Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

quan điểm về hoàn thiện bộ máy nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.81 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
NHÓM II
Môn học: tổ chức bộ máy Nhà nước
Đề tài: QUAN ĐIỂM VỀ HOÀN THIỆN BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TRONG
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN


MỤC LỤC
I. KHÁI NIỆM......................................................................................................................................................4
1.1. Nhà nước pháp quyền...........................................................................................................................4
1.2. Bộ máy nhà nước...................................................................................................................................4
II. QUAN ĐIỂM VỀ HOÀN THIỆN BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN...........6
2.1. Tính tất yếu phải hoàn thiện bộ máy nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền....................6
2.2. Các quan điểm về hoàn thiện bộ máy nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền...................8
2.2.1. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo...............................................8
2.2.2. Bộ máy Nhà nước được tổ chức trên cơ sở nguyên tác: quyền lực nhà nước là thống nhất; có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp..................................................................................................................................9
2.2.3. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế XHCN...........................................................................................................................10
2.2.4. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân, tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế
và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí, vô trách nhiệm,
lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động
xâm phạm đến lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.............................................................................11
2.2.5. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân
công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương......................................11
2.3.1 Phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội................................13
2.3.2. Đổi mới hoạt động của chính phủ...............................................................................................18


2.3.3. Đổi mới về tư pháp......................................................................................................................22


LỜI MỞ ĐẤU
Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ
chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, pháp luật và luôn vận
hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội,
Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính
quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1946, năm 1959. năm
1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước
củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà
nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm
1945 và Hiến pháp năm 1946, được định hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và ngày nay, quá
trình này đang được tiếp tục đẩy mạnh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.

NỘI DUNG


I. KHÁI NIỆM
1.1. Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền, là một chế độ chính trị mà ở đó nhà nước và cá nhân
phải tuân thủ pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của tất cả, của mỗi người
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật
được bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống toà án độc lập. Nhà nước pháp
quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị nhất của con người và đảm bảo cho công
dân có khả năng, điều kiện, chống lại sự tuỳ tiện của cơ quan nhà nước bằng
việc lập ra cơ chế kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của pháp luật cũng

như các hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải đảm
bảo cho công dân không bị đòi hỏi bởi những cái ngoài Hiến pháp, và pháp
luật đã quy định. Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp giữ vị trí tối cao và
nó phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền tự do và quyền công dân
1.2. Bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, thống nhất
nhằm thực hiện nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.
Bộ máy nhà nước được tổ chức thành các cơ quan nhà nước để thực hiện các
nhiệm vụ và chức năng Nhà nước. Có thể phân loại thành ba hệ thống cơ quan Nhà
nước, đó là hệ thống các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp:


Hệ thống các cơ quan lập pháp là các cơ quan quyền lực Nhà nước,

bao gồm Quốc hội (hoặc Nghị viện) và các hội đồng địa phương.


Hệ thống các cơ quan hành pháp là các cơ quan hành chính Nhà nước,

bao gồm Chính phủ (hay Nội các), các Bộ và cơ quan ngang Bộ, các cơ quan
trực thuộc Chính phủ, các chính quyền địa phương.




Hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm các cơ quan xét xử (các hệ

thống tòa án) và các cơ quan kiểm sát (ở các nước Xã hội chủ nghĩa).
1.2.1. Hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội và Hội đồng

nhân dân các cấp
Theo Điều 83-HP 1992 quy định Quốc hội là:


Cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân



Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của bộ máy Nhà nước:


Cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.



Quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối

ngoại, nhiệm vụ KT-XH, QPAN của đất nước, những nguyên tắc chủ
yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội
và hoạt động của công dân.


Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn

bộ hoạt động của Nhà nước.
1.2.2. Hệ thống cơ quan hành pháp: Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang
bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã và các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban
nhân dân.
Điều 109 HP. 1992:



Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành

chính Nhà nước cao nhất:


Chịu trách nhiệm trước QH,



Báo cáo công tác với QH, UBTV QH, Chủ tịch nước.


2

Thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, KT,

VH,XH, QPAN và đối ngoại; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung
ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo
đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
1.2.3. Hệ thống cơ quan tư pháp: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân
Là những khâu trọng yếu, cơ bản thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp, thực
hiện quyền tư pháp. Trong phạm vi chức năng của mình, các cơ quan này có nhiệm
vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Tòa án nhân dân: thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật thông qua hoạt động
xét xử

Viện kiểm sát nhân dân: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp theo quy định của hiến pháp và pháp luật, góp phần đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

II. QUAN ĐIỂM VỀ HOÀN THIỆN BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TRONG XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
2.1. Tính tất yếu phải hoàn thiện bộ máy nhà nước trong xây dựng nhà nước
pháp quyền.
Kế thừa các quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
của Đại hội IX, Đại hội X của Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm


vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ( bổ sung
phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI của đảng đã đưa ra các quan
điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
Tính tất yếu khách quan của việc hoàn thiện bộ máy nhà nước trong nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục
tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ
xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nền tảng tư tưởng
là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế
toàn cầu hoá, quốc tế hoá. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải
tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước
không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát

triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững
chắc vào đời sống quốc tế.
* Các vấn đề còn tồn tại
Bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng nấc trung gian, chất lượng
hoạt động và hiệu quả thấp. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách
nhiệm của nhiều cơ quan và người đứng đầu chưa thật rõ, còn chồng chéo, cơ chế
vận hành và nhiều mối quan hệ còn bất hợp lí, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn
chế cả về mặt năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm. Các vấn đề trên dẫn
tới hậu quả là hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước còn chưa cao, công tác quản
lí đất nước (nhất là quản lí kinh tế) còn lúng túng, mắc nhiều sai sót, sản xuất tuy


có tăng nhưng vẫn có nguy cơ tụt hậu, tài nguyên đất nước chưa được khai thác
tốt…
2.2. Các quan điểm về hoàn thiện bộ máy nhà nước trong xây dựng nhà nước
pháp quyền.
2.2.1. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Quan điểm ấy có tính bản chất của Nhà nước ta đã được khẳng định trong tất
cả các bản Hiến pháp. Đặc biệt Hiến pháp 1992 được sửa đổi năm 2013 đã khẳng
định: "Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giai của công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức". Bản chất nhà nước ta là tính giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc và tính
nhân dân. Nhà nước ta do dân lập nên, do dân bầu ra, do dân kiểm tra, giám sát. Đó
phải là nhà nước hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao
nhất của mình. Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân,
của khối đại đoàn kết toàn dân; phải xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh,

gần dân, sát dân, thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của dân; đảm bảo trên thực tế
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Xây dựng CNXH là mục tiêu, khát vọng
chung của toàn thể mọi giai tầng, mọi tầng lớp trong xã hội ta. Nhưng khát vọng đó
có trở thành hiện thực hay không thì phải có một liên minh giai cấp vững mạnh đặt
dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng tiên tiến trong xã hội. Ở nước ta cơ sở để xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN phải trên cơ sở nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.


2.2.2. Bộ máy Nhà nước được tổ chức trên cơ sở nguyên tác: quyền lực nhà
nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ xung năm 2013 xác định rõ: Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất; Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất;
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của quốc hội.Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan cùng với Tòa án nhân dân thực hành quyền tư pháp
Như vậy điều hiển nhiên là mỗi một cơ quan nêu trên đều có chức năng riêng,
quyền hạn riêng và có mối quan hệ lẫn nhau. Tuy nhiên cần thấy rằng, hoạt động
lập hiến, lập pháp chi phối mạnh, trực tiếp tới hoạt động hành pháp và tư pháp, vì
vậy Quốc hội luôn ở một vị trí quan trọng đặc biệt.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến và lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền
hành pháp và Toà án thực hiện quyền tư pháp. Sự phân công quyền lực nhà nước
giữa các cơ quan của Nhà nước trong hiện nay ở nước ta không mang tính tuyệt
đối. Bởi lẽ Quốc hội ngay bên cạnh hoạt động lập pháp còn thực hiện một số
nhiệm vụ hành pháp, Chính phủ bên cạnh hoạt động hành pháp còn tham gia tích
cực vào nhiệm vụ lập pháp của Quốc hội (xây dựng các dự án Luật). Tòa án bên
canh nhiệm vụ xét xử cũng còn tham gia vào hoạt động lập pháp... Giữa các cơ
quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có sự phối hợp chặt chẽ

trong việc thực hiện các quyền này. Hiến pháp đã quy định cho Quốc hội là cơ
quan có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước
nhưng chưa có những quy định về việc kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các nhánh quyền lực nhà nước. Lần đầu tiên tại Đại hội
lần thứ XI của Đảng mới đưa ra vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước gữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.


2.2.3. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế...”. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
xác lập các cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội giữa công
dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước, giữa Nhà nước với các tổ chức xã
hội. Sự đổi mới pháp luật tăng cường pháp chế đang được tiến hành trên cả ba lĩnh
vực cơ bản: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp luật.
Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật nhiệm vụ đang được đặt ra là: Hoàn thiện
các quy định về thẩm quyền và thủ tục ban hành các văn bản pháp luật; đảm bảo
pháp luật được xây dựng và ban hành đúng thẩm quyền, đúng thủ tục, đúng đối
tượng; hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước. Nhu cầu cải cách bộ máy nhà nước hiện nay đòi hỏi phải
đổi mới căn bản các quy định pháp luật về tổ chức, về phẩm quyền; về lề lối làm
việc, về cơ chế quan hệ quyền lực giữa các cơ quan nhà nước.
Pháp luật trong lĩnh vực tổ chức quyền lực nhà nước phải đáp ứng được yêu
cầu: Xây dựng một bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu lực và hiệu quả, đủ khả năng tổ
chức và quản lý các quá trình kinh tế - xã hội, đảm bảo trật tự và an toàn cho sự
phát triển đất nước, đồng thời đảm bảo khả năng kiểm soát quyền lực và việc thực
thi quyền lực nhà nước trên thực tế từ phía nhân dân và toàn thể xã hội. Việc xây
dựng các cơ sở pháp luật để kiểm soát quyền lực, đặc biệt kiểm sát hoạt động của

các cơ quan hành chính nhà nước có ý nghĩa quyết định đối với tiến trình dân chủ
hoá xã hội. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay là một
đòi hỏi tất yếu mang tính khách quan để nhà nước quản lý xã hội một cách thống
nhất và hiệu quả. Bên cạnh đó chúng ta cần phải tăng cường pháp chế XHCN tức
là phải tổ chức thực thi và bảo vệ pháp luật một cách hiệu quả đảm bảo kỷ cương
phép nước.


2.2.4. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng lắng nghe ý kiến của
nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp
kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí, vô
trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của; giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm đến lợi ích của Tổ
quốc và của nhân dân.
Trong hoạt động của mình mọi cơ quan trong bộ máy nhà nước, mọi cán bộ
công chức nhà nước đều phải vì lợi ích của nhân dân và Tổ quốc, lấy tinh thần
phục vụ nhân dân làm phương châm cho việc thực thi công vụ của mình và phải
chịu sự giám sát của nhân dân. Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công
tác xây dựng pháp luật hiệ nay là chú trọng đến việc đổi mới hoàn thiện pháp luật
về dân chủ (cả dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp). Cần phải xác định chế độ
pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước
trong việc đảm bảo và tôn trọng quyền công dân. Nhà nước phải xây dựng và hoàn
thiện những thể chế, cơ chế về phòng chống, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí vô trách nhiệm, lạm quyền... Cần phải quy định rõ chế độ trách nhiệm và
các hình thức xử lý nghiêm đối với cán bộ, công chức, viên chức có nhũng hành vi
về quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm và xử lý nghiêm minh những
hành vị này không kể người đó là ai, giữ chức vụ cao hay thấp. Có như vậy mới
xây dựng được bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả.
2.2.5. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung

dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo
thống nhất của Trung ương.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trở thành nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Nguyên tắc này pháp huy được trí tuệ tập thể
trong chỉ đạo điều hành công việc của các cơ quan nhà nước, tránh được việc các
cá nhân lạm quyền gây nên tác hại xấu.


Trong hoạt động của bộ máy nhà nước cần có sự phân công phân cấp một
cách hợp lý rõ ràng giữa các cấp các ngành bên cạnh đó gắn với chế độ chịu trách
nhiệm cho cá nhân tổ chức đã được phân cấp. Tuy nhiên sự phân cấp cần phải có
sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương, sự kiểm tra giám sát chặt chẽ của Trung
ương, tránh tình trạng phân công, phân cấp rồi buông lỏng dẫn đến tự do vô tổ
chức, bản vị, cục bộ địa phương, ngành xâm hại đến lợi ích chung của đất nước,
của nhân dân.
2.3. Phương hướng thực hiện cải cách bộ máy nhà nước:
Tiếp tục đổi mới và tổ chức hoạt động của Quốc hội nhằm đẩy mạnh hoạt
động lập pháp, tăng cường công tác giám sát của quốc hội tại kì họp quốc hội và
hoạt động giám sát của các cơ quan thuộc quốc hội, đại biểu quốc hội, tăng tỉ lệ đại
biểu quốc hội chuyên trách, sắp xếp bộ máy giúp việc của quốc hội theo hướng
tinh giản về đầu mối, tăng cường cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ có trình độ cao.
Cải cách nền hành chính nhà nước: thể chế hành chính, thủ tục hành chính,
tổ chức bộ máy, quy chế và hoạt động của hệ thống hành chính, hoàn thiện chế độ
công vụ, công chức, thực hiện cải cách hành chính công.
Đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp: xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật làm cơ sở cho hoạt động, tổ chức của hệ thống các cơ quan tư pháp, xác
định thẩm quyền của các tòa án, thành lập các tòa án chuyên trách khác, hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của các viện kiểm sát, các cơ quan hỗ trợ tư pháp.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lí nhà nước và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở, cơ quan, tổ chức nhà nước.



2.3.1 Phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Quốc
hội.
* Phương hướng hoàn thiện tổ chức của Quốc hội
Thứ nhất, Tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về sự phân công chức
năng nhiệm vụ của cơ quan trong cơ cấu tổ chức Quốc hội. Yêu cầu hoàn thiện, đổi
mới và phát huy vai trò của Quốc hội gắn liền với việc tiếp tục làm rõ hơn sự phân
công chức năng, nhiệm vụ cho Quốc hội với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Sự phân công nhiệm vụ,
quyền hạn giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước chủ yếu được xuất phát từ bản
chất pháp lý và đặc trưng riêng của từng loại cơ quan. Còn trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước thống nhất của nhân dân thì sự phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước là yếu tố không thể thiếu. Để thực hiện sự phân công rõ ràng hơn về chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ cấu trong tổ chức của Quốc hội cần quan
tâm nghiên cứu để sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới những quy định liên quan
đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, cụ thể là:
- Quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội theo hương xác định rõ hơn từng chức
danh này trên cơ sở có sự cân đối chung với các chức danh tương ứng trong các cơ
quan cấp cao của Nhà nước ở Trung ương.
- Xác định rõ ràng hơn phạm vi hoạt động thẩm quyền của các cơ quan của
Quóc hội và đại biểu Quốc hội, đặc biệt là đại biểu Quốc hội chuyên trách trong
các lĩnh vực cụ thể để tránh chồng chéo, lẫn lộn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
quyền hạn của mình.
- Phân định rõ mối quan hệ của các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc
hội với các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình. - Xác định rõ ràng hơn vị trí, vai trò và cơ cấu tổ chức của Ủy ban thường vụ
Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội giữa hai kỳ họp. Hơn
nữa để đảm bảo cho Ủy ban thường vụ Quốc hội có đủ sức hoàn thành nhiệm vụ

của mìnhcần tăng cường số lượng thành viên lên gấp đôi hoặc gấp ba so với hiện
nay. Bên cạnh đó trong cơ cấu của Ủy ban thường vụ Quôc hội có sự phân công
các thành viên phụ trách các mảng công việc và không nên duy trì chế độ kiêm
nhiệm là lãnh đạo cuă Hội đồng dân tộc và các Ủy ban như trước nay vẫn làm.


Thứ hai là thành lập mới và tách một số ủy ban của Quốc hội theo từng lĩnh
vực chuyên sâu đảm bảo để các cơ quan này thực hiện tốt việc tham mưu giúp
Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình. Qua hoạt động thực tiễn của Quốc hội cho
thấy rằng, việc nâng cao vị trí vai trò của Quốc hội trên các phương diện đòi hỏi
không chỉ nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội mà còn phải tăng cường cả về tổ
chức bộ máy. Trong điều kiện hiện nay, khi mà yêu cầu xây dựng các văn bản pháp
luật ngày càng nhiều và việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội cần
phải được tiến hành thường xuyên hơn thì cần thiết phải có những cơ quan đủ sức
để giúp Quốc hội thực hiện có hiệu quả trên các phương diện đó. Vì vậy, việc chia,
tách, và thành lập mới một số ủy ban chuyên môn của Quốc hội là rất cần thiết và
cần được quan tâm. Cụ thể là:
- Thành lập thêm ủy ban dân nguyện để giúp quốc hội tập hợp, phân tích tâm
tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Qua đó tham mưu, đề xuất với Quốc
hội những vấn đề về chính sách chiến lược, các giải pháp thực hiện kế hoạch kinh
tế - xã hội hang năm cũng như nghiên cứu dư luận để điều chỉnh chính sách , pháp
luật cho phù hợp với thực tế và với quy luật phát triển.
- Thành lập Ủy ban tổ chức nhà nước để giúp Quốc hội trong việc xây dựng,
thiết kế mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, đảm bảo tinh gọn, có hiệu lực và hiệu
quả, xác định các tiêu chí khách quan, khoa học trong việc phan vạch địa giới hành
chính – lãnh thổ, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển các tiềm năng tự nhiên và
xã hội ở các địa phương, xem xét tư cách các chức danh lãnh đạo Nhà nước do
Quốc hội cử ra trong quá trình thi hành nhiệm vụ được giao.
Thứ ba là tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của
toàn đại biểu Quốc hội trong điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên.

Đoàn đại biểu Quốc hội là một hình thức hoạt động của Quốc hội trong khi Quốc
hội hoạt động không thường xuyên. Do đó việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của
Đoàn đại biểu Quốc hội là việc làm cần thiết trong điều kiện hiện nay. Bên cạnh
đó, cần tăng cường các điều kiện vật chất, phương tiện kĩ thuật, đảm bảo để Đoàn
đại biểu Quốc hội đủ sức tiến hành các hoạt động tại địa phương. Mặt khác, cần
sửa đổi quy chế hoạt động Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội theo
hướng xác định rõ hơn vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn
đại biểu Quốc hội chuyên trách trong từng lĩnh vực cụ thể. Đối với các đại biểu
Quốc hội, cần cụ thể hóa các nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội theo


hướng đảm bảo chế tài để đại biểu Quốc hội sử dụng khi làm nhiệm vụ đại biểu,
đặc biệt là làm nhiệm vụ giám sát.
Thứ tư là đổi mới chế độ bầu cử và phương hướng lựa chọn đại biểu Quốc
hội, kết hợp đúng đắn giữa cơ cấu và tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội. Thực tiễn các
cuộc bầu cử những khóa gần đây cho thấy chủ trương nâng cao chất lượng đại biểu
Quốc hội mới chỉ đạt được một số tiến bộ nhất định. Chất lượng đại biểu Quốc hội
những khóa gần đây đã từng bước được nâng cao. Tuy nhiên, thưc tiễn dù có cố
gắng vẫn chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu. Để chọn được
những người đảm bảo tiêu chuẩn với một cơ cấu đại biểu hợp lý, cần tiến hành sửa
đổi, bổ sung các quy định cụ thể của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội hiện hành. Cụ
thể là đổi mới quy trình hiệp thương, lựa chọn người ứng cử đại biểu Quốc hội, tạo
điều kiện thuận lợi để công dân có đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội và có
cơ hội trúng cử. Ngoài ra, cần phải đổi mới quy trình hiệp thương thông qua việc
sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội theo hướng chia
nhỏ các bước của quy trình này; bên cạnh đó, việc lựa chọn người ứng cử đại biểu
Quốc hội, cần có hình thức vận động bầu cử phù hợp với nền dân chủ và truyền
thống văn hóa dân tộc;... Còn một số giải pháp nhằm hoàn thiện và đổi mới cơ cấu
tổ chức của Quốc hội nữa như là tăng cường số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động
chuyên trách ở các cơ quancủa Quốc hội và đoàn đại biểu của Quốc hội đồng thời

kiện toàn và củng cố bộ máy tham mưu giúp việc của Quốc hội.
* Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và đổi mới hoạt động của Quốc
hội.
Thứ nhất là trong lĩnh vực lập pháp, việc hoàn thiện công tác lập pháp của
Quốc hội cần gắn liền với việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tổ chức của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội. Để thực hiện điều đó, cần nghiên cứu đổi mới các
quy trình sau:
- Về phân định phạm vi thẩm quyền lập pháp của Quốc hội, cần phân định
rạch ròi thẩm quyền, nội dung của mỗi loại văn bản của từng cơ quan nhà nước
- Về việc lập và quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, việc
chuẩn bị thẩm tra chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cần bảo đảm các căn cứ
quan trọng để xác định tính cần thiết của việc ban hành luật hoặc pháp lệnh cũng
như cần xem xét đầy đủ về mọi mặt để đánh giá đúng mức về khả năng thực tế của


việc chuẩn bị các dự án trước khi đề nghị Quốc hội đưa vào chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh.
- Về thủ tục, trình tự của quy trình chuẩn bị và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật. Pháp luật chỉ có thể được hoàn thiện với quy trình được thiết lập minh
bạch rõ ràng và gần gũi với tất cả mọi người.
- Ngoài ra cần phải bảo đảm các điều cận cần thiết để văn bản pháp luật ban
hành sớm đi vào cuộc sống.
Thứ hai là trong lĩnh vực giám sát tối cao, Nghị quyết Đại hội lần VIII của
Đảng đã chủ trương: “Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám
sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế
giám sát của Quôc hội, các ủy ban của Quốc hội”. Để làm tốt điều này cần tiến
hành một số công việc sau:
- Cần xác định rõ hơn phạm vi (tầng, nấc) nội dung, cơ chế thực hiện quyền
giám sát tối cao của Quốc hội, của Ủy ban thường vụ và các Ủy ban của Quốc hội.
- Phân định rõ tính chất chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và sự khác nhau

giữa hoạt động giám sát của hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước nói chung
và quyền giám sát tối cao của Quốc hội nói riêng với hoạt động kiểm tra, thanh tra
của hệ thống các cơ quản quản lý nhà nước và hoạt động kiểm sát của hệ thống cơ
quan Viện kiểm sát nhân dan. Các hoạt động này hiện nay còn trùng lặp, chưa phân
định rõ nên khó tránh khỏi tình trạng kém hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
- Đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội phải được đặt trong quá trình
đổi mới toàn diện và sâu sắc các mặt về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đặc
biệt phải gắn liền với đổi mới hoạt động của lập pháp. Cơ chế giám sát của Quốc
hội cần được đổi mới toàn diện. Những yêu cầu về đổi mới và hoàn thiện hoạt
động giám sát của Quốc hội cần được thể chế hóa thành các quy định pháp luật thật
chặt chẽ, rõ ràng để Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội cũng như các đại biểu
của Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Bên cạnh đó cần nghiên
cứu các điều kiện để nhân dân, các cơ quan hữu quan trong bộ máy nhà nước có
thể dễ dàng thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho các cơ quan của Quốc hội trong
việc thực hiện quyền giám sát của mình. Bên cạnh đó vẫn cần phải nghiên cứu
thêm một số vấn đề như : chủ thể của giám sát tối cao; khách thể của hoạt động


giám sát tối cao và về phạm vi đối tượng chịu sự giám sát tối cao, cần tăng cường
hơn nữa hoạt động báo cáo, chất vấn đối với các cơ quan nhà nước khác, người có
chức vụ, đẩy mạnh hình thức giám sát bằng các đoàn công tác của Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, tăng
cường kiểm tra các văn bản của chính phủ, các cơ quan nhà nước cấp cao khác, bãi
bỏ chúng khi trái với Hiến pháp, Luật và nghị quyết của Quốc hội;...
Thứ ba là trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
- Để Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước thực sự có
hiệu quả, cần cung cấp đầy đủ thông tin, gửi sớm tài liệu, tạo điều kiện để đại biểu
Quốc hội nghiên cứu khi xem xét, quyết định việc thu chi ngân sách, phân bố ngân
sách, xem xét thường xuyên và quyết định kịp thời các công trình quan trọng của
quốc gia.

- Cần có cơ chế cung cấp thông tin cho mỗi đại biểu Quốc hội. Cần nghiên
cứu để có một mạng lưới cộng tác viên của đại biểu Quốc hội dưới dạng hợp đồng
theo công việc.
- Trong việc thành lập, miễn nhiệm các chức vụ cao cấp trong các cơ quan
nhà nước, trong thời gian Quốc hội không họp thì việc xem xét các vấn đề này nên
giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội và chủ tịch nước. Các Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng và thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ. Cần khôi phục quy định trong thời
gian Quốc hội không họp thì Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị của
Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm, cách chức các thành viên chính phủ
nhưng phải được Chủ tịch nước nhất trí và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần
nhất. Sự phối hợp này là cần thiết thể hiện sự gắn bố giữa Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Ngoài ra để hoàn thiện hoạt động của Quốc
hội, còn phải nâng cao chất lượng và hiệu quả của các kỳ họp. Vì đây là phương
thức hoạt động quan trọng, chủ yếu nhất cuă Quốc hội.
Như vậy, việc tiếp tục hoàn thiện đồng thời đổi mới mô hình tổ chức và
phương thức hoạt động của Quốc hội cần được tiến hành khẩn trương. Tuy nhiên
cũng cần thấy rằng đây là một quá trình còn không ít khó khăn, thách thức, vừa
phản ánh nhu cầu cấp thiết phải khắc phục những thiếu sót, tồn tại, vừa phải phù
hợp và đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩ Việt Nam


hoạt động có hiệu quả và hiệu lực trong một thế giới năng động vừa hợp tác vừa
cạnh tranh gay gắt. Từ đó, cần tiến hình đổi mới Quốc hội theo hệ thống các quan
điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đồng thời phải tính
đến những yêu cầu có tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội để đổi
mới Quốc hội một cách có hiệu quả.
2.3.2. Đổi mới hoạt động của chính phủ.
* Hoàn thiện thể chế.

a) Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 1992
được sửa đổi, bổ sung;
b) Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là
quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư và
văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương nhằm bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp
luật;
c) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách,
trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự
công bằng trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh tế - xã hội;
d) Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách
quan, lâu dài của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu
khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể chế hiện hành về sở hữu đất đai,
phân định rõ quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền của người sử
dụng đất;
định rõ vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của
Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và
kinh doanh vốn nhà nước;
e) Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy
định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh


thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các
dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh;
g) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản
quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân các cấp;

h) Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà
nước và nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng
và về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước.
* Tạo lập môi trường kinh doanh công khai minh bạch.
a) Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, các
chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối ngân sách tích cực,
bảo đảm tỷ lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư phát triển; dành nguồn lực cho con người,
nhất là cải cách chính sách tiền lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm dần bội chi
ngân sách;
b) Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà
nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty; quản lý chặt chẽ việc vay và
trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ Chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn
an toàn;
c) Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng,
triển khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả
ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp khoa học, công
nghệ sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa
học, công nghệ, các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng
đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa
học và công nghệ;
d) Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, tiến
tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp


ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra,
chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước;
đ) Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã

hội chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể
dục, thể thao.
Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp
dịch vụ công; từng bước thực hiện chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp
công phù hợp; chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở giáo dục, đào tạo,
y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn hóa chất lượng dịch
vụ giáo dục, đào tạo, y tế; nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo, khám
chữa bệnh, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn
thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh; có lộ trình thực hiện
bảo hiểm y tế toàn dân.
* Xây dựng bộ máy hành chính hoạt động thong suốt, trong sạch, hiệu
lực, hiệu quả, dân chủ.
a) Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu
tổ chức và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước
ở trung ương và địa phương (bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước); trên
cơ sở đó điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại các cơ
quan, đơn vị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; chuyển giao những công việc mà cơ quan hành
chính nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã
hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận;
b) Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính
quyền địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định
đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng mô
hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp.
Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về tài nguyên,
khoáng sản quốc gia; quy hoạch và có định hướng phát triển; tăng cường giám sát,



kiểm tra, thanh tra; đồng thời, đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng
cao năng lực của từng cấp, từng ngành;
c) Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước;
thực hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa
liên thông tập trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn phòng Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức
đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm
2020;
d) Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất lượng dịch vụ công từng bước được
nâng cao, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm sự hài lòng của cá
nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo
dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020.
* Bảo đảm quyền dân chủ của công dân.
* xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đủ năng lực, phẩm chất.
(Căn cứ Quyết định số số 1557/QĐ-TTg ngày 18 tháng 10 năm 2012 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công
chức")
a) Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu
hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự
nghiệp phát triển của đất nước;
b) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt,
có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân
dân thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả;
c) Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về chức
danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công
chức lãnh đạo, quản lý;
d) Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, xây
dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc làm;
đ) Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm

vụ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức trúng tuyển;


thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh
để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở
trung ương), giám đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở xuống;
e) Hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên
chức trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi
miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với
nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức
tương ứng với trách nhiệm và có chế tài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật,
vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức;
g) Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập sự
trong thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào
tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc kiến
thức, kỹ năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm;
h) Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ
bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ,
công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán bộ,
công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài lương theo ngạch,
bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ và điều kiện làm việc khó khăn, nguy
hiểm, độc hại.
Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công chức,
viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý đối với cán bộ,
công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ;
i) Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ
của cán bộ, công chức, viên chức.
2.3.3. Đổi mới về tư pháp.

Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 49-NQ/TƯ (2/6/2005) về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020”. Đến ngày 31/7/2013, có 4 cơ quan thuộc hệ thống tư
pháp tiến hành tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 49 nói trên:


4 cơ quan thuộc hệ thống tư pháp tiến hành tổng kết việc thực hiện Nghị
quyết 49 nói trên:
- Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp, với sự tham dự của Chủ tịch nước Trương
tấn Sang, kiêm trưởng ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương.
- Ban cán sự Đảng TANDTC với sự tham dự của Phó Thủ tướng Nguyễn
xuân Phúc, kiêm Phó ban chỉ đạo.
- Hội nghị trực tuyến của Viện KSNDTC.
- Hội nghị trực tuyến của Bộ Công an,
Thực trạng đó cho thấy việc triển khai đầy đủ và đúng mức hơn Nghị quyết
49-NQ/TƯ nói trên đã trở thành một công việc bức xúc, không thể chậm trễ. Trong
điều kiện đó, trong phạm vi kiến thức thường trực của tôi, xin được góp một số ý
kiến sau đây.
* Trên cơ sở đó, Nghị quyết 49-NQ/TƯ có xác định các nhiệm vụ cải cách
tư pháp. Trong các nhiệm vụ đó, cần lưu ý đúng mức hơn đến :
- Nhiệm vụ thứ nhất đề cập đến việc phải Quy định trách nhiệm hình sự
nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi
pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức
vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền han phạm tội thì càng xử lý nghiêm khắc
để làm gương cho người khác.
- Nhiệm vụ thứ hai đề cập đến Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân giữ
nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm soát hoạt động
tư pháp. Xác định rõ nhiệm vụ của cơ quan điều tra ...
- Nhiệm vụ thứ ba đề cập đến nhiệm vụ Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư
đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đực, có trình độ chuyên môn….
- Nhiệm vụ thứ tư xác định nhiệm vụ Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và

bổ trợ tư pháp trong sạch và vững mạnh. ….
- Nhiệm vụ thứ năm xác định Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với


hoạt động tư pháp. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tập trung làm tốt
công tác động viên nhân dân phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt
động tư pháp, qua đó kiến nghị với các cơ quan tư pháp khắc phục, sửa chữa. Tăng
cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền,
cung cấp tông tin về hoạt động tư pháp. …

KẾT LUẬN
Việc hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy luôn là một công việc hệ trọng cần
được nghiên cứu, triển khai theo đúng các quan điểm và mục tiêu được xác định
trong các nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực tổ chức nhà nước, với những bước
đi, lộ trình thích hợp. Nhu cầu đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước là cấp thiết,
tuy nhiên, mức độ, phạm vi và các giải pháp đổi mới lại cần phải được tính toán
một cách khoa học, phù hợp với từng thiết chế quyền lực cụ thể, từ Quốc hội,
Chính phủ, các cơ quan tư pháp đến chính quyền địa phương. Sự cân nhắc, tính


toán thận trọng trong các giải pháp đổi mới bộ máy nhà nước là hết sức cần thiết
nhằm đảm bảo sự ổn định chính trị để phát triến đất nước.
Trên đây là những quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN được thể hiện trong Đại hội XI của Đảng là cơ sở để nhà nước ta hoàn thiện
các thể chế để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tìm Hiểu Hiến Pháp Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, NXB
Dân Trí, 2014

2. Hiến Pháp Việt Nam Qua Các Thời Kỳ, NXB Lao động – Xã hội, 2014.
3. Giáo trình Lịch sử và tổ chức các cơ quan nhà nước Việt Nam 1945 – 2004,
Trường Trung học văn thư lưu trữ trung ương I
4. Giáo trình Luật hiến pháp, NXB công an nhân dân
5. Cổng TTĐT Chính Phủ www.chinhphu.vn/
6. Website chính thống về Chính phủ Việt Nam - Vietnam Official
Governmentwebsite



×