Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

phân tích những quan điểm của đảng trong xây dựng và phát triển văn hóa hiện nay giải pháp nào để xây dựng và phát triển văn hóa việt nam trong thời kì đấy mạnh cnh, hđh và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.52 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
 

ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA HIỆN NAY. GIẢI PHÁP NÀO ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN
HĨA VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ ĐẤY MẠNH CNH, HĐH VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Môn học: Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Giảng Viên Hướng Dẫn: Đào Thị Bích Hồng

1


CÂU 1: PHÂN TÍCH NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA HIỆN NAY.
1. Xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu vừa là động

lực phát triển kinh tế - xã hội để hội nhập quốc tế
Quan điểm này xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là phấn đấu vì sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh, trong đó phải giải quyết
hài hồ giữa sự phát triển kinh tế và văn hóa, đảm bảo cho đất nước phát triển bền
vững và lâu dài. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tới vai trị của việc xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa này vừa phải là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Mọi hoạt động kinh tế phải đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát
triển, vừa phải chú ý đến hiệu quả kinh tế, vừa phải chú ý đến hiệu quả xã hội và văn
hóa. Đồng thời, phải chú trọng khai thác văn hóa như một nguồn lực đặc biệt để phát
triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển các ngành cơng nghiệp văn hóa, dịch vụ văn
hóa và du lịch văn hóa… Như vậy, văn hóa khơng phải là kết quả thụ động của nền


kinh tế mà là nguyên nhân, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
2. Nền văn hóa việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất hữu cơ giữa tính tiên
tiến và tính đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của việc tổng kết kinh nghiệm lãnh
đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần
80 năm qua. Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, Đảng ta đều đề ra phương hướng,
nhiệm vụ phát triển văn hóa, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng. Trong thời
kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã xác định nền văn
hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trình độ
tiên tiến của nền văn hóa khơng mâu thuẫn với bản sắc văn hóa dân tộc, ngược lại, hai
đặc tính thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại và quy định lẫn nhau. Tuy
nhiên, để tìm hiểu đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng
ta có thể cần làm rõ từng nội dung “tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nền văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung
cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sở của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh
phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài
hoà giữa tự nhiên với cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên với xã hội.
2


- Chủ nghĩa yêu nước là hệ thống quan niệm, tư tưởng, lý luận về địa vị và sự tồn
tại của đất nước, về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, về tinh thần yêu nước và
truyền thống đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về trách nhiệm,
quyền lợi và nghĩa vụ của người dân đối với đất nước…, trong đó, lý tưởng độc lập
dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Đây là chủ nghĩa u nước chân chính, hồn tồn xa
lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ nghĩa sôvanh nước lớn. Chủ nghĩa yêu nước

là giá trị cao nhất trong thang bậc giá trị của văn hóa Việt Nam. Nó là cơ sở để liên kết
cộng đồng và liên kết thế hệ tạo thành sức sống liên tục của truyền thống văn hóa dân
tộc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phải được nâng
lên tầm cao của thời đại và phải được bổ sung những nội dung mới gắn liền với lý
tưởng tiến bộ và cách mạng của thời đại, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
lý tưởng độc lập dân tộc phải gắn liền với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đó là con đường
phát triển vững chắc của dân tộc, con đường đảm bảo hạnh phúc của tồn thể nhân
dân. Vì vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi của nền văn
hóa Việt Nam hiện đại.
- Nền văn hóa tiến bộ là nền văn hóa thúc đẩy sự phát triển của đất nước dựa trên
tư tưởng cách mạng và khoa học dẫn đường. Đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nền văn hóa tiến bộ cũng là nền văn hóa thể hiện tinh thần nhân văn và
dân chủ sâu sắc.
Tính nhân văn thể hiện ở ngay trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây dựng nền văn
hóa mà Đảng ta đã đề ra. Đây là nền văn hóa hướng tới đấu tranh, giải phóng cho con
người, trước hết là nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột về phương diện giai cấp,
dân tộc và xã hội; phấn đấu để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ nhiều hơn
những thành tựu văn hóa của dân tộc và nhân loại. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của
Đảng đã khẳng định: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam
phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo,
có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống có văn
hóa, quan hệ hài hồ trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố
thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân
tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”5.
Tính nhân văn của nền văn hóa mà chúng ta xây dựng khơng phải là sự quan
tâm đến con người một cách chung chung trừu tượng mà là sự quan tâm cụ thể, thiết
thực, toàn diện và sâu sắc đối với con người, đối với các tầng lớp xã hội và các thành
phần dân cư khác nhau “nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát

triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá
nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên”6.
3


Tính dân chủ của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân chủ xã
hội chủ nghĩa, gắn liền với chế độ chính trị - xã hội tiến bộ “của dân, do dân và vì
dân”. Nền văn hóa này khai thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo điều kiện để
phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, đề cao trách nhiệm của công
dân trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Tính chất dân chủ của nền văn hóa thống nhất
với việc đề cao ý thức công dân, đề cao trật tự kỷ cương xã hội và thống nhất giữa
quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trước pháp luật. Đồng thời phát huy
dân chủ phải gắn liền với việc nâng cao ý thức chính trị, đạo đức xã hội và trình độ
dân trí, tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, chống lãng
phí, tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước và ngoài xã
hội. Phát huy dân chủ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước,
chống tư tưởng tự do vơ chính phủ, tự do vơ kỷ luật.
Nền văn hóa tiên tiến phản ánh trình độ phát triển cao mang tính hiện đại, cập
nhật với thành tựu văn hóa chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Bên cạnh hệ tư
tưởng tiên tiến là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các thành tố khác
của nền văn hóa Việt Nam cũng phải được hiện đại hóa. Cần phải phát triển giáo dục đào tạo, khoa học - cơng nghệ, nâng cao trình độ dân trí, khả năng chiếm lĩnh và sử
dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại để thúc đẩy
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền văn hóa mới phải tập trung xây
dựng những phẩm chất mới, xây dựng đạo đức, lối sống của con người Việt Nam hiện
đại ngang tầm với cơng cuộc đổi mới. Mặt khác, nền văn hóa Việt Nam phải tham gia
cùng cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề đặt ra trong xu thế toàn cầu hóa,
khẳng định bản lĩnh và bản sắc dân tộc trong giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Nền văn hóa tiên tiến thể hiện ở nội dung phản ánh, đó là tồn bộ sự nghiệp đổi
mới vĩ đại của dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nền văn hóa hướng tới đấu tranh

để khẳng định cái đúng, cái tốt, cái đẹp, phủ nhận cái xấu, cái ác, cái giả; góp phần
xây dựng con người phát triển toàn diện và tạo lập mơi trường văn hóa lành mạnh cho
q trình phát triển bền vững của đất nước. Đây cũng là nền văn hóa có cơ sở vật chất
- kỹ thuật hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền văn hóa dân tộc trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế.
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo,
cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia, dân tộc; là dấu hiệu cơ bản để
phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc thể
hiện tập trung trong truyền thống văn hóa dân tộc. Truyền thống văn hóa là các giá trị
do lịch sử truyền lại, được các thế hệ sau kế thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại
của mình, tạo nên dịng chảy liên tục của lịch sử văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.
4


“Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lịng nhân ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng
xử, tính giản dị trong lối sống”7. Bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở để liên kết xã hội
và liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh tinh thần của dân tộc. Vì vậy, bản sắc văn hóa
dân tộc vừa được coi là “căn cước”, vừa được coi là “bộ gien” di truyền văn hóa dân
tộc. Đứng trước sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ và sự tác động của
xu thế tồn cầu hóa, khu vực hóa, các quốc gia, dân tộc, nhất là các nước đang phát
triển đều ý thức sâu sắc việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị đặc sắc và đa dạng của văn hóa
dân tộc, chống nguy cơ bị đồng hóa. Vì vậy, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc trở thành yêu cầu khách quan và là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
Bản sắc văn hóa dân tộc là một khái niệm “động” và “mở”, mang tính lịch sử
cụ thể và vận động, đổi mới không ngừng trên cơ sở loại bỏ những yếu tố bảo thủ và

tiêu cực, tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực và tiến bộ, đồng thời tạo lập các
giá trị mới để đáp ứng với yêu cầu phát triển của thời đại. Không nên đồng nhất bản
sắc dân tộc với “cái cũ”, với quá khứ, với cái “nguyên gốc” do dân tộc mình tạo ra.
Bản sắc văn hóa dân tộc vừa bao hàm các giá trị do dân tộc mình sáng tạo ra trong quá
khứ và hiện tại, vừa bao hàm các giá trị tinh hoa của văn hóa nhân loại được dân tộc
tiếp nhận một cách sáng tạo, biến nó thành nguồn lực bên trong để xây dựng và bảo vệ
đất nước. Cũng không nên đồng nhất bản sắc văn hóa dân tộc với một số yếu tố hình
thức bên ngồi của nền văn hóa, mà đây là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức,
thống nhất giữa trình độ tư duy, tinh thần độc lập tự cường, ý chí và bản lĩnh dân tộc
với các hình thức biểu hiện bên ngồi của nó. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc trước hết cần bảo vệ và phát huy truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc,
khẳng định ý chí và bản lĩnh của con người Việt Nam hiện đại trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đồng thời bảo vệ và phát huy các tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể,
các giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh để
làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.

3. Văn hóa việt nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các

dân tộc việt nam


Tính thống nhất là gì?

Tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam là tính nhất trí với nhau, hịa
quyện bình đẳng, khơng mâu thuẫn với nhau, hợp lại thành một khối, cơ cấu tổ chức
và có sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ
Việt Nam.
5



Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng
đồng dân tộc Việt Nam có nền văn hố chung nhất.


Tính đa dạng là gì?

Tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam được thể hiện rất khác nhau giữa các lĩnh vực
phong tục tập quán, kinh tế -xã hội của cộng đồng các dân tộc. Đây là nhân tố để giữ
gìn bản sắc truyền thống của dân tộc, là điểm để phân biệt vùng này với vùng khác,
mỗi vùng có những nét riêng biệt tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, sự tiếp
thu ảnh hưởng của văn hố bên ngồi, tạo nên sự đa dạng, phong phú của vùng.


Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
dân tộc.


Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất

Đất nước ta có 54 dân tộc từ cổ chí kim đều xuất phát từ truyền thống
con lạc cháu hồng cùng chung tay góp sức tạo nên giá trị văn hóa và bản sắc văn hóa
riêng. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tổng hợp các giá trị tinh thần của dân tộc.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 đã nêu rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị
văn hóa truyền thống bền vững, những tinh hoa của những cộng đồng của các dân tộc
Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước”.
Bản sắc dân tộc: “đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh
thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng
nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động,
sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc văn hóa dân tộc cịn đậm

nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo”.
Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng dân
tộc Việt Nam có nền văn hóa chung nhất. Khơng có sự đồng hóa hoặc thơn tính, kỳ thị
bản sắc văn hóa của các dân tộc. Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những
giá trị và sắc thái văn hoá riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm
phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ
vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hố của các dân tộc anh em. Khẳng
định một truyền thống đã trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước,
54 dân tộc anh em Việt Nam đã gắn bó keo sơn, đồn kết một lịng, chung một khát
vọng độc lập, tự do, hạnh phúc, đã vượt qua mn vàn khó khăn gian khổ, hy sinh,
cống hiến to lớn về sức người, sức của, máu xương cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng
đất nước.
6


Cũng trong suốt chặng đường lịch sử đầy gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang ấy,
các thế hệ cộng đồng 54 dân tộc anh em Việt Nam đã không ngừng xây dựng, bồi đắp
nên nền văn hóa Việt nam - một nền văn hóa thống nhất, tiên tiến và đậm đà bản sắc
Việt Nam, hội tụ và hòa quyện những phẩm chất, tinh hoa văn hóa các dân tộc trong
đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Qua đó ta thấy rằng bản sắc văn hóa là tổng hợp các giá trị tinh thần sức mạnh
và sáng tạo của dân tộc ta cho giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam giữ vững được tính
thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong q trình phát triển được thể
hiện:

Bản sắc văn hóa dân tộc là những đặc trưng về văn hóa, về đời sống tinh thần
dân tộc ấy, là những nét đặc biệt, độc đáo về tinh thần, về văn hóa, về cách sống và
sức sáng tạo để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Mất bản sắc văn hóa dân tộc
tức là dân tộc bị đồng hóa chỉ cịn lại cái vỏ bề ngồi.


Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là hạt nhân của tinh thần sáng tạo của dân
tộc truyền từ đời này sang đời khác, được làm giàu thêm bằng kinh nghiệm cuộc sống
và sự sáng tạo của các thế hệ. Đó là truyền thống được tạo ra và hun đúc trong lịch sự
hình thành và phát triển của dân tộc.

Bản sắc văn hóa dân tộc còn biểu hiện cụ thể ở những giá trị văn hóa bền vững
của dân tộc Việt Nam, là tổng hợp các giá trị tinh thần của dân tộc, tiêu biểu là:


Tinh thần yêu quê hương đất nước nồng nàn.



Tinh thần đồn kết dân tộc.



Tính cộng đồng gắn kết giữa cá nhân, quê hương, Tổ quốc.


Tinh thần nhân nghĩa, nhân ái thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu
sắc của con người Việt Nam: sống có nghĩa tình, thủy chung trong gia đình với làng
xóm, với cộng đồng, yêu thương quý trọng con người, tinh thần trọng lẽ phải, yêu cái
đẹp, cái hay.


Tinh thần lao động cần cù sáng tạo của nhân dân ta.




Lối sống kinh tế, khiêm tốn, giản dị và trung thực của con người Việt Nam.



Sự tế nhị trong tâm hồn trong phong cách giao tiếp.

Vì vậy tính thống nhất văn hóa các dân tộc cịn đậm nét cả trong các hình thức
biểu hiện mang tính dân tộc độc lập, là 1 tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh
hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của cộng đồng dân tộc
Việt Nam. Chính sức mạnh và sức sáng tạo này đã giữ vững được tính thống nhất, có
7


mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với mơi trường xã hội-tự nhiên và với q
trình lịch sử dân tộc đó đã tồn tại.


Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng trong cộng đồng dân tộc

Nước Việt Nam là một nước đa dạng về sắc tộc-54 dân tộc, mỗi dân tộc người
Việt Nam có một giá trị văn hóa hồn tồn khác nhau, có những nét riêng tạo nên văn
hóa Việt Nam ngày càng đa dạng và phong phú. Và quá trình hội tụ bắt nguồn từ
những trung tâm khác nhau nên nó khơng mang tính đơn tuyến trong sự biệt lập, mà là
đa tuyến trong sự tiếp xúc đan xen nhiều chiều, tạo nên những đường đồng quy, những
cơ chế văn hóa tộc người đa thành phần.


Dân tộc Kinh:

Người Việt hay người Kinh là một dân tộc hình thành tại khu vực địa lý mà

ngày nay là miền Bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Đây là dân tộc chính,
chiếm khoảng 86,2% dân số Việt Nam và được gọi chính thức là dân tộc Kinh để phân
biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Người Kinh sinh sống trên khắp toàn thể
nước Việt Nam và một số nước khác nhưng đông nhất vẫn là các vùng đồng bằng và
thành thị trong nước.


Ngơn ngữ chính: tiếng Việt



Nhóm ngơn ngữ: Việt-Mường


Tín ngưỡng: người Việt cịn có những giá trị tâm linh như việc thờ cúng tổ tiên,
giỗ và các lễ hội như Tết. Các tôn giáo phổ biến như Phật giáo, Công giáo Rôma, đạo
Cao Đài...

Âm nhạc và văn học: Văn học của người Kinh đã từng tồn tại từ rất lâu và được
truyền miệng qua truyển cổ, ca dao, tục ngữ... Nghệ thuật phong phú như ca hát, âm
nhạc, điêu khắc, hội họa, múa, diễn xướng...

Trang phục: Trang phục Việt Nam đa dạng và muôn màu qua khăn áo, váy,
quần, khố, mũ, nón, trang sức…

Hơn nhân và gia đình: Theo truyền thống thì người đàn ơng là trụ cột gia đình.
Các đứa con đều lấy họ cha và được coi là nối nghiệp tơng đường. Dịng họ của bố là
"họ nội" còn dòng họ bên mẹ là "họ ngoại". Đứa con trai đầu thường là người giao
cho trọng trách nhiều nhất trong gia đình. Mỗi họ đều có chỗ thờ họ và người trưởng
họ sẽ lo việc chung. Hôn nhân chỉ được chấp nhận dưới dạng một chồng một vợ.

Quan hệ đồng tính hiện chưa được chính phủ chấp nhận tại Việt Nam. Việc cưới xin
thì thưởng phải đi qua các nghi thức truyền thống của người Việt.


Dân tộc Tày
8


Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam, sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi
thấp phía bắc Việt Nam. Người Tày có dân số đơng thứ 2 ở Việt Nam sau dân tộc
Kinh


Nhóm ngơn ngữ: Thái-Kađai


Tín ngưỡng: Người Tày thờ tổ tiên và bái vật giáo. Bàn thờ tổ tiên của người
Tày đặt chính giữa nhà và làm thành một không gian riêng và được cung kính hết
mực. Khách và phụ nữ trong nhà chửa đẻ không được phép ngồi hay nằm trên ghế,
giường trước bàn thờ. Trong tôn giáo của người Tày, ngày 3/3 âm lịch là ngày tảo mộ,
ngày lễ quan trọng nhất của người tày.

Âm nhạc và văn học: Hát then, hát lượn, hát sli được dùng vào các mục đính
sinh hoạt khác nhau, các thể loại dân ca nổi tiếng của người Tày. Bộ nhạc cụ như Đàn
tính, Lúc lắc. Đàn tính là loại nhạc cụ có mặt trong tất cả những sinh hoạt văn hoá tinh
thần của người Tày, như linh hồn trong nghệ thuật dân ca dân vũ Tày. Bao đời nay đàn
tính có vai trị như một phương tiện giao tiếp mang đậm bản sắc.


Trang phục: Người Tày tày vận các bộ trang phục có màu chàm.



Hơn nhân và gia đình: Gia đình người Tày thường quý con trai hơn và có qui
định rõ ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà. Vợ chồng yêu thương nhau,
ít ly hơn. Đã từ lâu khơng cịn tục ở rể.


Dân tộc Êđê

Dân tộc Êđê là dân tộc có nguồn gốc của nhóm tộc người Mã Lai, là một
cộng đồng tộc người khá thống nhất, tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Ngun.


Nhóm ngơn ngữ: Mã Lai - Polynêdi (ngữ hệ Nam Ðảo)


Tín ngưỡng: Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành được các nhà truyền giáo
phương Tây truyền vào những năm đầu của thế kỷ XX.

Âm nhạc và văn học: Người Ê Đê có kho tàng văn học truyền miệng phong
phú: thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ,… Người Ê Đê yêu ca hát, thích tấu nhạc và
thường rất có năng khiếu về lĩnh vực này. Nhạc cụ có cồng chiêng, trống, sáo, khèn,
Gơc, Kni, đàn, Đinh Năm, Đinh Tuốc là các loại nhạc cụ phổ biến của người Êđê và
được nhiều người u thích.

Trang phục: Có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục và phong cách
thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Y phục cổ truyền của
người Êđê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ.

9



Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vịng trên đầu. Y phục truyền thống gồm
áo và khố. Phụ nữ Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang phục
thường nhật. Họ mang đồ trang sức bằng bạc hoặc đồng. Vòng tay thường đeo thành
bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người quen, thân.

Hơn nhân và gia đình: Trong gia đình người Ê Đê, chủ nhà là phụ nữ, theo chế
độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được hưởng thừa kế. Đàn ông cư trú
trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ khơng cịn ai thay thế theo tục nối dây thì
người chồng phải về với chị em gái mình.
Tóm lại, văn hóa cộng đồng dân tộc Việt Nam đa dạng và phong phú. Văn hóa
Việt Nam dưới quan niệm là văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa sắc thái văn hóa
tộc người được thể hiện ở ba đặc trưng chính:

Đặc trưng thứ nhất: Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên
tất cả các khía cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc anh em có những phong
tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng,
những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác
nhau của tơn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ
truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật.

Đặc trưng thứ hai: Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân
tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hố có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam.
Từ cái nơi của văn hóa Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng của người Việt chủ đạo với
nền văn hóa làng xã và văn minh lúa nước, đến những sắc thái văn hóa các dân tộc
miền núi tại Tây bắc và Đông bắc. Từ các vùng đất biên viễn của Việt Nam thời dựng
nước ở Bắc Trung bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chăm Pa của người Chăm ở Nam
Trung Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các tộc người
Hoa, người Khmer đến sự đa dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây Ngun.


Đặc trưng thứ ba: Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng
với những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người Việt cổ từ
thời Hồng Bàng đã ảnh hưởng từ bên ngồi trong trong hàng nghìn năm nay. Với
những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng
của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt
Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh
mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt
Nam hiện đại.



Tính thống nhất và đa dạng của văn hóa Việt Nam hiện nay.

10


Người ta nói thế kỷ XXI là thế kỷ của văn hóa, thế kỷ của xã hội tri thức, của
tồn cầu hóa và đưa ra nhiều kịch bản khác nhau: văn hóa và phản văn hóa, đối thoại
và xung đột. Nhân loại đang cổ vũ cho sự đa dạng văn hóa và đối thoại văn hóa để xây
dựng một nền văn hóa của tồn hành tinh với tất cả những bản sắc văn hóa khác nhau
của các cộng đồng.
Với tình hình đó, Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 vừa đáp ứng những đòi hỏi
bức xúc của cuộc sống, vừa là định hướng chiến lược cơ bản cho sự nghiệp xây dựng,
cũng cố và không ngừng tăng cường nền tảng tinh thần xã hội văn hóa trên con đường
phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”.
Với quyết tâm đó, tồn Đảng, toàn dân ta ra sức phấn đấu để tổ quốc ta mãi mãi là
quốc gia văn hóa, dân tộc ta là một dân tộc văn hóa, nền văn hóa nước ta khơng ngừng
phát triển, xứng đáng với tầm vóc dân tộc ta trong lịch sữ và trong thế giới hiện đại.
Quán triệt quan điểm của Đảng về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt

Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, những năm gần đây, nền văn hóa dân tộc đã
đạt đ¬ược những bư¬ớc phát triển đáng kể: các giá trị văn hóa của hơn 50 dân tộc
đư¬ợc kế thừa và phát triển; giao l¬ưu, hợp tác văn hóa với n¬ước ngồi đư¬ợc mở
rộng; một số nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con ngư¬ời Việt Nam từng bư¬ớc
đ¬ược hình thành; nhiều di sản văn hóa đ¬ược giữ gìn, tơn tạo; các phong trào “đền
ơn đáp nghĩa”, “uống nư¬ớc nhớ nguồn”, “lá lành đùm lá rách” phát triển rộng
khắp…, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng của quần
chúng nhân dân, góp phần tích cực vào cơng cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, mặt trái của cơ chế thị
trư¬ờng, xu thế xâm lăng văn hóa đã tác động tiêu cực đến tư¬ t¬ưởng, đạo đức, lối
sống của một bộ phận quần chúng nhân dân. Công tác quản lí các lĩnh vực hoạt động
văn hóa, t¬ư t¬ưởng cịn những biểu hiện buông lỏng, né tránh. Một số lĩnh vực: báo
chí - xuất bản, văn học - nghệ thuật, giáo dục - đào tạo bị khuynh hư¬ớng “thư¬ơng
mại hóa” chi phối, hoạt động xa rời tơn chỉ, mục đích. Những yếu tố tiêu cực này đặt
nền văn hóa Việt Nam ngày nay đối mặt nguy cơ phai nhạt bản sắc dân tộc, thốt li
nền tảng hệ tư¬ t¬ưởng chủ nghĩa Mac-Lenin, tư t-ưởng Hồ Chí Minh, từng b¬ước bị
thay thế bằng các hệ tư¬ tư¬ởng tư¬ sản, hình thành quan điểm, tư tưởng, lối sống
theo kiểu phương Tây.
Và đứng trước tình hình đó, mỗi người dân Việt Nam và đặc biệt là thế hệ
thanh niên, trí thức trẻ càng phải nhận thức được vai trò của bản thân trong xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng
đã đề ra. Chúng ta hãy cố gắng học tập, rèn luyện bản thân thật tốt để mỗi người đều
trở thành một bơng hoa đẹp có ích, qua đó thể hiện được bản sắc văn hoá dân tộc

11


trong từng lời nói, hành động. Làm được điều đó có nghĩa là chúng ta đã góp phần xây
dựng hình ảnh đất nước Việt Nam thân thiện và đẹp đẽ trong mắt bạn bè quốc tế.

4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh đạo,

đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng
Ở Việt Nam, đội ngũ trí thức hiện đại chủ yếu xuất thân là con em nông dân, công
nhân, hoặc được hình thành trong q trình trí thức hố giai cấp công nhân và nông
dân. Đây là một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức Việt Nam so với giới trí thức của
nhiều nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Nhìn chung, chỉ có một
số rất ít trong số trí thức được thừa hưởng truyền thống của các gia đình trí thức lâu
đời. Đặc điểm đó đã tạo cho giới trí thức nước ta một ý thức gắn bó sâu sắc với nhân
dân lao động, thông cảm với người lao động vất vả, cực nhọc, với hoàn cảnh nghèo
nàn, lạc hậu của đất nước, thiết tha mong muốn xây dựng nước ta thành một quốc gia
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có thể sánh vai với các
nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới. Từ thực tiễn lịch sử cũng có thể thấy, giới
trí thức Việt Nam nhận thức rõ rằng: chỉ có sát vai cùng giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và nhân dân lao động nói chung mới có thể giải phóng cho họ, xóa được
nghèo nàn, lạc hậu và xây dựng, phát triển đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã nhận thức rõ và đánh giá cao vai trò, vị trí của
đội ngũ trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây
dựng đất nước. Ngay từ những ngày đầu của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa,
Người đã từng nói: "Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến
rất quý báu cho Đảng. Khơng có những người đó thì cơng việc cách mạng khó khăn
thêm nhiều". Trả lời các nhà báo nước ngồi về vai trị, vị trí của đội ngũ trí thức trong
nhận thức, chính sách của Chính phủ cũng như trong thực tiễn cách mạng ở Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định : "Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. ở
nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực là trong cuộc kháng chiến
cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung một phần quan trọng. Một số
thì trực tiếp tham gia vào cơng việc kháng chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh
với bộ đội nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngồi"
Bản thân Hồ Chí Minh là một trí thức yêu nước đi làm cách mạng. Người đã hết
sức trọng dụng tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc, tạo điều kiện cho họ được cống

hiến, được thể hiện đầy đủ nhất tài năng, vai trò và trách nhiệm của mình trong sự
nghiệp chung của tồn dân. Hàng loạt trí thức trẻ - những học sinh, sinh viên yêu
nước, giác ngộ cách mạng đã có mặt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo trung kiên, giữ
những vị trí quan trọng trong bộ máy Đảng, Nhà nước trong quá trình cách mạng giải
phóng dân tộc như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Đức Cảnh,
Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, v.v.. Nhiều trí
thức trưởng thành trong nước hay từ nước ngồi trở về như: Hồ Đắc Di, Đặng Văn
12


Ngữ, Tạ Quang Bửu, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Nghiêm Xuân Yêm, Trần
Đại Nghĩa, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng, Phạm Huy Thông, Trần Duy Hưng,
Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Cù Huy Cận, Xuân Diệu v.v.. đã đi theo cách mạng
ngay từ những ngày đầu độc lập, sẵn sàng chịu đựng những thử thách khó khăn, gian
khổ, hy sinh trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, đóng góp tài năng, trí tuệ cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc, dành độc lập, tự do cho đất nước. Ngay cả trong Chính
phủ lâm thời năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã mời các nhân sĩ trí thức không
phải là đảng viên Đảng Cộng sản tham gia và giữ những trọng trách như: Huỳnh Thúc
Kháng, Phan Kế Toại, Phan Anh, v.v..
Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước đến nay đều luôn nhấn mạnh quan điểm nhất
quán là lấy "liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
làm nịng cốt" của cách mạng. Điều này được thể hiện trong Chính cương, Điều lệ
Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta và nhiều văn kiện khác
5. Khẳng định vị trí của trí thức trong xây dựng phát triển văn hóa

Trong lịch sử vận động cơ cấu xã hội, trí thức chưa bao giờ trở thành một giai cấp
mà chỉ tập hợp thành một tầng lớp xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dấu hiệu quan trọng nhất để xác định giai cấp đó là khả năng đại diện cho một
phương thức sản xuất và phải có hệ tư tưởng độc lập. Nhưng trong phân công lao
động xã hội, trí thức khơng có quan hệ sở hữu riêng và trực tiếp đối với tư liệu sản

xuất, do đó khơng có khả năng đại biểu cho phương thức sản xuất nào cả. Do đó, trí
thức khơng phải là giai cấp, mà chỉ "là một tầng lớp đặc biệt" trong xã hội. Do đặc
điểm lao động của mình, tầng lớp trí thức ln phải gắn với những giai cấp nhất định
và thường là giai cấp thống trị. Bởi vì, trong mỗi một thể chế chính trị cụ thể, trí thức
nói chung là do chính hệ thống giáo dục và đường lối đào tạo của nhà nước của giai
cấp thống trị ấy tạo ra nhằm phục vụ cho các mục đích của mình. Tầng lớp này có xu
hướng phục vụ cho chế độ và giai cấp thống trị. Ngược lại, việc phục vụ cho chế độ và
giai cấp thống trị là điều kiện cần thiết để bảo đảm sự tồn tại và những lợi ích của họ.
Tuy nhiên, qua q trình đấu tranh giai cấp và tác động nhiều mặt, tầng lớp trí thức
phân hóa thành những bộ phận khác nhau. Những bộ phận khác nhau đó sẽ ngả theo
lực lượng này hay lực lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác trong xã hội.
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vai trị của trí thức rất lớn. C.
Mác - Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin trên cơ sở tổng kết lịch sử xã hội loài người và thực
tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, đã đánh giá
cao vai trị, vị trí của tầng lớp trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp cơng nhân chỉ có thể hoàn thành sứ
mạng lịch sử toàn thế giới của mình khi liên minh với các giai cấp và tầng lớp lao

13


động khác mà trước hết là với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và lãnh đạo họ tiến
hành cuộc đấu tranh cách mạng.
Trong xu thế phát triển của nhân loại nói chung và của nền kinh tế tri thức nói
riêng hiện nay, lao động trí óc đang ngày càng chiếm ưu thế, lao động chân tay đang
thu hẹp dần. Nhiều quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội được tự động hóa, tin
học hóa, địi hỏi người sản xuất phải có trình độ tri thức, chuyên môn cao, làm việc
theo phương thức sáng tạo. Do vậy, tầng lớp trí thức đang phát triển nhanh chóng và
chắc chắn sẽ trở thành bộ phận dân cư lớn, khơng những về số lượng mà cả vai trị,
sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến diễn tiến chính trị, kinh tế, xã hội. Đồng thời, họ sẽ là

những người tạo ra phần lớn nhất của cải xã hội.
Mặt khác, trong nền kinh tế tri thức, ranh giới của tầng lớp trí thức với các giai
cấp, tầng lớp khác trong xã hội cũng khơng cịn tách biệt rõ ràng như trước đây. Đã
xuất hiện những bộ phận của giai cấp công nhân, nơng dân và của các tầng lớp khác
được trí thức hóa, lao động theo những đặc điểm của lao động trí thức. Chính vì thế,
quan niệm về trí thức và giới trí thức cũng đã thay đổi, khơng cịn ngun nghĩa như
trước đây, khi mà công nghệ thông tin chưa ra đời.
Cho dù quan niệm về trí thức có thể thay đổi do sự vận động của các điều kiện lịch
sử xã hội, thì trong xã hội thời nào cũng vậy, tầng lớp tri thức đều có 5 vai trị chủ yếu
là:
- Tiếp thu và truyền bá tri thức;
- Sáng tạo các giá trị mới của tri thức;
- Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách và biện pháp giải
quyết các vấn đề của xã hội;
- Dự báo phát triển và định hướng dư luận xã hội;
- Tham gia gián tiếp và trực tiếp vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Cùng với những vai trò quan trọng kể trên, tầng lớp trí thức cịn là bộ phận
người rất nhạy cảm, có uy tín lớn cũng như tầm ảnh hưởng rộng trong xã hội. Những
đặc điểm này của trí thức là do những điều kiện khách quan và vị trí của tầng lớp trí
thức trong xã hội. Trước hết, đây là bộ phận người có trình độ học vấn cao nhất của xã
hội. Họ cũng là những người có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận sớm nhất,
nhiều nhất, nhanh nhất những thơng tin xã hội. Những lời nói, hành vi của một cá
nhân trí thức, đơi khi có thể ảnh hưởng lớn đến dư luận xã hội, thậm chí có thể tạo nên
những phản ứng phức tạp liên quan đến an ninh trật tự của một địa phương hoặc cả
nước.

14


Hoạt động của tầng lớp trí thức ngày nay ngày càng gắn bó với thị trường. Kết

quả lao động của trí thức, dưới những hình thức khác nhau đều trở thành hàng hóa.
Ngay cả chất xám của trí thức cũng dần dần bị chi phối, tác động bởi những quy luật
thị trường. Đến lượt nó, sự nảy nở của ý thức thị trường lại kích thích hoạt động sáng
tạo của trí thức, góp phần cho sự phát triển của xã hội và giúp cải thiện đời sống của
họ.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức và sự tác động của cơ chế thị
trường, vai trị chính trị, vị trí xã hội, địa vị kinh tế của tầng lớp trí thức cũng đang
thay đổi nhanh chóng. Họ khơng còn chỉ là người tham mưu, đứng bên lề các tiến
trình kinh tế, xã hội, mà đã trực tiếp tham gia và giữ vai trị quan trọng trong các tiến
trình đó. Vì thế, quan niệm về giá trị trong tầng lớp trí thức ngày càng đa dạng hóa,
giàu tính hiện thực hơn.
Như vậy, xét từ tất cả các bình diện như đặc điểm, vai trị, vị trí xã hội đều có
thể thấy rằng, việc xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức khơng chỉ có ý nghĩa to lớn
trong việc bảo đảm nguồn lực con người cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, mà nó cịn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong toàn bộ chiến lược xây dựng
và phát triển đất nước.
6. Văn hóa là một mặt trận xây dựng và phát triển văn hóa là một sự kiện cách

mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng, sự kiên trì và thận trọng
Trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, khắp các chiến trường ác liệt, lúc nào cũng có mặt những chiến sĩ văn hóa những chiến sĩ kiên cường, dũng cảm, "lấy cơng tác tư tưởng văn hóa làm trận địa,
làm vũ khí để sáng tạo nên những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật làm rung động lịng
người, cổ vũ tinh thần chiến đấu và sản xuất, ý chí quyết chiến, quyết thắng của nhân
dân ta và làm tan rã hàng ngũ kẻ thù". Trên mặt trận văn hóa, những nhà văn hóa,
nghệ sĩ - chiến sĩ khơng chỉ đóng góp tài năng sáng tạo, tình cảm và sức lực mà còn
bằng cả sự hy sinh xương máu trên chiến trường. Hàng nghìn chiến sĩ văn hóa đã ngã
xuống vì sự nghiệp văn hóa kháng chiến, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc. Đầu
năm 1969, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đánh giá cao những
thành tựu sáng tạo của văn nghệ trong cao trào chống Mỹ, cứu nước: "Trong các tác
phẩm văn học, nghệ thuật của cả hai miền ca ngợi những sự tích anh hùng của quân và

dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đã nổi lên một số tác phẩm có giá
trị góp phần giáo dục sâu sắc chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Rõ ràng cuộc kháng chiến vĩ đại của toàn dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược và cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc đã đưa văn học, nghệ thuật vào thời kỳ phát
triển mới với một sắc thái mới".

15


Cùng với các mặt trận khác, mặt trận văn hóa đã góp phần thể hiện tính ưu việt của
hậu phương xã hội chủ nghĩa trong chiến tranh - một hậu phương không hề bị rối loạn,
hoang mang và nao núng trước sự đánh phá ác liệt của kẻ thù, một hậu phương mà ở
đó mọi người thương yêu, đùm bọc nhau trong gian khổ, hoạn nạn và thử thách, là
niềm tin, nguồn cổ vũ, thôi thúc cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền nam ngày đêm
chiến đấu.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần căm thù giặc đã khơi nguồn cho những sáng tạo
văn hóa, nghệ thuật đầy sức sống chiến đấu, tạo nên một thời kỳ sôi động nhất của
hoạt động văn hóa trong cả nước.
Bước vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã chỉ rõ cơng tác
văn hóa, văn nghệ có một vai trị trọng yếu trong việc giáo dục lòng căm thù bọn xâm
lược Mỹ và bè lũ tay sai, cổ vũ tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, giáo dục
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bồi dưỡng khả năng sản xuất và chiến đấu của nhân
dân, nâng cao sinh hoạt tinh thần của quần chúng, xây dựng một nền văn hóa xứng
đáng với nhân dân ta, phục vụ sự nghiệp vĩ đại chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Trong khói lửa của chiến tranh ác liệt, nhân dân ta đã dấy lên phong trào "Tiếng hát át
tiếng bom" với niềm lạc quan vượt qua mọi khó khăn gian khổ, với niềm tin mãnh liệt
vào sự tất thắng của cuộc kháng chiến của dân tộc. Những chiến sĩ trên lĩnh vực âm
nhạc lại lên đường ra mặt trận, đến những chiến hào, trận địa pháo phịng khơng, đến
những điểm nóng của cuộc sống chiến đấu và sản xuất, sáng tạo nên những tác phẩm
xuất sắc. "Người người đều hát", "Nhà nhà đều hát"; các nghệ sĩ hát cho bộ đội nghe

giữa hai trận đánh, bên bờ công sự, bên mâm pháo, dưới dàn tên lửa, dưới hầm sâu địa
đạo... Những bài hát bắt nguồn từ đề tài cuộc sống chiến đấu phong phú, sinh động
như phong trào thi đua "Mỗi người làm việc bằng hai", "Ba sẵn sàng" trong thanh
niên, "Ba đảm đang" trong phụ nữ, "Tay búa, tay súng" trong công nhân, "Nhằm thẳng
quân thù mà bắn"... thật sự là những tác phẩm có tác dụng giáo dục lịng căm thù đối
với bọn xâm lược và bè lũ tay sai, góp phần động viên sức người, sức của, tất cả cho
tiền tuyến lớn miền Nam, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Ở miền Nam, khi chiến tranh đặc biệt đã chuyển thành chiến tranh cục bộ, có sự
tham chiến của quân Mỹ với quy mô lớn, học sinh, sinh viên đã dấy lên phong trào ca
hát sử ca và một số bài hát kháng chiến thời chống Pháp. Và đến cuối năm 1969, trong
đêm văn nghệ vì hịa bình tổ chức tại Trường đại học Nơng - Lâm - Súc Gài Gòn, đã
xuất hiện phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe của sinh viên lấy văn nghệ làm vũ khí
đấu tranh chống lại thủ đoạn của địch dùng văn hóa mang vỏ hình thức dân tộc lừa mị
nhân dân. Phong trào phát triển rộng ra các thành phố lớn ở miền Nam, đã khơi dậy
lòng yêu nước của đồng bào ta ở trong vùng địch, nhất là tầng lớp thanh niên trí thức
tiến bộ. Phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe đã thực hiện được sứ mệnh vẻ vang của
lực lượng xung kích trên mặt trận văn nghệ đấu tranh ngay trong vùng địch và đã có
những cống hiến xứng đáng cho nền âm nhạc đương đại nước ta.
16


Cùng với phong trào Tiếng hát át tiếng bom, phong trào đọc sách có hướng dẫn
cũng trở thành hoạt động nổi bật trên mặt trận văn hóa trong thời kỳ này. Những nhà
văn, nhà thơ đủ các thế hệ đã bám sát thực tế sản xuất và chiến đấu, sáng tạo nên
những tác phẩm đi vào lòng người, mang ý nghĩa nhân văn và cách mạng, góp phần
động viên, cổ vũ nhân dân ta nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm
bảo vệ miền bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc...
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta coi xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
nhưng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát kinh tế - xã hội. Tổng kết chặng đường mười năm đổi mới, Đảng ta rút ra

một số bài học chủ yếu, trong đó khẳng định bài học: "Xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với
tiến bộ và cơng bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ mơi
trường sinh thái"(Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII)
Trước khi có chính sách đổi mới, đất nước ta trải qua một thời kỳ tiến hành cơ chế
tập trung bao cấp. Trong bối cảnh đó, trên một trận văn hóa, các hoạt động văn hóa,
nghệ thuật đã đi vào quỹ đạo và định hướng của Nhà nước. Mọi hoạt động văn hóa,
nghệ thuật từ sản xuất, truyền bá đến tiêu dùng đều do Nhà nước quản lý, điều hành
bằng những kế hoạch mạng tính hành chính, mệnh lệnh và được bao cấp. Phải thừa
nhận rằng, trong thời kỳ này, văn hóa, nghệ thuật được sự quản lý của Nhà nước đã
góp sức trong việc xây dựng sự nhất trí cao về tinh thần và chính trị của cộng đồng xã
hội. Tuy nhiên, cơ chế tập trung bao cấp mặc nhiên đã làm cho các hoạt động văn hóa,
nghệ thuật trở nên thiếu linh hoạt, thụ động, chưa phát huy được sự năng động sáng
tạo của quần chúng, từ các khâu sáng tạo, truyền bá đến tiêu dùng.
Trải qua gần 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn về
mọi mặt có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa
của nhân dân khá hơn trước.
Cơ chế thị trường đã tác động vào các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có văn
hóa, nghệ thuật. Trong tiến trình đổi mới, ở mặt tích cực, cơ chế thị trường đã khơi
dậy, thúc đẩy phát triển nhiều tiềm năng văn hóa, nghệ thuật, thoả mãn nhu cầu ngày
càng đa dạng, phung phú của các tầng lớp quần chúng. Cơ chế thị trường đã biến đổi
các hoạt động văn hóa, nghệ thuật trở nên sinh động, sáng tạo với những nội dung hấp
dẫn, hình thức, thể loại nhiều màu vẻ, thoả mãn thị hiếu của quần chúng. Các sản
phẩm văn hóa, nghệ thuật xuất hiện trên thị trường đã tăng gấp bội. Các tác phẩm văn
học, nghệ thuật trong nước cũng như nước ngoài được xuất bản ngày càng nhiều, đa
dạng, phong phú. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật trên các lĩnh vực hội hoạ, sân
khấu, điện ảnh, truyền thanh, truyền hình, biểu diễn nghệ thuật, lễ hội quần chúng, câu
lạc bộ, thể dục, thể thao... cùng tăng trưởng, tạo thêm sinh khí và sắc thái văn hóa
17



trong đời sống xã hội. Đặc biệt, các phong tục tập quán, các lễ hội dân gian truyền
thống ngày càng được khôi phục và phát triển.
Hướng vào mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, nhiều địa phương đã thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng
làm, phát huy sức mạnh của nhân dân, phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc để
xây dựng đời sống văn hóa. Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa, phong trào văn nghệ quần chúng được duy trì và được đơng đảo quần chúng tham
gia. Lịng u nước, ý thức tự hào dân tộc, nghĩa đồng bào đã được phát huy bằng
những phong trào xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, hướng về cội nguồn, về
cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hóa...
Cũng chính từ phong trào quần chúng mà nhiều cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa
được xây dựng từ thời bao cấp đã sống lại. Lễ hội truyền thống được khôi phục và
phát triển, hàng nghìn di tích lịch sử và văn hóa được nhân dân bảo vệ và tơn tạo.
Chính trong khó khăn, thử thách đã xuất hiện nhiều mơ hình, hình thức hoạt động văn
hóa mới. Các hình thức hoạt động kinh tế trong văn hóa phát triển, như kinh doanh,
dịch vụ, tạo nguồn tài trợ; các đơn vị nghệ thuật cải tiến công tác tổ chức biểu diễn,
tăng mức doanh thu; các cơ sở in đầu tư phát triển công nghệ phục vụ tốt khách
hàng... Đội ngũ cán bộ văn hóa, nghệ thuật cũng năng động, sáng tạo để thích nghi với
hồn cảnh.
Tuy nhiên, trong bước đầu của cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
các hoạt động văn hóa, nghệ thuật đã phát sinh và hình thành khuynh hướng thương
mại hóa, chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận quần chúng để kinh doanh,
sinh lợi. Tình trạng tự phát đã gây nhiều tác hại, thúc đẩy quá trình sa sút, xuống cấp
của đạo đức xã hội và chứa đựng nguy cơ làm băng hoại giá trị văn hóa dân tộc.
Ngày nay, khi đất nước chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước sự phát triển của cách mạng, trên mặt trận văn hóa,
vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
trở thành yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

trong bối cảnh kinh tế thị trường có mặt tích cực là đẩy mạnh sự phát triển kinh tế và
xã hội, tạo thêm nhiều giá trị văn hóa mới làm giàu thêm bản sắc văn hóa Việt Nam,
nhưng đồng thời cũng nảy sinh những mặt tiêu cực và phức tạp. Việc giao lưu quốc tế
mở rộng hơn trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh sự hội
nhập những tinh hoa văn hóa thế giới cịn kéo theo nhiều sản phẩm văn hóa độc hại
ảnh hưởng xấu đến truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Mặt khác, các thế lực
thù địch tiến hành âm mưu diễn biến hịa bình, đặc biệt trên mặt trận văn hóa - tư
tưởng, chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Bởi vậy, bảo vệ và phát huy
bản sắc văn hóa Việt Nam trở thành một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, góp phần
tạo ra thế đứng vững chắc của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc giao lưu văn
hóa quốc tế là lẽ đương nhiên, không thể bảo vệ văn hóa dân tộc bằng cách đóng kín
18


cửa mà ngược lại mở rộng giao lưu văn hóa quốc tể để chúng ta tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, bồi bổ cho bản sắc văn hóa Việt Nam. Điều đáng bàn nhất hiện nay là
tiếp thu cái gì và tiếp thu như thế nào... Bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và
tiếp thu văn hóa nhân loại là hai mặt thống nhất của một vấn đề, trong đó phải lấy bản
sắc văn hóa Việt Nam làm nền tảng, làm "bộ lọc" cho sự tiếp thu. Giữ vững được định
hướng đó mới xây dựng được một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong
thời hiện đại.
Trên mặt trận văn hóa, để làm sáng tỏ bản sắc văn hóa Việt Nam, việc tìm ra ranh
giới giữa tinh hoa và các yếu tố lạc hậu trong văn hóa truyền thống là cần thiết. Tinh
hoa văn hóa có tính bền vững truyền đời này sang đời khác, sống mãi với một dân tộc.
Nhưng cũng do hạn chế của từng thời kỳ lịch sử, văn hóa quá khứ cũng chứa đựng
những yếu tố lạc hậu trở thành lực cản của sự phát triển văn hóa dân tộc. Có một điều
cần nhận thấy : tinh hoa văn hóa dân tộc có sức bền vững thì mặt trái của văn hóa quá
khứ cũng có sức bền vững của nó. Chúng ta khơng lấy gì làm ngạc nhiên khi bng
lỏng quản lý văn hóa trong cơ chế thị trường thì mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo
điều kiện cho sự phát triển nhanh chóng những mặt trái của văn hóa quá khứ như các

hủ tục, lệ làng, mê tín dị đoan, cách nhìn tiểu nơng, lối sống lạc hậu..., những yếu tố
tiêu cực ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng văn hóa khi bước vào cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Vì đều nằm trong khn khổ của văn hóa q khứ nên việc tìm ra
ranh giới này không phải là đơn giản, dễ nhầm lẫn hoặc rơi vào tình trạng máy móc
làm tổn hại đến văn hóa dân tộc. Song việc xác định ranh giới đó lại là cần thiết, nhằm
góp phần làm sáng rõ bản sắc văn hóa Việt Nam.
Trên mặt trận văn hóa, bản sắc văn hóa Việt Nam đang đứng trước nguy cơ và
thách thức của nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Cơ chế thị trường như một đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển xã hội, nhưng về mặt
khách quan, kinh tế thị trường với sức mạnh tự phát của nó đã khuyến khích chủ nghĩa
cá nhân, lối sống thực dụng chạy theo lợi ích vật chất mà coi nhẹ giá trị tinh thần, chỉ
chú ý đến lợi ích cá nhân trước mắt, mà coi nhẹ lợi ích cộng đồng lâu dài. Sau một
thời gian phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, đất nước đạt được những thành tựu
to lớn, nhưng mặt trái của kinh tế thị trường đã gây cho chúng ta nhiều mối lo ngại.
Cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước càng được đẩy mạnh, mặt trái của
cơ chế thị trường càng có cơ hội phát triển. Trên mặt trận văn hóa, điều gây nên mối
quan tâm, lo lắng của toàn xã hội là sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức xã hội.
Lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền thực sự đã tàn phá truyền thống đạo đức tốt
đẹp của người Việt Nam, huỷ hoại mối quan hệ giữa con người với con người, giữa
thành viên trong gia đình, xóm làng, ngõ phố..., tệ nạn xã hội và những hủ tục mê tín
dị đoan phát triển, văn hóa phẩm độc hại, kích động bạo lực và tình dục lan tràn.
Trong sáng tác và lý luận phê bình cũng phát sinh những khuynh hướng sai lầm, lệch
lạc như phủ nhận quá khứ, phủ nhận những thành tựu cách mạng và văn hóa, văn nghệ
19


cách mạng, tách văn nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, thương mại hóa hoạt động
văn hóa, văn nghệ...
Kinh tế và văn hóa tác động qua lại lẫn nhau nhằm thúc đẩy xã hội phát triển. Mục
tiêu mà Đảng ta đề ra là "dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh".

Đó là mục tiêu kết hợp các nhân tố kinh tế, xã hội và văn hóa trong q trình phát
triển. Khơng thể xây dựng một xã hội văn minh với nền kinh tế lạc hậu, thấp kém và
ngược lại có được một nền kinh tế phát triển nhưng thiếu văn minh thì khơng phải là
một xã hội tiến bộ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để kinh tế và văn hóa được phát triển
hài hịa trong xã hội ta, để kinh tế khơng phá hoại văn hóa và văn hóa khơng cản trở
kinh tế; làm thế nào để kinh tế thị trường và đời sống tinh thần, đạo đức xã hội không
trở thành mâu thuẫn.
Giờ đây, trước địi hỏi của cơng cuộc đổi mới tồn diện, đẩy mạnh cộng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, quán triệt quan điểm chỉ đạo cơ bản "văn hóa là một mặt
trận", đơng đảo nghệ sĩ đã trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, ra sức xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, vững vàng trước những biến đổi của thời cuộc và những khó
khăn của đời sống, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân, làm nên những tác
phẩm có giá trị, giàu sức sống, góp phần đắc lực vào việc xây dựng con người mới, xã
hội mới, tiếp tục thực hiện sứ mệnh nghệ sĩ chiến sĩ trên mặt trận văn hóa

CÂU 2: GIẢI PHÁP NÀO ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HĨA VIỆT
NAM TRONG THỜI KÌ ĐẤY MẠNH CNH, HĐH VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ?
Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum,
Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc
này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên: Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho, Rơmăm, Êđê,
Giarai... Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, là tiếng
nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống,
trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.
Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc
đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng khơng núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường
kính từ 20cm đến 60cm, loại cực đại từ 90cm đến 120cm. Cồng chiêng có thể được
dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi từ 18
đến 20 chiếc.
Cồng chiêng Tây Nguyên là loại nhạc cụ độc đáo, đặc sắc và đa dạng. Các dàn
cồng chiêng Tây Nguyên lấy thang bồi âm tự nhiên làm cơ sở để thiết lập thang âm

của riêng mình. Trong đó, mỗi biên chế của từng tộc người đều cấu tạo bởi thang 3
âm, 5 âm hay 6 âm cơ bản. Song, cồng chiêng vốn là nhạc cụ đa âm, bên cạnh âm cơ
20


bản bao giờ cũng vang kèm một vài âm phụ khác. Thành thử trên thực tế, một dàn 6
chiêng sẽ cho ta tối thiểu 12 âm hay nhiều hơn nữa. Điều đó lý giải tại sao âm sắc
cồng chiêng nghe thật đầy đặn và có chiều sâu.
Về nguồn gốc, theo một số nhà nghiên cứu, cồng chiêng là "hậu duệ" của đàn
đá. Trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá, chiêng
đá... tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng... Từ thuở sơ khai, cồng chiêng
được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng - là phương
tiện giao tiếp với siêu nhiên... Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh
đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu.. .
hay trong một buổi nghe khan... đều phải có tiếng cồng chiêng như là thứ để nối kết
những con người trong cùng một cộng đồng.
Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều
ẩn chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Cồng
chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Vào những
ngày hội, hình ảnh những vịng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò
rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không
gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp phần tạo nên những sử thi, những
áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.


Chủ trương của Đảng và nhà nước về vấn đề nghiên cứu văn hóa cơng chiêng
Tây Ngun

Bộ VHTT được công văn của Đảng và Nhà nước đã lập hồ sơ gửi đề nghị Công
chiêng Tây nguyên là kệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại lên UNESSCO.

Hồ sơ Công chiêng Tây nguyên là kệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại
sễ hồn tất chậm nhấ vào ngày 15/9/2005 trình lại cho chính phủ và đã dược
UNESSCO cơng nhận vào ngày 15/12/2005 phát triển cần phải đẩy mạnh công tác
sưu tầm , ghi chép lại các bài chiêng , sinh hoạt văn hóa âm nhạc của cơng chiêng để
lưu giữ , bảo tồn và phát huy lâu dài.
Tiếp tục nghiên cứu khoa học về cơng chiêng và văn hóa cơng chiêng 1 cách hệ
thống và toàn diện ở 5 tỉnh Tây Nguyên
Phục hồi gì giữ các sinh hoạt văn hóa các lễ hội gắn với vòng đời người va
vòng đời cây trồng ở cac công đồng thiểu số tây nguyên đẻ tạo moi trường diễn xướng
và sinh hoạt
Từng bước xây du85ng phòng lưu trữ di sản văn hóa cơng chiêng tại trung tâm
dữ liệu di sản văn hóa ( viện văn hóa-thơng tin) và tại các bảo tàng

21


Xây dựng chiến lược lâu dài cho phục hồi bảo tịn và phát huy đồng thời đẩy
mạnh cơng tác đào tạo cho các thế hệ sau.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phải
luôn đi kèm với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắcdân tộc. Sở dĩ cần
phải xây dựng một nền văn hóa tiên tiến để chúng ta không tụt hậu so với thế giới đặc
biệt là nhưng nền văn hóa đậm bản sắc dân tộc , nhưng cần giữ vững bảnsắc văn hóa
của dân tộc để khơng bị mất đi những giá trị đích thực của dân tộc ta.Mỗi dân tộc trên
thế giới có nền văn hóa của riêng mình. Khi tất cả đã mất, văn hóa là cái sẽ cịn lại, và
nó là cái để phân biệt dân tộc này với dân tộc kia. Vì vậy, nếu chúng ta đánh mất bản
sắc văn hóa dân tộc mình, có khác gì chúng ta là những người mất nước ? Việc giữ
vững văn hóa dân tộc thể hiện bản ngã của dân tộc, và làm cơ sở để khẳng định vị trí
của dân tộc trên thế giới.Nói như vậy khơng có nghĩa là chúng ta cứng nhắc giữ riêng
văn hóa của mình mà bài trừ hồn tồn những nét đẹp trong văn hóa của các quốc gia
khác. Cần tiếp thu một cách có chọn lọc văn hóa của họ, và biến nó thành văn hóa của

riêng mình. Là thành cơng khi chúng ta hịa nhập mà khơng hịa tan.


Thực Trạng Văn Hóa Cồng Chiêng Từ Xưa Đến Nay

Qua công tác điều tra, tổng kiểm kê Cồng chiêng toàn tỉnh Đắk Lắk đến năm
1993 đã thống kê được 4.675 bộ cồng chiêng, năm 2003 thống kê được 3.825 bộ (so
với năm 1993 thì mất 850 bộ cồng chiêng). Hiện nay có khoảng 3.375 bộ chiêng đủ,
trong đó: dân tộc Êđê 2680 bộ, M’Nơng có 627 bộ, Giarai 68 bộ, tập trung nhiều ở các
huyện Krông Ana, Lắk, CưM’gar, Bn Đơn... Có nhiều bộ cồng chiêng q được giữ
gìn hàng chục đời nay, đã từng có giá trị bằng hàng chục con trâu bò.
Những năm gần đây, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và văn hóa hiện
đại phương Tây; những biến đổi trong nếp sống sinh hoạt của người dân đã làm suy
giảm về số lượng Cồng chiêng và mai một dần những giá trị truyền thống vơ giá của
nó. Từ năm 1983 Tây Nguyên bắt đầu xảy ra nạn "chảy máu Cồng chiêng", nguyên
nhân là do sự giao lưu giữa các nền văn hóa hiện đại đã tác động sâu sắc tới nền văn
hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc. Mặt khác, các thế lực thù địch đã lợi dụng
tín ngưỡng của một bộ phận nhân dân để lôi kéo, xúi giục đồng bào bán hết Cồng
chiêng, hủy bỏ lễ hội. Thêm vào đó là những tay bn bán đồ cổ từ các nơi lặn lội, mị
mẫm về các bn làng dụ dỗ đồng bào bán Cồng chiêng rồi mang về đồng bằng bán
lại cho những “đầu nậu” mua bán, sưu tầm đồ cổ, thậm chí bán ra nước ngồi để kiếm
lời… Trong những năm qua, đời sống và trình độ dân trí của đồng bào đã từng bước
được nâng lên. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số, cuộc sống
vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp. Do đó, nhiều gia đình đã đem bán
cồng chiêng để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống; đồng thời các lễ hội văn
hóa dân gian mất dần đi làm ảnh hưởng đến không gian diễn tấu của cồng chiêng. Do
đó, những chiếc Cồng chiêng q hiếm ngày càng vắng bóng dần trong các bn làng
22



đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên. Để chống lại việc chảy máu này,
nhiều năm nay các tỉnh Tây Nguyên, đặc biệt là Đắklăk đã có nhiều chính sách cho
những gia đình, những người gìn giữ chiêng, chỉnh chiêng; đồng thời mở nhiều lớp
đào tạo bồi dưỡng cho các lớp trẻ học các kỹ thuật đánh và chỉnh chiêng, góp phần
phát triển khơng gian văn hố Cồng chiêng, tạo điều kiện để lớp trẻ không quay lưng
lại với bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc mình.
Ý thức được điều này từ năm 1994, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã có Chỉ
thị 08 “Về việc bảo tồn văn hóa Cồng chiêng”, tổ chức nhiều hoạt động bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa Cồng chiêng như: tổ chức 5 lần liên hoan văn hóa Cồng chiêng cấp
tỉnh, 15 cuộc liên hoan dân ca-dân vũ, nhạc cụ dân tộc, hội diễn văn nghệ quần chúng,
tổ chức buôn vui chơi, buôn ca hát, phục hồi các lễ hội truyền thống... Tỉnh cũng đầu
tư kinh phí mời các nghệ nhân là đồng bào dân tộc Êđê, M'nông…, truyền dạy cách
đánh Cồng chiêng cho con em. Hiện nay, tỉnh có khoảng 700 đội Cồng chiêng ở các
bn làng, trong đó có 200 đội Cồng chiêng thanh thiếu niên…Tuy nhiên “Nạn chảy
máu Cồng chiêng” những năm gần đây vẫn khơng chấm dứt hồn tồn, nếu chúng ta
khơng kịp thời có những cơ chế, chủ trương và những giải pháp thiết thực nhằm bảo
tồn và phát huy giá trị của văn hóa Cồng chiêng thì nguy cơ thất truyền di sản văn hóa
cồng chiêng sẽ xảy ra.


Giải pháp:

Hiện nay, các giá trị DSVH đang đứng trước nguy cơ mai một do những tác
động tất yếu của quá trình hội nhập và mặt trái của cơ chế thị trường. Do vậy, nhiệm
vụ trọng tâm nhằm bảo tồn, phát huy giá trị DSVH cồng chiêng trong thời gian tới
phải lưu ý các vấn đề sau:
Đẩy mạnh công tác sưu tầm, ghi chép những bài chiêng, những sinh hoạt văn
hóa, âm nhạc gắn bó với cồng chiêng. Ghi âm, ghi hình các tài liệu, tư liệu về cồng
chiêng và văn hóa cồng chiêng Nam Tây Nguyên để lưu giữ, bảo quản và phát huy lâu
dài.

Tiếp tục nghiên cứu khoa học về cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng Nam Tây
Nguyên một cách hệ thống và tồn diện ở địa bàn đơng đồng bào dân tộc sinh sống và
những vùng giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng.
Nghiên cứu, phục hồi và giữ gìn các sinh hoạt văn hóa, các lễ hội gắn với vịng
đời người và vòng đời cây trồng ở các cộng đồng DTTS tại các địa bàn để tạo môi
trường diễn xướng của cồng chiêng và sinh hoạt văn hóa cồng chiêng.
Tổ chức biểu diễn, giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng, ở các
trường học, để nâng cao trình độ thưởng thức của mọi tầng lớp nhân dân về cồng
chiêng và văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
23


Xây dựng mơ hình du lịch cộng đồng dân cư dân tộc Tây Nguyên ở Lâm Đồng.
Tổ chức và hình thành các sản phẩm văn hóa du lịch dựa trên tài nguyên văn hóa cồng
chiêng vào mục tiêu phát triển kinh tế - du lịch Lâm Đồng.
Đẩy mạnh xã hội hóa cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Tạo
mọi điều kiện mở rộng nguồn đầu tư khai khác về tiềm năng vật lực và tài lực trong xã
hội tham gia bảo tồn và phát huy di sản văn hóa theo phương châm Nhà nước và nhân
dân cùng làm. Chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ quản lý, chun mơn
làm nhiệm vụ bảo tồn di sản văn hóa. Mở các lớp tập huấn về chun mơn nghiệp vụ
cho cán bộ văn hóa cơ sở về lĩnh vực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
Cần cụ thể hóa hơn một số chế tài đối với các hoạt động khai thác, sử dụng
DSVH, kể cả DSVH vật thể và phi vật thể của các dân tộc bản địa Lâm Đồng.
Việc bảo tồn và phát huy DSVH không chỉ là trách nhiệm của ngành văn hóa
mà là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức kinh tế, xã hội và mọi tầng
lớp nhân dân. Để làm tốt công tác bảo tồn và phát huy DSVH cồng chiêng các dân tộc
Lâm Đồng rất cần sự phối hợp vào cuộc của các ngành, các cấp và chính quyền địa
phương trong việc thực hiện các chiến lược bảo tồn DSVH các DTTS Tây Nguyên,
trong đó có cồng chiêng.


24



×