
nghiệp công lập cũng không nằm ngoài yêu cầu này. Các nguyên tắc chung
được thừa nhận được đề ra bởi Ủy ban Chuẩn mực Kế toán (Hiệp hội kế toán
quốc tế) giúp cho người sử dụng thông tin kế toán giữa các nước có thể hiểu
được kế toán của nhau. Một số nguyên tắc chung được thừa nhận bao gồm:
- Thước đo tiền tệ: Là khoảng thời gian nhất định mà các báo cáo kế
toán được lập, có thể hàng tháng, quý, năm, nhằm tiện cho việc so sánh, thì
các kỳ kế toán thường dài bằng nhau;
- Nguyên tắc phù hợp: Đòi hỏi chi phí phải phù hợp với doanh thu mà
nó tạo ra ở kỳ đó, để đảm bảo kế toán xác định đúng đắn kết quả kinh doanh


L?p ch?ng t? Ki?m tra v? k? ch?ng
S? d?ng
t? v? b?o qu?n ch?ng t?
17

trong đơn vị sự nghiệp công lập;
- Nguyên tắc khách quan: Thông tin do kế toán cung cấp phải mang
tính khách quan dựa trên những bằng chứng tin cậy thông qua hệ thống chứng
từ có thể kiểm tra được;
- Nguyên tắc công khai: Nguyên tắc này được hiểu hệ thống BCTC của
đơn vị phải đầy đủ, rõ ràng và công khai cho tất cả các đối tượng sử dụng
thông tin.
1.2.2. Nội dung tổ chức công tác kế toán tài chính trong các đơn vị
sự nghiệp công lập
a. Tổ chức chứng từ kế toán trong các đơn vị sự nghiệp công lập
Chứng từ kế toán là khâu đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng trong chu

trình kế toán khép kín. Chứng từ kế toán là căn cứ pháp lý cho việc ghi sổ kế
toán và các BCTC, là căn cứ để kiểm tra các thông tin về tình hình tài chính
của một đơn vị. Hoặc có thể nói chứng từ kế toán là một bức tranh tổng thể
toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và đã hoàn thành, làm căn cứ ghi sổ
kế toán. Tổ chức hợp lý, khoa học hệ thống chứng từ kế toán sẽ có ý nghĩa
nhiều mặt về pháp lý, về quản lý và về công tác kế toán tại một đơn vị.
* Qui trình luân chuyển chứng từ kế toán:
Thông thường chứng từ kế toán thường được luân chuyển qua các bước
như sau:

Sơ đồ 1.1 - Qui trình luân chuyển chứng từ kế toán
Bước 1: Lập chứng từ
Thực hiện tốt khâu lập chứng từ kế toán là tiền đề quan trọng để nâng
cao chất lượng thông tin kế toán, là cơ sở để đưa ra các quyết định, góp phần


nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính, ngăn chặn các hiện tượng tham ô, tiêu
cực trong hoạt động quản lý tài sản. Việc lập chứng từ kế toán đã ghi nhận
nghiệp vụ kinh tế phát sinh hoàn thành và tạo ra một cơ sở pháp lý hợp pháp
cho các bước tiếp theo của một chu trình kế toán tài chính.
Kế toán căn cứ vào yêu cầu hạch toán của đơn vị và các chứng từ gốc
có liên quan để viết chứng từ cho phù hợp với yêu cầu hạch toán, với nội
dung của từng loại nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kỹ thuật viết chứng từ phải
đúng quy định, sau khi viết xong phải kiểm tra sơ bộ về số tiền và nội dung
chứng từ viết và chứng từ gốc.
Bước 2: Kiểm tra và ký chứng từ
Chứng từ sau khi được viết xong, được chuyển tới Kế toán trưởng hoặc
Trưởng phòng, ban tương đương để kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng
từ và ký xác nhận. Sau đó, chứng từ được chuyển tới Thủ trưởng đơn vị để
kiểm tra và phê duyệt. Chứng từ sau khi được những người có trách nhiệm

kiểm tra được chuyển tới các bộ phận sử dụng chứng từ thực hiện của chứng
từ như chi tiền mặt, xuất kho…sau đó hoàn thiện đầy đủ các chữ ký của
những người có trách nhiệm vào chứng từ và được chuyển về phòng kế toán.
Tất cả các chữ ký trên chứng từ kế toán đều phải đảm bảo theo đúng quy định
(ký bằng bút bi hoặc bút mực, không được ký bằng mực đỏ, bằng bút chì,
hoặc dấu khắc sẵn chữ ký, chữ ký trên chứng từ kế toán dùng để chi tiền phải
ký theo từng liên...).
Việc mở sổ đăng ký mẫu chữ ký của thủ quỹ, thủ kho, các nhân viên kế
toán, kế toán trưởng (và người được ủy quyền), Thủ trưởng đơn vị (và người
được ủy quyền) tại các đơn vị sự nghiệp công lập là qui định bắt buộc. Sổ
đăng ký mẫu chữ ký phải đánh số trang, đóng dấu giáp lai do Thủ trưởng đơn
vị (hoặc người được ủy quyền) quản lý nhằm mục đích phục vụ cho công tác
kiểm tra khi cần thiết. Mỗi người phải ký ba chữ ký mẫu trong sổ đăng ký.


19

Bước 3: Sử dụng chứng từ và bảo quản chứng từ
Chứng từ được phân loại theo từng nội dung kinh tế, sau đó được ghi
chép vào các sổ chi tiết và sổ tổng hợp theo yêu cầu của quá trình hạch toán.
Sau đó sắp xếp khoa học theo trình tự thời gian và nội dung kinh tế để bảo
quản tại phòng kế toán cho đến khi quyết toán của đơn vị được đơn vị cấp
trên phê duyệt. Cuối cùng, chuyển sang bộ phận bảo mật bảo quản theo quy
định của Nhà nước. Cụ thể về thời gian bảo quản chứng từ như sau:
+ Tối thiểu 5 năm đối với tài liệu kế toán dùng cho quản lý, điều hành
của đơn vị kế toán gồm cả chứng từ kế toán không sử dụng trực tiếp để ghi sổ
kế toán và lập BCTC.
+ Tối thiểu 10 năm đối với chứng từ kế toán sử dụng trực tiếp để ghi sổ
kế toán và lập BCTC.
+ Lưu trữ vĩnh viễn đối với các tài liệu kế toán có tính sử liệu, có ý

nghĩa quan trọng về an ninh, kinh tế, quốc phòng.
* Hệ thống chứng từ kế toán:
Hệ thống chứng từ kế toán tại các đơn vị sự nghiệp công lập về cơ bản
căn cứ theo Chế độ kế toán HCSN ban hành theo quyết định số 19/2006/QĐBTC ngày 30/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính (gọi tắt là Chế độ kế toán
HCSN); chế độ kế toán riêng của ngành (nếu có) với đặc điểm: ban hành dựa
trên hệ thống chứng từ của Chế độ kế toán HCSN, đồng thời bổ sung một số
chứng từ đặc thù của ngành; các văn bản pháp luật khác liên quan đến chứng
từ kế toán.
- Chứng từ kế toán chung cho các đơn vị HCSN, gồm 4 chỉ tiêu:
+ Chỉ tiêu lao động tiền lương;
+ Chỉ tiêu vật tư;
+ Chỉ tiêu tiền tệ;
+ Chỉ tiêu TSCĐ.


- Chứng từ kế toán ban hành theo các văn bản pháp luật khác (Các mẫu
và hướng dẫn phương pháp lập từng chứng từ được áp dụng theo quy định các
văn bản pháp luật khác).
Chi tiết Hệ thống chứng từ kế toán theo Chế độ kế toán HCSN (xem Phụ
lục số 1.1).
b. Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán trong các đơn vị sự nghiệp
công lập
Tài khoản kế toán là phương pháp kế toán dùng để phân loại và hệ
thống hóa các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh theo nội dung kinh tế và
theo trình tự thời gian[1, tr.8]. Đối với các đơn vị HCSN, tài khoản kế toán
phản ánh và kiểm soát thường xuyên, liên tục về tình hình tài sản; tình hình
tiếp nhận và sử dụng kinh phí ( NSNN và các nguồn khác cấp); tình hình hoạt
động thu, chi, kết quả hoạt động và các khoản khác.
Tổ chức thực hiện hệ thống tài khoản kế toán, các đơn vị phải tuân thủ
các quy định của Bộ Tài chính về số hiệu, tên gọi, nội dung, kết cấu, phương

pháp hạch toán của từng tài khoản kế toán. Luật kế toán Việt Nam, tại điều 24
đã qui định: "Đơn vị phải căn cứ vào hệ thống tài khoản kế toán do Bộ Tài
chính qui định để chọn hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho đơn vị"[11,
tr.13].
Hệ thống tài khoản kế toán tại các đơn vị sự nghiệp công lập cơ bản căn
cứ theo Chế độ kế toán HCSN; chế độ kế toán riêng của ngành (nếu có) với
đặc điểm: ban hành dựa trên hệ thống tài khoản của Chế độ kế toán HCSN,
đồng thời bổ sung một số tài khoản đặc thù của ngành. Hệ thống tài khoản
theo Chế độ kế toán HCSN phân thành các loại như sau:
Loại 1 - Tiền và vật tư.
Loại 2 - TSCĐ.
Loại 3 – Thanh toán.


21

Loại 4 - Nguồn kinh phí.
Loại 5- Các khoản thu.
Loại 6 - Các khoản chi.
Loại 0 - Các tài khoản ngoài bảng.
Trên cơ sở hệ thống tài khoản kế toán thống nhất áp dụng cho các đơn
vị, kế toán lựa chọn các tài khoản kế toán phù hợp để phản ánh các hoạt động
kinh tế của đơn vị mình. Việc lựa chọn các tài khoản thường dựa vào các căn
cứ sau:
- Đặc điểm hoạt động phù hợp với nhiệm vụ chính trị được giao;
- Yêu cầu quản lý và cơ chế phân cấp quản lý tài chính trong các đơn vị
cụ thể;
- Kết cấu và nội dung ghi chép của các tài khoản trong hệ thống tài
khoản;
Luật kế toán Việt Nam, tại điều 24 đã qui định “Đơn vị kế toán được

chi tiết các tài khoản kế toán đã chọn phục vụ cho yêu cầu quản lý của đơn
vị” [11, tr. 13] và Chế độ kế toán HCSN cũng đã qui định các đơn vị HCSN
được “Bổ sung thêm các Tài khoản cấp 2, cấp 3, cấp 4 (trừ các tài khoản kế
toán mà Bộ Tài chính đã quy định trong hệ thống tài khoản kế toán) để phục
vụ yêu cầu quản lý của đơn vị” [1, tr.9].
Chi tiết Hệ thống tài khoản kế toán theo Chế độ kế toán HCSN (xem
phụ lục số 1.2).
c. Tổ chức hệ thống sổ kế toán trong các đơn vị sự nghiệp công lập
Sổ kế toán là phương tiện dùng để hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế
theo thời gian hoặc theo nội dung kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý của
các đơn vị. Nói cách khác, sổ kế toán chính là phương pháp thể hiện tài khoản
kế toán, đó là phương tiện vật chất để thực hiện công tác kế toán [18, tr.21].
Đối với đơn vị sự nghiệp công lập, các đơn vị kế toán cấp I và cấp II,


ngoài việc mở sổ kế toán theo dõi tài sản và sử dụng kinh phí trực tiếp của
cấp mình còn phải mở sổ kế toán theo dõi việc phân bổ dự toán, tổng hợp việc
sử dụng kinh phí và quyết toán kinh phí của các đơn vị trực thuộc (đơn vị kế
toán cấp II và cấp III) để tổng hợp BCTC về tình hình sử dụng kinh phí và
quyết toán với cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính đồng cấp.
Đơn vị kế toán được phép lựa chọn một trong bốn hình thức sổ kế toán
phù hợp và phải tuân thủ mọi nguyên tắc cơ bản quy định cho hình thức sổ kế
toán đã lựa chọn về: Loại sổ, số lượng, kết cấu các loại sổ, mối quan hệ giữa
các loại sổ, trình tự và kỹ thuật ghi chép các loại sổ kế toán. Cụ thể:
- Hình thức kế toán Nhật ký chung;
- Hình thức kế toán Nhật ký- Sổ Cái;
- Hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ;
- Hình thức kế toán trên máy vi tính.
Trong điều kiện tin học hóa phổ biến và đi vào công việc, đời sống như
hiện nay, đa số các đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu sử dụng Hình thức kế

toán trên máy vi tính. Đặc trưng cơ bản của Hình thức kế toán trên máy vi
tính là công việc kế toán được thực hiện trên chương trình phần mềm kế toán
và được thiết kế theo nguyên tắc của một trong ba hình thức kế toán hoặc kết
hợp các hình thức kế toán: Nhật ký chung, Nhật ký -Sổ cái, Chứng từ ghi sổ.
Sử dụng phần mềm kế toán, việc hiển thị qui trình ghi sổ kế toán sẽ không
đầy đủ, tuy nhiên yêu cầu phải in được đầy đủ sổ kế toán và BCTC theo quy
định. Việc mở sổ, ghi sổ, khóa sổ và sửa chữa sổ kế toán trên phần mềm kế
toán phải theo quy định của Nhà nước. Cuối kỳ kế toán, sổ kế toán được in ra
giấy, đóng thành quyển và lưu trữ theo qui định.
Hệ thống sổ kế toán tại các đơn vị sự nghiệp công lập cơ bản căn cứ
theo Chế độ kế toán HCSN; chế độ kế toán riêng của ngành (nếu có) với đặc
điểm: ban hành dựa trên hệ thống mẫu sổ của Chế độ kế toán HCSN, đồng


23

thời bổ sung một số sổ sách đặc thù của ngành.
Chi tiết Hệ thống sổ kế toán theo Chế độ kế toán HCSN (xem phụ lục
số 1.3).
d. Tổ chức hệ thống báo cáo tài chính trong các đơn vị sự nghiệp
công lập
BCTC trong đơn vị sự nghiệp công lập "nhằm khái quát toàn bộ tình
hình tiếp nhận nguồn kinh phí, sử dụng và quyết toán kinh phí, tài sản, nguồn
vốn, doanh thu, chi phí và các quan hệ tài chính của đơn vị sau một kỳ hoạt
động" [18, tr.33].
BCTC cung cấp thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu cho việc đánh giá
tình hình và thực trạng của đơn vị, là căn cứ quan trọng giúp cơ quan Nhà
nước, lãnh đạo đơn vị kiểm tra, giám sát điều hành hoạt động của đơn vị.
Các đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức bộ máy kế toán theo quy định tại
Điều 48 Nghị định số 128/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004, các đơn vị kế toán

cấp I, II gọi là đơn vị kế toán cấp trên, các đơn vị kế toán cấp II, III gọi là đơn
vị kế toán cấp dưới, đơn vị kế toán dưới đơn vị kế toán cấp III (nếu có) gọi là
đơn vị kế toán trực thuộc.
Danh mục, mẫu và phương pháp lập BCTC quý, năm của đơn vị kế
toán trực thuộc do đơn vị kế toán cấp I quy định. Các đơn vị kế toán có trách
nhiệm lập, nộp BCTC và duyệt báo cáo quyết toán ngân sách như sau:
- Các đơn vị kế toán cấp dưới phải lập, nộp BCTC quý, năm cho đơn vị
kế toán cấp trên, cơ quan Tài chính và Thống kê đồng cấp, KBNN nơi đơn vị
giao dịch để phối hợp kiểm tra, đối chiếu, điều chỉnh số liệu kế toán liên quan
đến thu, chi NSNN và hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của đơn vị;
- Các đơn vị kế toán cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, xét duyệt báo
cáo quyết toán đơn vị kế toán cấp dưới và lập BCTC tổng hợp từ các BCTC
quý, năm của các đơn vị kế toán cấp dưới và các đơn vị kế toán trực thuộc.


Hệ thống BCTC trong các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện theo
Chế độ kế toán HCSN; chế độ kế toán riêng của ngành (nếu có) với đặc điểm:
ban hành dựa trên hệ thống BCTC của Chế độ kế toán HCSN, đồng thời bổ
sung một số BCTC đặc thù của ngành.
Chi tiết Hệ thống BCTC theo Chế độ kế toán HCSN (xem phụ lục 1.4).
1.2.3. Tổ chức lập, chấp hành và quyết toán dự toán chi NSNN
trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước [10,
tr.1]. Tổ chức lập, chấp hành và quyết toán dự toán chi NSNN là một chu
trình không thể thiếu được trong các đơn vị có sử dụng NSNN và Luật Ngân
sách nhà nước, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ
về việc qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước đã
nêu rất rõ về vấn đề này.

a. Lập dự toán chi NSNN hàng năm
Lập dự toán chi ngân sách là việc phân tích, đánh giá một cách có khoa
học nhu cầu chi các nguồn tài chính để xây dựng các chỉ tiêu chi ngân sách
một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học và đảm bảo phù hợp với thực tiễn.
Việc lập dự toán phải căn cứ vào phạm vi nhiệm vụ được giao, đặc điểm cụ
thể của đơn vị, các tiêu chuẩn định mức do các cơ quan Nhà nước quy định,
tình hình tài chính của năm trước đó, các văn bản hướng dẫn về lập dự toán
của cấp có thẩm quyền (Bộ Tài chính, UBND cấp tỉnh…).
Hàng năm, các đơn vị sự nghiệp công lập lập dự toán chi ngân sách cho
đơn vị mình để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Căn cứ vào dự toán chi
NSNN được cấp có thẩm quyền giao, Bộ (ngành) chủ quản (đối với đơn vị sự


25

nghiệp trung ương), cơ quan chủ quản địa phương (đối với đơn vị sự nghiệp
địa phương) lập phương án phân bổ gửi cơ quan tài chính cùng cấp thẩm tra;
sau khi có ý kiến thống nhất của cơ quan tài chính cùng cấp, cơ quan chủ
quản giao dự toán cho đơn vị thực hiện.
Hiện nay, hai phương pháp lập dự toán thường được sử dụng là lập dự
toán trên cơ sở quá khứ và lập dự toán cấp không, cụ thể:
- Phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ là phương pháp xác định
các chỉ tiêu trong dự toán dựa vào kết quả hoạt động thực tế của kỳ liền trước
và điều chỉnh theo tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát dự kiến [20]. Đây là
phương pháp lập dự toán truyền thống, dễ thực hiện và phù hợp với những
hoạt động tương đối ổn định, tạo điều kiện, cơ sở bền vững cho nhà quản lý
của đơn vị trong việc điều hành mọi hoạt động;
- Phương pháp lập dự toán cấp không là phương pháp xác định các chỉ
tiêu trong dự toán dựa vào nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động trong năm kế hoạch,
phù hợp với điều kiện cụ thể hiện có của đơn vị chứ không dựa trên kết quả

hoạt động thực tế của năm trước [20]. Đây là phương pháp lập dự toán phức
tạp bởi phải chi tiết và cụ thể hóa mục tiêu hoạt động phù hợp với điều kiện
của đơn vị để lập dự toán cho năm kế hoạch.
b. Chấp hành dự toán chi NSNN hàng năm
Chấp hành dự toán chi là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp
kinh tế tài chính, hành chính nhằm biến các chỉ tiêu chi ghi trong dự toán
ngân sách của đơn vị thành hiện thực [20]. Trên có sở dự toán ngân sách được
giao, các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có


×