Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

bất bình đẳng giới giữa nam và nữ trong giáo dục ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.07 KB, 22 trang )

Mục Lục
I. Lý do chọn đề tài: ............................................................................................ 1
II. Nội dung .......................................................................................................... 2
1. Đối tượng nghiên cứu: ................................................................................. 2
2. Mục tiêu nghiên cứu: ................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu: .................................................................................... 2
4.Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................ 2
5. Kết quả nghiên cứu: ..................................................................................... 2
5.1. Một số khái niệm:..................................................................................... 2
5.1.1. Giới: .................................................................................................. 2
5.1.2. Bình đẳng xã hội: .............................................................................. 3
5.1.3. Bình đẳng giới :................................................................................. 3
5.1.4. Bất bình đẳng giới:............................................................................ 3
5.1.5. Giáo dục: ........................................................................................... 4
5.2. Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục. .............. 4
5.2.1. Trên thế giới:..................................................................................... 4
5.2.2. Tại Việt Nam: ................................................................................... 5
5.3. Một số nguyên nhân của bất bình đẳng giới trong giáo dục: ............... 12
5.4. Những hệ quả của bất bình đẳng trong giáo dục .................................. 13
6. Một số giải pháp và kết luận về bất bình đẳng giới .................................. 17
6.1. Giải pháp................................................................................................ 17
6.2. Kết luận .................................................................................................. 20
7. Tài liệu tham khảo ...................................................................................... 21


I. Lý do chọn đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật. Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và gia đình”. Bình đẳng giới là một vấn đề rất quan trọng được cả xã
hội quan tâm. Nếu vấn đề giải phóng phụ nữ và vấn đề cơ bản nhất trong các vấn
đề đấu tranh của phụ nữ thì quyền bình đẳng giữa nam và nữ lại được xem là nội


dung quan trọng nhất, cốt lõi nhất của vấn đề này. Sự bình đẳng nam- nữ trên thế
giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Trong lĩnh vực giáo dục, vấn đề bình
đẳng giới càng có ý nghĩa sâu sắc.
Giáo dục có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội của con
người. Nhà xã hội học Pháp Emile Durkheim từng nói: “Giáo dục có chức năng
xã hội hóa cá nhân, giáo dục giúp cho các thế hệ trẻ được chuẩn bị để bước vào
cuộc sống xã hội, giáo dục có chức năng củng cố sự đoàn kết xã hội và duy trì trật
tự xã hội.
Nghiên cứu bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục là một việc làm cần thiết
trong xã hội hiện nay, nhằm mục đích tìm ra các biện pháp nâng cao bình đẳng
giới trong giáo dục và trong xã hội. Với tư cách là một bộ phận của xã hội, sự
nghiệp phát triển giáo dục hiện nay không thể không tính đến vấn đề giới.
Chính vì lý do trên chúng tôi chọn đề tài “ Bất bình đẳng giới giữa nam và
nữ trong giáo dục ở Việt Nam hiện nay”.
Chúng tôi xin đi sâu vào nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới
giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và một số giải pháp nhằm hạn chế tình
trạng này.


II. Nội dung
1. Đối tượng nghiên cứu:
Bất bình đẳng giới giữa nam và nữ trong giáo dục
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Làm rõ một số khái niệm về giới, bình đẳng xã hội và bình đẳng giới, từ đó
đi sâu vào nguyên dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới trong giáo dục ở nước ta
hiện nay nhằm đưa ra một số giải pháp góp phần làm giảm tình trạng trên ở Việt
Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về bất bình đẳng nam nữ trong cơ hội,tiếp
cận và lợi ích được đến trường của nam và nữ lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam hiện

nay.
4.Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng phương pháp: nghiên cứu và phân tích tài liệu.
5. Kết quả nghiên cứu:
5.1. Một số khái niệm:
5.1.1. Giới:
“Giới (gender): là một thuật ngữ chỉ vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã
hội quy định cho nam và nữ nhìn từ góc độ xã hội, giới đề cập đến sự phân công
lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích giữa nam và nữ trong một bối
cảnh xã hội cụ thể”.(TS. Trần Thị Kim Xuyến, tài liệu giảng dạy: “Giới và các
vấn đề đô thị”).
Những đặc trưng về giới mang tính xã hội, do xã hội quy định. Giới thể hiện
các đặc trưng của xã hội của phụ nữ và nam giới nên rất đa dạng. Nó phụ thuộc
vào đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, các khu vực,
các giai tầng xã hội. Các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội về giới hoàn toàn
có thể thay đổi được.
2


5.1.2. Bình đẳng xã hội:
“Bình đẳng xã hội: là nói tới sự thừa nhận và sự thiết lập các định kiến, các
cơ hội và các quyền lợi ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân,
các nhóm xã hội”. (Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Xã hội học về giới và
phát triển, Nxb. ĐHQG HN) . Trên lý thuyết, bất bình đẳng xã hội có nghĩa là
không bằng nhau, không ngang nhau về các khía cạnh cơ bản của đời sống xã hội
giữa các cá nhân, các nhóm người. Trên thực tế, khái niệm bất bình đẳng xã hội
được dùng chủ yếu để chỉ mối tương quan xã hội nào không ngang bằng nhau đến
mức gây tổn hại đến quyền và lợi ích của bên yếu thế.
5.1.3. Bình đẳng giới :
“Là một cách tiếp cận giải quyết các vấn đề đang đối diện với cả nam và nữ

theo cách chia sẻ các lợi ích của phát triển một cách bình đẳng, bảo đảm chống lại
gánh nặng thiên lệch của những tác động tiêu cực” (TS. Trần Thị Kim Xuyến, tài
liệu giảng dạy: “Giới và các vấn đề đô thị”).
Trong đó, nam giới và nữ giới được bình đẳng với nhau về:
Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng .
Các cơ hội tham gia đóng góp và hưởng lợi từ các nguồn lực xã hội và quá
trình phát triển.
Quyền tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng.
Được hưởng thành quả bình đẳng trong mỗi lĩnh vực của xã hội.
5.1.4. Bất bình đẳng giới:
Nói một cách đơn giản, đó là sự không như nhau giữa các cá nhân nam giới
và phụ nữ, giữa các nhóm phụ nữ và nam giới trong các cơ hội, việc tiếp cận
nguồn lực và sự sử dụng và hưởng thụ những thành quả của xã hội.( Hoàng Bá
Thịnh, 2008:122).

3


5.1.5. Giáo dục:
là sự dạy bảo chính thức dưới sự hướng dẫn của thầy cô được đào tạo
chuyên môn giáo dục chính thức là giáo dục được thực hiện trong nhà trường ở
các cấp khác.
5.2. Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục.
5.2.1. Trên thế giới:
Theo một báo cáo của UNICEF, vào tháng 12 năm 2006, nhân dịp kỉ niệm
60 năm ngày thành lập của tổ chức này, việc loại bỏ sự phân biệt đối xử về giới
và nâng cao vị thế của phụ nữ sẽ tạo ra một sự tác động sâu sắc và tích cực đến sự
sống còn và phát triển của trẻ em. Bà Ann M. Veneman – Giám đốc điều hành
UNICEF phát biểu: “Khi vị thế của người phụ nữ được nâng lên để có một cuộc
sống đầy đủ và hữu ích, trẻ em và giáo dục họ sẽ trở nên thịnh vượng”. Theo báo

cáo này, mặc dù trong những thập kỉ gần đây đã có một số tiến bộ về vị thế của
phụ nữ nhưng cuộc sống của hàng triệu “trẻ em gái và phụ nữ vẫn bị đe dọa bởi
sự phân biệt đối xử, việc bị tước quyền và nghèo khổ. Hậu quả của sự phân biệt
đối xử là trẻ em gái ít có cơ hội được học hơn. Ở các nước đang phát triển, gần
như 1/100 trẻ em gái đi học ở trường tiểu học sẽ không theo học được hết cấp.
Trình độ học vấn, theo báo cáo, tương quan đến sự cải thiện về các nguồn lực đầu
tư cho sự sống còn và phát triển của trẻ em.
Sự phân biệt giới trong lĩnh vực giáo dục thường diễn ra gay gắt nhất trong
nhóm nước nghèo. Một nghiên cứu gần đây về tỉ lệ đến trường của các bé gái và
bé trai ở 41 quốc gia đã cho thấy, trong những nước này, sự phân biệt về giới
trong tỉ lệ đến trường giữa nhóm nghèo thường lớn hơn giữa những nhóm không
nghèo. Tuy sự bình đẳng trong giáo dục đã có sự cải thiện rõ rệt trong vòng 30
năm qua ở các nước ngày nay còn phụ thuộc diện thu nhập thấp, nhưng sự chênh
lệch về số nam và nữ đến trường ở những nước này vẫn lớn hơn ở các nước có
thu nhập trung bình và cao. Mặc dù giữa phát triển kinh tế và bình đẳng giới có

4


mối quan hệ nhất định, sự hiện diện của phụ nữ trong thu nhập quốc nội vẫn còn
khiêm tốn.
5.2.2. Tại Việt Nam:
Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong nâng
cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số
người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong
tất cả các cấp bậc học được thu hẹp ( Báo cáo Quốc gia của Việt Nam, tháng 8 –
2005) đã khẳng định điều này. Về cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa
bỏ cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015. Có bốn loại hình giáo dục không
chính quy, chủ yếu dành cho người lớn, trong đó có phụ nữ. Các chương trình
này đã tạo nhiều cơ hội học tập đối với phụ nữ hơn rất nhiều so với trước.

Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của người phụ nữ, đặc biệt là
vai trò của giáo dục đối với xã hội, ngành Giáo dục & Đào tạo đã thực hiện tương
đối tốt số cơ sở đào tạo lớn vốn có truyền thống nam giới lãnh đạo như Đại học
Bách khoa Hà Nội nay đã có nữ giới giữ vị trí Phó hiệu trưởng. Nhiều nữ nhà
giáo được phong tập và rèn luyện, đạt kết quả xuất sắc. Trong các kỳ tuyển sinh
vào cao đẳng, đại học nhiều thủ khoa là học sinh nữ. Còn trong các kỳ thi tốt
nghiệp, nhiều sinh viên nữ nhận bằng cử nhân với thành tích xuất sắc: thủ khoa ,ở
bâc đại học và cao học tỉ lệ sinh viên nữ đang có xu hướng tăng dần đều qua các
năm 2004-2007 (47,79% ; 48,49% ; 53,32% ), trong đó năm học 2006-2007 tỉ lệ
hoc sinh , sinh viên nữ còn cao hơn tỉ lệ học sinh ,sinh viên (53,32% ; 42,68% )

5


Bảng 1 : Tỉ lệ học sinh , sinh viên nữ trong các trường cao đẳng đại học
( Đơn vị %)
Bậc học
Các trường
Đại học
các trường
cao đẳng
Đại học
Và cao đẳng

2004-2005

2005-2006

2006-2007


46,95

47,23

50,99

50,98

53,09

53,88

47,79

48,49

53,32

( Nguồn: Bộ giáo dục và đào tạo )
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện bình đẳng giới trong giáo
dục - đào tạo cũng có những hạn chế như : việc tiếp cận giáo dục của trẻ em gái
và phụ nữ dân tộc thiểu số ở các vùng sâu , vùng xa còn nhiều khó khăn và trở
ngại so với các e trai và nam giới. Vì phụ nữ , trẻ em ở những gia đình nghèo ,ở
các vùng dân tộc thiểu số ít được đi học, thường phải bắt đầu làm việc từ khi còn
rất ít tuổi, trong khi các trẻ em trai được đến trường hơn .So với trẻ em nam, thì
trẻ em nữ không được đến trường chịu nặng gấp ba lần : làm việc nhà,vừa lo học
tập ở trường,vừa phụ giúp gia đình không được trả công . Gánh nặng kinh tế đặt
lên vai người phụ nữ từ khi còn nhỏ,vì thời gian lớn giành phụ giúp kinh tế gia
đình nên thời gian giành cho việc học phải giảm xuống. Bởi quan niệm phụ nữ
không cần phải học nhiều ,học càng nhiều càng “khó dạy bảo” và hoàn toàn

không cần thiết.Theo quan niệm xã hội,phụ nữ phải chăm lo công việc của gia
đình,nội trợ may vá thiêu thùa. Bên cạnh đó thì hiện nay tỷ lệ giảng viên theo
ngành học có sự khác biệt không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước khác vẫn
tồn tại sự khác biêt về giới trong đội ngũ giảng viên bậc đại học.
Theo khảo sát của ngân hàng Thế Giới năm 1999 cho thấy: nữ giảng viên
tập trung với tỷ lệ cao ở các lĩnh vực đào tạo truyền thống, được coi là hợp nữ
giới như: y-dược chiếm (40,3%) khoa học xã hội và nhân văn (38,5%) và cao
6


nhất là sư phạm chiếm 51,8%. Trong đó,tỷ lệ nữ giảng viên ở các ngành kỹ thuật
chỉ có 24,5% và khoa học tự nhiên là 29,7%. Ngoài ra,tỷ lệ nữ giảng viên trong
các trường cao đẳng chiếm 50,9% cao hơn các giảng viên trong các trường đai
học( 41,7%). Đặc biệt tỷ lệ nữ giảng viên trong các trường tỉnh quản lý chiếm tới
(52,8%). Tỷ lệ nữ gaingr viên trong các trường đại học lớn,có đào tạo sau bậc đại
học là 43,6%. Các số liệu trên đây cho thấy tỷ lệ phân bố nữ giảng viên theo lĩnh
vực đào tạo và loại hình trường còn thiếu cân đối : Nữ giảng viên còn ít có mặt
trong các lĩnh vực khoa hcoj công nghệ “ trọng điểm”,mà chủ yếu tạp trung ở các
lĩnh vực được coi là nhẹ nhàng, phù hợp với nữ, nhưng ít được coi trọng và ít thu
nhập hơn.Nữ giảng viên tập trung giảng dạy ở các trường cao đẳng nhất là cao
đẳng sư phạm của các tỉnh hay đại học có quy mô nhỏ.
Số liệu giảng viên ở Đại học Quốc gia Hà Nội cũng phản ánh được một tình
trạnh tương tự như bức tranh của toàn quốc về số lượng giảng viên theo các khối
ngành:

7


Bảng 2: Tỷ lệ giảng viên nữ theo các ngành, Đại học Quốc gia Hà Nội
(tính đến 31/12/2015)


stt

Tên cơ sở đào tạo
(Trường,khoa,bộ,môn)

Tổng số Tổng số
Giảng
CB-CNV giảng
viên nữ
viên

Tỷ lệ giảng
viên nữ so
với nam

1

Trường đại học khoa học
tự nhiên

604

420

113

26,9

2


Trường đai học khoa học xã
hội và nhân văn

465

347

158

45,5

3

Trường đại học ngoại ngữ

680

415

267

64,3

108

74

10


13,5

69

52

30

57,6

4
5

Trường đại học
công nghệ
Khoa kinh tế

6

Khoa luật

51

33

13

39,3

7


Khoa sư phạm

33

8

6

33,3

8

Khoa quốc tế

15

8

3

37,5

(Nguồn: Tác giả xử lý tại số liệu tại ban tố chức cán bộ-đại học quốc gia Hà
Nội)
Ngoài ra tỷ lệ giảng viên bậc đại học theo học hàm, học vị còn có sự chênh
lệch đáng kể so với nam ,trong những năm gần đây,số nữ giảng viên trình độ sau
đại học đã tăng lên đáng kể ,do sự phát triển và mở rộng hệ đào tạo sau đại học
trong nước đã tạo thuận lợi cho giảng viên nói chung và nữ giảng viên nói riêng
có điều kiện theo học.Bên cạnh đó,sự cố gắng vươn lên của chị em nhằm đáp ứng

nhu cầu của công việc và một phần do sức ép của các chính sách như : chuẩn hoá
cán bộ,nâng chuyển ngạch lương.
8


Tuy nhiên,thực tế tỷ lệ nữ giảng viên có chuyên môn cao còn thấp hơn nhiều
so với giảng viên nam và chưa thự sự tương xứng vói tiềm năng của phụ nữ, đặc
biệt ở trình đọ tiến sĩ, tỷ lệ giảng viên nam cao gấp 5 lần giảng viên nữ, cách biệt
giới càng gia tăng theo học hàm, với 14,7% nữ giảng viên có học hàm phó giáo
sư và chỉ có 6% học hàm giáo sư. Điều này cho thấy khoảng cách giới về trình độ
giữa nam giảng viên và nữ giảng viên đại học rất lớn và không dễ thu hẹp. ( Xem
bảng )
Bảng 3: Học vị và hoc hàm của giảng viên nữ trong các trường đại học
năm 2006
Học vị ,học hàm

Tổng số

Nữ giảng viên

Tỷ lệ

Thạc sĩ

12.248

5.140

41.9


Tiến sĩ, tiến sĩ khoa học

5.744

1.242

21.6

Phó giáo sư

2.084

308

14.7

Giáo sư

432

26

6.0

( Nguồn: Bộ giáo dục và đào tạo-vụ kế hoạch tài chính, 2006 )
Có thể nói rằng bình đẳng trong giáo dục qua có tầm quan trọng rất lớn đối
với sự phát triển đất nước.Vì vậy có một nhà giáo đã viết : Giáo dục một người
đàn ông, ta được một gia đình, giáo dục một người phụ nữ ta được cả một thế hệ.
Lợi ích trăm năm trồng người chính là xuất phát từ giáo dục.


9


Về tồn tại:
Trẻ em gái ít cơ hội được đến trường so với nam giới. Nếu tính trung bình
cho tất cả các quốc gia đang phát triển, tỷ lệ phụ nữ biết chữ thấp hơn 29% so với
nam giới, số năm đến trường trung bình thấp hơn 45% so với nam giới và tỷ lệ
nhập học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông của nữ thấp hơn tương
ứng là 9%, 28% và 49% so với nam.
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Tuy
nhiên, theo kết quả điều tra chọn mẫu của Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển
Việt Nam năm 2000. (Tấn công nghèo đói, Hà Nội, 1999). Năm 1997 – 1998, tỉ
lệ dân số nữ từ 15 tuổi trở lên chưa đến trường là 13,4%, nhiều hơn hai lần tỉ lệ
nam: 5,2%. Số năm đi học trung bình của dân số nam từ 6 tuổi trở lên là 6,7 năm,
nhiều hơn số năm đi học của nữ: 5,6%.

10


Biểu đồ và bảng số liệu:
Số lượng học sinh phổ thông tại thời điểm ngày 31 tháng 12 giai đoạn 20002009 phân theo giới tính. ( Ngân hàng thế giới, báo cáo phát triển Việt Nam năm
2000. Tấn công nghèo đói, Hà Nội. 1999)

11


Tuy nhiên, nhìn vào biểu đồ, ta cũng có thể nhận thấy, từ năm 2000 đến
2009, số nữ đi học cấp III đã tăng lên đáng kể. Đây là một dấu hiệu tích cực để
đánh giá sự bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục.
5.3. Một số nguyên nhân của bất bình đẳng giới trong giáo dục:

Hiện tượng bất bình đẳng tạo ra những hệ quả xã hội to lớn. Ảnh hưởng từ
quá trình tiếp cận nguồn lực của nam giới và phụ nữ đến sự phát triển của xã hội
là một thực tế đã được chứng minh. Vậy nguyên nhân tại sao sự phân biệt đó vẫn
cứ tồn tại dai dẳng? Một số kiểu bất bình đẳng giới còn khó thủ tiêu hơn cả các
hiện tượng xấu khác của xã hội? Dưới đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến các
quan hệ giới và bất bình đẳng xã hội.
Các thể chế xã hội, các chuẩn mực xã hội, tập quán xã hội, quyền hạn, luật lệ
- cũng như các thể chế kinh tế như thị trường… tác động rất lớn đến loại nguồn
lực nào mà họ được tiếp cận, hoạt động nào mà giới nào được phép tham gia, giới
nào được phép tham gia nền kinh tế - xã hội dưới hình thức nào. Chính những thể
chế đó đã quy định động cơ khuyến khích hay không khuyến khích các định kiến
giới. Ngay cả khi chúng không công khai phân biệt thì những thể chế chính thức
hay không chính thức đó vẫn thường chịu sự tác động bởi các chuẩn mực xã hội
về những vai trò thích hợp theo giới. Có rất nhiều thể chế có những sức người
nhất định của nó, khiến rất khó và rất chậm để có thể thay đổi được.
Một nguyên nhân nữa là do các quan niệm của gia đình. Các định kiến gia
đình đã định hình các mối quan hệ giới ngay từ đầu của quá trình xã hội hóa cá
nhân và còn truyền tải chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có những định kiến
giới của cha mẹ biểu hiện như: quan niệm cho rằng các em gái không cần phải
học nhiều mà cần phải làm việc nội trợ giúp gia đình.
Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bình đẳng giới trong giáo
dục. Tình trạng đói nghèo của gia đình, trình độ học vấn thấp của cha mẹ, các
nghiên cứu xã hội học về giáo dục cho thấy một tỉ lệ bỏ học rất đáng kể của
những trẻ em xuất thân từ gia đình nghèo, cha mẹ ít học thậm chí là không biết
12


chữ sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. (Lê Thúy Hằng: “Khác biệt giới
trong dự định đầu tư của bố mẹ cho việc học của con cái” – Tạp chí xã hội học số
2 – 2006).

Một nguyên nhân nữa là các chính sách phát triển về giới vẫn có thể tạo ra
những kết cục phân biệt về giới. Các chính sách, cùng với các chuẩn mực xã hội
hay phân công đồng đều có thể dẫn đến việc tiếp cận các nguồn lực không đồng
đều giữa nam và nữ. Việc không nhận thức được hoặc bỏ qua sự khác biệt về giới
khi thiết kế các chính sách có thể có hại cho hiệu lực của các chính sách đó, xét
cả trên khía cạnh công bằng lẫn hiệu quả.
Như vậy, các thể chế xã hội, thể chế kinh tế, hộ gia đình và các chính sách
phát triển sẽ cùng nhau quyết định các cơ hội cuộc sống – xét trên khía cạnh giới
– của con người. chúng cũng thể hiện những điểm đột phá quan trọng cho chính
sách công cộng nhằm giải quyết sự bất bình đẳng giới.
5.4. Những hệ quả của bất bình đẳng trong giáo dục
Khi có những bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong việc tiếp cận các
nguồn lực cuộc sống thì tất yếu dẫn đến những hệ quả tiêu cực. Thực tế đã cho
thấy điều này diễn ra ở cả trên thế giới và ở Việt Nam.
Có rất nhiều bằng chứng cho thấy trẻ em chịu thiệt thòi trực tiếp từ việc mẹ
chúng mù chữ hoặc không được đến trường. Không được đi học dẫn đến chất
lượng chăm sóc con cái thấp, điều này lại khiến tỉ lệ tử vong và suy dinh dưỡng ở
trẻ em và trẻ sơ sinh cao. Những bà mẹ có trình độ học vấn cao thường có hành vi
bảo vệ sức khỏe cho con cái phù hợp hơn, chẳng hạn như cho con cái đi tiêm
chủng.
Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn đóng vai trò quyết định trong việc
chăm sóc và nuôi dưỡng con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất
lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của toàn
xã hội sẽ được nâng lên.
13


Mặt khác, kể cả các nước có nền kinh tế mới phát triển như Trung Quốc,
Hàn Quốc, khi vấn đề bình đẳng giới không được giáo dục cũng ảnh hưởng rất
lớn khi những định kiến “trọng nam” trong xã hội cộng với chính sách chỉ đẻ

một con của Trung Quốc đã khiến tỉ lệ tử vong của bé gái cao hơn của bé trai.
Theo một số ước tính, số phụ nữ đang sống hiện nay ít hơn từ 60 – 100 triệu
người so với con số khi không có sự phân biệt đối xử theo giới (Tài liệu: “Đưa
giới vào phát triển” .)
Bất bình đẳng giới trong giáo dục làm giảm chất lượng nguồn nhân lực
trung bình của xã hội. Thực vậy, nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có
khả năng thiên bẩm như nhau và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập
và đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai có
tiềm năng thấp hơn, như thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp
hơn mức có thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế.
Áp dụng thuyết xung đột cho chủ đề này.
Khái niệm thuyết xung đột xã hội: là quan hệ và quá trình xã hội mà ở đó
có thể phân biệt hai hay nhiều cá nhân, nhiều nhóm xã hội có quyền lợi đối lập
nhau trong các giải quyết vấn đề xã hội nhất định.
Xung đột về cấu trúc của các quyền lợi: quyền lợi chính là mục tiêu để
hành động xung đột diễn ra. Không phải cứ có quyền lợi là có xung đột. Chúng
chỉ đồng thời có khi nếu chủ thể hành động nhận thức về quyền lợi khác nhau mà
cùng có xu hướng chiếm lĩnh quyền lợi đó thì sẽ có nguy cơ xung đột. Khi có sự
thừa nhận chung về giá trị và quyền lợi theo một nguyên tắc nào đó thì sẽ tránh
được xung đột. Cần phải tạo ra một cơ hội để chuyển từ dạng quyền lợi tiềm ẩn
sang dạng hiện thực, có khả năng đạt tới, thì sẽ giải quyết được xung đột.
Xung đột trong vấn đề sự tham gia, phân công các hoạt động giáo dục.
Ví dụ: thời gian làm việc trong 24h, nữ làm việc nhiều hơn nhưng không
được công nhận và trả lương ít , thời gian làm trong ngày từ 14-16h thì thời gian
14


giành cho việc học hành ít đi và sự đầu tư học hành cho giới nữ ít hơn so với
nam giới. Giảm dần trong các cấp học.
Sự phân công lao động thời gian trong ngày giành cho nữ giới chiếm đa số

và không có thời gian học hành trong khi nam giới có nhiều thời gian hơn cho
việc học chính vì vậy có sự xung đột ở đây.
Xung đột trong lợi ích : Quyền được đi học giữa nam và nữ
Trong quan niệm giáo dục người Việt: Người con trai là trụ cột trong gia
đình, phải làm việc lớn ,việc đại sự và làm rạng danh dòng họ. Còn nữ giới thì
“con gái lớn đi lấy chồng là con của người ta” nên việc đầu tư học thức và sự
nghiệp cho nam nhiều hơn đối với nữ giới.
Lí giải cho vấn đề: Trong giáo dục, vẫn còn có quan niệm coi trọng con trai
hơn con gái, biểu hiện ở việc đầu tư giáo dục cho con trai nhiều hơn con gái,Việt
Nam cũng như nhiều nước trong khu vực Châu Á còn chịu ảnh hưởng của quan
niệm này. Chẳng hạn như: Ấn Độ có câu ngạn ngữ: “ Cho con gái học lên cao,
chẳng khác gì đem phân hóa học bón cho ruộng nhà hàng xóm”, còn người Việt
Nam thường nói “ Con gái là con người ta” nên thường ít quan tâm đến việc học
của con gái so với con trai.Theo góc chuyên gia của Ngân hàng Thế giới , “ Vì
các yếu tố xã hội và kinh tế quyết định cơ hội cuộc sống của người phụ nữ qua
hôn nhân hơn là qua thị trường lao động nên cha mẹ đầu tư ít hơn vào vốn con
người của họ. Tại tất cả các nước đang phát triển, phụ nữ ít có cơ hội được đi học
Trung học hay Đại học hơn nam giới” (WB,2015: 79).
Xung đột trong cách tiếp cận lĩnh vực kinh tế và cơ hội thị trường đối với
nam và nữ giới.
Ở kinh tế nhà nước: họ chú trọng đầu tư vào các ngành học kinh tế mũi nhọn
như: kĩ thuật hạt nhân, cơ khí, xây dựng, công nghệ ô tô, điện tử, khai thác tài
nguyên,…

15


Lí giải: Các cách tiếp cận và cơ hội này giành cho nam giới là chủ yếu họ
rất chú trọng và đầu tư trong việc lựa chọn nhân lực đó là nam giới sẽ chiếm ưu
thế hơn so với nữ giới.Vì những ngành này là trọng điểm của đất nước và nam

giới chiếm lĩnh thị trường là đa phần. Nữ giới có địa vị nhưng ở vị trí là thấp kém
hơn, mặc dù trình độ học thức họ có .
Còn đối với phụ nữ vì khó có thể tiếp xúc với các ngành mũi nhọn trên và
nó có mức ảnh hưởng đến sức khỏe của người phụ nữ và dẫn tới các bệnh vô
sinh.
Ngoài ra vai trò của người phụ nữ trong giáo dục còn thể hiện ở chỗ định
hướng và chăm lo việc học hành của con cái, phụ nữ quan tâm tới con cái hơn so
với người chồng và thực hiện vai trò của người mẹ, người vợ trong gia đình.
Hơn nữa khi nam giới có nhiều cơ hội nắm bắt thị trường cao hơn nữ giới,
kinh tế trong gia đình là chủ lực cũng dẫn tới sự xung đột trong các quyền lợi ích
trong dịch vụ giáo dục.
Xung đột trong quyền lực, vi trí xã hội và thu nhập giữa nam và nữ .
Trong xã hội thì nam giới luôn là người vị trí xã hội cao hơn nữ giới ,cho dù
vị trí của nữ được nâng cao nhưng vẫn thua nam một bậc nó được thể hiện trong
: Sự tiếp cận của phụ nữ đối với quyền lực kinh tế và chính trị , còn xa mới tương
xứng với số lượng ,nhu cầu và đóng góp so với nam giới.Sự tham gia của phụ
nữ vào quá trình ra quyết định luôn chậm trể và đứng sau nam giới ở mọi cấp độ:
Từ cấp độ tập thể (trong Quốc Hội, Ban giám đốc) đến cấp độ ( nơi ở, làm
việc,…)
Nam giới thực thi quyền uy ở khắp mọi nơi mà điều được sự chấp nhận của
rất nhiều phụ nữ và nam giới ,coi đó là “ đương nhiên” mặc dù điều đó thường
được củng cố bằng sức mạnh thể chất,nhưng uy quyền về bản chất không phải là
một phẩm chất sinh học.Nó là một hành vi xã hội được học hỏi ,một lợi ích ,một

16


phần thưởng…được ban và cho lấy đi. Nhiều thế kỉ đã qua,nam giới được xẫ hội
hóa để thực thi uy quyền,phụ nữ được xã hội hóa để phục tùng quyền uy.
Trong thu nhập gia đình thì phụ nữ luôn phụ thuộc đàn ông về kinh tể, vì

người phụ nữ luôn có thu nhập thấp hơn đàn ông và về quyền lực xã hội, đàn ông
ra ngoài kiếm tiền còn phụ nữ thì ở nhà chăm lo con cái , quán xuyến con cái nên
chủ yếu họ phụ thuộc vào kinh tế người đàn ông.
6. Một số giải pháp và kết luận về bất bình đẳng giới
6.1. Giải pháp
Thứ nhất, thể hiện bình đẳng giới trong các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, tạo mọi điều kiện cho trẻ em được học hành, phát triển. Ví dụ: Nghị
quyết số 11 của Bộ chính trị - BCHTW Đảng khoá X về công tác phụ nữ trong
thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe: Đổi mới và phát triển
mạng lưới tư vấn sức khỏe, nhất là sức khỏe sinh sản, giáo dục giới tính và tình
dục an toàn vị thành niên, vận động nam, nữ áp dụng các biện pháp tránh thai,
tuyên truyền, hướng dẫn phụ nữ biết cách chăm sóc sức khỏe bản thân và gia
đình, phòng trừ bệnh dịch.
Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa việc lồng ghép giới vào chương trình dạy học
trong các nhà trường.
Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thông, nâng cao
nhận thức về bình đẳng giới.
Thứ năm, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính
sách về bình đẳng giới.
Thứ sáu, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Quốc gia.
Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và hệ thống các ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và năng
lực của Hội Phụ nữ các cấp.

17


Thứ bảy, bản thân chị em phải tự lực tự cường phấn đấu để vươn lên, rèn
luyện theo các tiêu chí: có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động
sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân đạo để khẳng định mình.

Lộ trình tới bình đẳng giới đưa ra nhiều giải pháp chính nhằm cải thiện tình
hình, trong đó giáo dục được quan tâm hàng đầu. Giải pháp giáo dục bình đẳng
giới phải gắn liền với việc lồng ghép giới vào quá trình xây dựng chính sách,
chương trình, thực hiện và đánh giá trong cả lĩnh vực văn hoá và giáo dục. Chính
phủ và ngành giáo dục - đào tạo cần xây dựng và hỗ trợ các chương trình có lợi
cho trẻ em gái và phụ nữ, đặc biệt là các chương trình thúc đẩy bình đẳng giới,
xây dựng năng lực tổ chức nội sinh có căn cứ cụ thể vào tình hình phát triển kinh
tế - xã hội ở mỗi vùng miền. Trong bối cảnh nước ta thực hiện nền giáo dục cho
mọi người với một trong những mục tiêu là xoá bỏ bất bình đẳng giới trong giáo
dục tiểu học và trung học vào năm 2005, đạt được bình đẳng giới vào năm 2015,
đảm bảo các trẻ em gái có đầy đủ quyền lợi bình đẳng tiếp cận tới nền giáo dục
cơ bản có chất lượng tốt, việc cung cấp môi trường học tập có định hướng tới các
vấn đề về giới và cơ hội ngang bằng tiếp cận tới các chương trình giáo dục phù
hợp cho các thành viên trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái trong điều
kiện khó khăn.
Việc giáo dục bình đẳng giới là một nhiệm vụ quan trọng được các cấp lãnh
đạo và quản lý, nhất là ngành giáo dục - đào tạo không ngừng quan tâm trong thời
gian qua. Đến cuối năm 2005, dự án giáo dục dân số, sức khoẻ, gia đình nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục dân số, sức khoẻ, sinh sản vị thành niên trong các
trường trung học phổ thông do Bộ Giáo dục - đào tạo phối hợp với Uỷ ban Dân
số - Gia đình và Trẻ em đã cơ bản hoàn thành tập huấn cho 390 giảng viên cấp
tỉnh, 1010 cán bộ quản lý và 8619 giáo viên trong các trường trung học phổ
thông.
Có thể nói rằng, chúng ta đang có những bước đi mạnh mẽ và đúng hướng.
Nhưng cũng còn nhiều vấn đề đang tồn tại dễ thấy, dễ bộc lộ và ngấm ngầm làm
18


cản trở công tác giáo dục bình đẳng giới. Để công tác giáo dục bình đẳng giới
trong nhà trường đạt hiệu quả tốt nhất, cần tập trung vào các vấn sau:

Ngành giáo dục - đào tạo chương trình hóa việc giáo dục bình đẳng giới theo
hướng chuyên đề và tích hợp, đổi mới phương pháp giáo dục vốn lỗi thời. Cần
thay việc tuyên truyền theo lối hô hào khẩu hiệu bằng các phân tích khoa học, chỉ
rõ các lợi ích của vấn đề đối với toàn nhân loại, toàn cầu chứ không chỉ là "sự
vùng lên" đơn thuần của giới nữ, cần có những nội dung, bài học và hoạt động
khoa học thay cho các buổi sinh hoạt mang tính tuyên truyền đơn thuần...
Việc bồi dưỡng nhận thức, năng lực, kỹ năng quản lý và giáo dục và trao đổi
thông tin cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên trường học có ý nghĩa quyết
định đến hiệu quả giáo dục. Việc này, hiện nay còn đang bị xem nhẹ, đội ngũ có
phần chủ quan, nhận thức chưa sâu và không đều, còn thiếu thông tin và kỹ năng
hành dụng cần thiết.
Ngay trong nhà trường, cần có những biện pháp nâng cao vị thế giới nữ
trong sự bình đẳng giới thực sự. Điều này hết sức thuận lợi trong môi trường
trường học - xã hội thu nhỏ, xã hội của tương lai. Số nữ sinh trong nhà trường
chiếm tỷ lệ lớn, sức học và hoạt động của các em không thua sút nam sinh sẽ là
yếu tố thuận lợi cho các biện pháp đề ra. Biện pháp không nhằm vào việc "ưu
tiên", "cất nhắc", "bênh vực" mà nhằm vào sự phát huy năng lực thực sự, được
công nhận và thuyết phục, mọi "châm chước" sẽ dẫn đến sự phân biệt giới theo
hướng khác có thể không kém nguy hại (ngoài xã hội, việc này đã xảy ra).
Hỗ trợ các điều kiện vật chất ngay trong nhà trường sẽ giúp cho nhiệm vụ
giáo dục bình đẳng giới thuận lợi hơn. Các thiết chế cho các hoạt động và sinh
hoạt giới trong nhà trường hầu như chưa được chú ý đúng mức, trong khi đó với
đặc điểm tâm sinh lý của giới, phụ nữ có những nhu cầu không thể giống hoặc
chung với nam giới.
Giáo dục bình đẳng giới là chiến lược lớn của nhà trường. Nó phải được đặt
đúng tầm mức cần có. Nếu không quan tâm sâu sắc vấn đề này, không chỉ nền
19


giáo dục mà cả xã hội sẽ phải hối tiếc về sự thụ động và các giải pháp muộn

màng của chính chúng ta.
Tài chính: Các nguồn lực cần thiết để thực hiện mục đích về bình đẳng giới
và nâng cao vị thế của phụ nữ chưa nhận được sự chú ý đầy đủ. Đầu tư để loại trừ
sự phân biệt đối xử về giới phải được đưa vào trong kế hoạch và ngân sách của
các Chính phủ.
6.2. Kết luận
Ở Việt Nam, ngoài các chương trình hành động của Chính phủ, ngoài sự bảo
vệ của pháp luật, để thực sự có một xã hội bình đẳng giới, còn cần phải thay đổi
quan niệm của nhiều người về vấn đề bình đẳng nam – nữ. Người phụ nữ đã phải
chịu bao thua thiệt vì gánh nặng thiên chức làm vợ, làm mẹ nhờ đó mà bao người
chồng, người con, người em đã thành công từ sự đỡ đần, nâng niu, chăm sóc của
họ. Không thể tin vào lý do tâm sinh lý của nam – nữ khác nhau, tin vào những
tập quán cổ hủ để tiếp tục coi họ là “cái sân sau” của người đàn ông, là người
“nâng khăn sửa túi” cho chồng như xã hội phong kiến đã từng quan niệm hàng
ngàn năm”.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay, ngành giáo dục hướng tới mục tiêu đạt
được bình đẳng giới. Đảm bảo các trẻ em gái và phụ nữ có đầy đủ quyền lợi bình
đẳng tiếp cận tới nền giáo dục cơ bản có chất lượng tốt, việc cung cấp môi trường
học tập có định hướng tới các vấn đề về giới và cơ hội ngang bằng tiếp cận tới
các chương trình giáo dục phù hợp cho các thành viên trong xã hội, đặc biệt là
phụ nữ và trẻ em gái trong điều kiện khó khăn.
Qua vấn đề đã tìm hiểu, cho thấy được bất bình giới trong giáo dục Việt
Nam, nó luôn là một hệ lụy mà xã hội cần phải quan tâm. Chúng ta cần đưa ra
các giải pháp làm giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng giới trong giáo dục, nâng
cao tầm quan trọng trong vai trò của phụ nữ trong giáo dục Việt Nam hiện nay.

20


7. Tài liệu tham khảo

- TS. Trần Thị Kim Xuyến, tài liệu giảng dạy: “Giới và các vấn đề đô thị”.
- Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Xã hội học về giới và phát triển,
Nxb. ĐHQG HN
- Báo cáo Quốc gia của Việt Nam, tháng 8 - 2005.
- Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2000. Tấn công
nghèo đói, Hà Nội, 1999.
- Tài liệu: “Đưa giới vào phát triển”
- Lê Thúy Hằng: “Khác biệt giới trong dự định đầu tư của bố mẹ cho việc
học của con cái” – Tạp chí Xã hội học số 2 – 2006.
- Luật bất bình đẳng giới ( Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa
IX, kỳ họp thứ X thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2006).
-Hoàng Bá Thịnh, Giáo trình xã hội học về giới, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.

21



×