Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

quản lý rủi ro trong tổ chức tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.47 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
UNIVERSITY OF ECONOMICS HOCHIMINH CITY
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
ĐỀ TÀI: QUẢN LÝ RỦI RO TRONG TỔ CHỨC TÀI CHÍNH

.


Mục lục


Nhóm 13

3


Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

 GIỚI THIỆU:
Quản lý tổ chức tài chính chưa bao giờ là nhiệm vụ dễ dàng, nhưng trong mấy
năm gần đây nó đã trở nên khó khăn hơn vì sự lớn lên không chắc chắn trong môi
trường kinh tế. Lãi suất đã trở nên ổn định hơn nhiều, dẫn đến dao động đáng kể
trong lợi nhuận và trong giá trị của tài sản và nợ phải trả của tổ chức tài chính.
Hơn nữa, như chúng ta đã thấy trong chương 5, không trả nợ và công cụ nợ khác
cũng đã tăng lên đáng kể, dẫn đến thiệt hại lớn tại các tổ chức tài chính. Dựa trên
những sự phát tiển, điều này không bất ngờ rằng nhà quản lý tổ chức tài chính đã
quan tâm nhiều hơn về quản lý rủi ro các tổ chức của họ đối mặt với biến động lãi
suất lớn và quỵt nợ.
Trong chương này, chúng ta xem xét cách quản lý của các tổ chức tài chính đối


phó với rủi ro tín dụng, nguy cơ phát sinh vì người đi vay có thể bị vỡ nợ trên
nghĩa vụ của họ, và với rủi ro về lãi suất, nguy cơ phát sinh từ biến động trong lãi
suất. Chúng ta sẽ xem xét các công cụ quản lý sẽ sử dụng để đo rủi ro và chiến
lược họ sử dụng để làm giảm nó.
I.
CÁC LOẠI RỦI RO TRONG TỔ CHỨC TÀI CHÍNH
1. Rủi ro tín dụng
Đó là loại rủi ro khi người vay không trả được nợ ngân hàng . Đây là loại rủi ro
lớn nhất , thường xuyên xảy ra và gây thiệt hại nhiều nhất cho ngân hàng thương
mại . Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng đầu tư .
Bất cứ một rủi ro nào của người đi vay đều có thể đưa đến rủi ro tín dụng cho
ngân hàng . Vì vậy quản lý và ngăn ngừa rủi ro tín dụng là công việc khó khăn và
phưc tạp không chỉ là riêng trách nhiệm của cán bộ tín dụng. Muốn phòng ngừa
và hạn chế rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhất thiết phải có sự phối hợp giữa các
ngành, phải có những giải pháp đồng bộ hữu hiệu cả về môi trường kinh tế, cơ chế
nghiệp vụ , công tác tổ chức, đào tạo cán bộ ... và các nguyên tắc thực thi các giải
pháp đó.
2. Rủi ro lãi suất
Lãi suất là “chi phí để vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào
đó”. Trong cơ chế thị trường, lãi suất của ngân hàng thương mại được hình thành
trên cơ sở lãi suất thị trường luôn biến động. Hiện tượng này có thể gây ra tổn thất
cho các ngân hàng thương mại. Chẳng hạn, khi ngân hàng đã kí một hợp đồng cho
vay với một kì hạn lãi suất cố định nhưng sau đó lãi suất thị trường lại tăng lên
hoặc khi ngân hàng đã nhận khoản tiền gửi với lãi suất cố định song lãi suất thị
trường lại giảm xuống thì ngân hàng đều phải chịu rủi ro do các chênh lệch biến
động lãi suất đó. Ngoài ra sự giảm sút giá trị đồng tiền trong thời gian cho vay sẽ
dẫn đến tình trạng mặc dù lãi suất cho vay không thay đổi nhưng lãi suất thực tế
sẽ giảm sút. Giá trị thực tế vốn và lãi ngân hàng thu về thấp hơn so với vốn ban
đầu bỏ ra. Rủi ro càng làm cho kinh doanh ngân hàng bị thua lỗ.
4



Nhóm 13

II.
NGUYÊN NHÂN RỦI RO
1. Rủi ro tín dụng
a. Nguyên nhân khách quan
- Môi trường kinh tế không ổn định
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế: có thể làm nợ xấu gia tăng
khi tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến các doanh nghiệp cũng như các
khách hàng cá nhân thường xuyên của Ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua
lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bản thân sự cạnh tranh của các
NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập cũng khiến cho các
Ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kếm gặp nguy cơ rủi ro nợ xấu
tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị Ngân hàng thu
hút.
Sự biến động của nền kinh tế Thế giới: Sự biến động của nền kinh tế Thế giới:
Khi nền kinh tế hưng thịnh, khách hàng làm ăn có hiệu quả thì việc trả nợ dễ
dàng, Ngân hàng thu nợ không mấy khó khăn. Còn khi kinh tế suy thoái, sản xuất
bị ngừng trệ, khách hàng dễ bị thua lỗ, phá sản, mất khả năng thanh toán nợ cho
Ngân hàng. Từ đó làm xuất hiện những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và phá
sản. Các khoản tiền vay của Ngân hàng không trả được hoặc nếu lạm phát ngày
càng gia tăng cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng, bởi vì trong giai đoạn lạm phát
xảy ra người gửi tiền có tâm lý lo sợ nên rút tiền ra khỏi Ngân hàng, còn người đi
vay thì gia tăng nhu cầu xin vay và muốn kéo dài thời gian vay vốn làm ảnh
hưởng đến hoạt động ngân hàng.

-


Môi trường pháp lý chưa thuận lợi và không chặt chẽ

Sự quản lý kém hiệu quả của cơ quan pháp luật: NHNN và các cơ quan liên
quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan
đến hoạt động tín dụng Ngân hàng. Tuy nhiên việc triển khai vào hoạt động của
Ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và gặp nhiều vướng mắc, bất cập như một số
vấn đề cưỡng chế và thu hồi nợ như trường hợp khách hàng không trả được nợ,
NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Chính vì môi trường pháp lý
không chặt chẽ tạo cho khách hàng có cơ hội lợi dụng sơ hở của pháp luật, gây bế
tắc cho Ngân hàng khi giải quyết các khoản thu hồi.
Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả: Năng lực cán bộ thanh tra giám
giát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công
nghệ mới thanh tra Ngân hàng vẫn chưa theo kịp. Thanh tra Ngân hàng còn hoạt
động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn
chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Do vậy, có những sai phạm của NHTM
không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi
5


Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

hậu quả xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm khác về cho vay, bảo
lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn
của cả hệ thống, lẽ ra có thể ngăn chặn ngay từ đầu để phát hiện và xử lý sớm
hơn.
Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập: Cho dù cấp tín dụng dưới hình thức
nào, Ngân hàng cũng phải nắm một lượng thông tin nhất định từ phía khách hàng,
vì thiếu thông tin sẽ khó xác định năng lực hiện có của khách hàng, nếu thông tin
không chính xác có thể đưa ra kết quả phân tích sai lệch. Kết quả phân tích là cơ
sở để đưa ra quyết định tín dụng, nếu kết quả đưa ra sai lêch sẽ dẫn đến quyết định

tín dụng sai lệch, dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng xảy ra cho Ngân hàng càng lớn.
Nếu các Ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều
kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ
thống Ngân hàng.
-

Môi trường tự nhiên

Sự biến đổi của môi trường tự nhiên, thay đổi của khí hậu như: hạn hán, lũ lụt,
động đất…cũng sẽ ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội của dân cư trong nước
và các đơn vị kinh tế vì nền kinh tế của Việt Nam vẫn còn lệ thuộc vào sản xuất
nông nghiệp và công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp...
b. Nguyên nhân chủ quan
- Từ phía khách hàng
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ: Khách hàng là
DN sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo Ngân hàng để chiếm đoạt tài sản.
Trường hợp này không nhiều, tuy nhiên, khi vụ việc phát sinh lại ảnh hưởng hết
sức nặng nề, Ngân hàng khó lòng thu hồi được nợ, có nguy cơ bị mất vốn hoàn
toàn hoặc chỉ thu hồi được một phần, làm liên quan đến uy tín của cán bộ, làm ảnh
hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác. Hoặc khi khách hàng có ý muốn trả nợ
nhưng đang gặp khó khăn về tài chính tạm thời do những yếu tố khách quan ngoài
ý muốn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng chủ yếu vẫn là
do khả năng quản lý kinh doanh kém hiệu quả.
Tình hình tài chính yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ
bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết DN Việt Nam.
Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn
chưa được các DN tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Khi cán bộ Ngân hàng
lập các bản phân tích tài chính của DN dựa trên số liệu do các DN cung cấp
thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao Ngân hàng
vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là một chỗ dựa cuối cùng để phòng

chống rủi ro tín dụng.
-

Từ phía Ngân hàng cho vay
6


Nhóm 13

Công tác kiểm soát nội bộ còn lỏng lẻo: Kiểm soát nội bộ có điểm mạnh hơn
thanh tra Nhà nước ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay từ khi phát
sinh vấn đề và tính sâu sát của kiểm soát viên, do việc kiểm tra được thực hiện
thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây,
công việc kiểm soát nội bộ của các Ngân hàng hầu hết chỉ tồn tại trên hình thức.
Cán bộ tín dụng thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn: Đạo đức của cán bộ là
một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng.
Một cán bộ kém về năng lực, trình độ chuyên môn có thể bồi dưỡng thêm, nhưng
một cán bộ bị tha hóa về đạo đức mà giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy
hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Thiếu sự giám sát và quản lý sau khi cho vay: Các Ngân hàng thường tập trung
nhiều công sức vào việc thẩm định trước khi cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm
tra, kiểm soát đồng vốn của mình sau khi cho vay→NHTM chưa thực hiện tốt
công tác theo dõi nợ
Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo: Kinh doanh Ngân hàng là “đi vay để
cho vay”, do vậy vấn đề rủi ro trong tín dụng là không thể tránh khỏi, các Ngân
hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác này nảy
sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này
vay tiền tại nhiều Ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một
khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao
đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều Ngân hàng cho vay một khách hàng đến mức

vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không loại trừ một
Ngân hàng nào.
2. Rủi ro lãi suất
- Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn vốn và tài sản
Các nguồn vốn và tài sản của Ngân hàng có kỳ hạn khác nhau nên khi gắn
chúng với lãi suất, Ngân hàng quan tâm tới kỳ hạn đặt lại lãi suất – là kỳ hạn mà
khi kết thúc hợp đồng lãi suất sẽ bị thay đổi theo lãi suất thị trường.
Sự không phù hợp về kỳ hạn đặt giá của nguồn và tài sản được đo bằng khe hở
lãi suất:
Khe hở lãi suất = tài sản nhạy cảm lãi suất – nguồn nhạy cảm lãi suất
Trong đó: tài sản, nguồn nhạy cảm lãi suất là loại mà số dư nhanh chóng
chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thị trường thay đổi, bao gồm loại có kỳ hạn
đặt lại giá < (hoặc =) 12 tháng.
Sự khác biệt về kì hạn và kì hạn đặt lại là tất yếu và ngân hàng khó có thể duy
trì một sự phù hợp tuyệt đối về kì hạn giữa nguồn và các loại tài sản khác nhau
7


Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

trong mọi thời kì do kì hạn thường do người đi vay và người giữ tiền quyết định.
Kì hạn đặt lại thì bị tác động bởi dự đoán về sự biến động lãi suất trong tương lai
của Ngân hàng và của khách hàng. Khách hàng muốn chọn lãi suất cố định trong
suốt hợp đồng để tính toán trước chi phí của dự án, trong khi đó thì Ngân hàng có
xu hướng chia nhỏ kì hạn để hạn chế rủi ro lãi suất.
-

Sự thay đổi lãi suất của thị trường khác với sự kiến của ngân hàng

Quan hệ cung – cầu về tín dụng trên thị trường thường xuyên thay đổi, do đó lãi

suất thị trường cũng thay đổi theo. Ngân hàng rất khó kiểm soát mức độ và xu
hướng biến động của nó. Và chính những thay đổi ngoài dự kiến của lãi suất gây
nên rủi ro lãi suất cho ngân hàng.
-

Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng

Trong suốt một thời gian dài trước đây các NHTM Việt Nam sử dụng chế độ lãi
suất cố định của NHNN. Các dự án cho vay trung và dài hạn luôn chiếm tỷ trọng
lớn trong cơ cấu cho vay của NHTM, mà hầu hết những dự án này thường áp
dụng mức lãi suất cố định do các chủ đầu tư muốn tính được trước chi phí của dự
án để có thể xác định được dòng tiền trong tương lai và tính được hiệu quả của dự
án. Cũng như vậy, phần lớn những người gửi tiết kiệm cũng yêu cầu lãi suất cố
định để phòng ngừa rủi ro. Khi lãi suất thị trường thay đổi thì những hợp đồng
này có thể đem lại rủi ro cho Ngân hàng và khách hàng.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA RỦI RO TỚI CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH
Rủi ro xảy ra có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh doanh của ngân hàng, ảnh hưởng
đến nguồn thu nhập , lợi nhuận ngân hàng, thậm chí ngân hàng phải lấy vốn tự có
của mình để bù đắp các khoản thiếu hụt do rủi ro gây ra, lúc đó khả năng thanh
toán của ngân hàng kém đi và lòng tin của khách hàng không còn nữa, người gửi
tiền muốn rút tiền đề tránh rủi ro cho chính bản thân họ và người vay không muốn
vay ở đó nữa, họ chuyển sang ngân hàng khác. Vì vậy, khi rủi ro ở mức nhỏ, ngân
hàng có thể bù đắp bằng lợi nhuận kinh doanh hoặc bị lỗ, nhưng rủi ro ở mức độ
nghiêm trọng, nguồn vốn tự có của ngân hàng không đủ để bù đắp thiệt hại, tất
yếu sẽ dẫn ngân hàng đến bờ vục của sự phá sản . Như vậy rủi ro có thể làm đảo
lộn thành quả hoạt động nhiều năm, thậm chí trở thành vấn đề sống còn của ngân
hàng.
1. Rủi ro tín dụng: sẽ dẫn đến thiệt hại cho Ngân hàng về lợi nhuận và tài
sản:
- Về mặt tài chính: do không thu được nợ (gốc và lãi) Ngân hàng đã bị giảm

doanh thu trong khi vẫn chi trả tiền lãi, lãi đầu vào của nguồn vốn huy động, gây
mất cân đối trong thu chi nghiệp vụ.
Nợ quá hạn chính là hậu quả của Ngân hàng phải gánh chịu: không thu được
nợ, vòng vay vốn tín dụng không được thực hiện. Ngân hàng không có khả năng
8


Nhóm 13

đảm bảo vốn lưu động, hạn chế cả vai trò phục vụ lẫn chức năng kinh doanh của
TDNH. Rủi ro tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân
hàng như: thiếu tiền chi trả cho khách hàng, lợi nhuận ngày càng giảm dẫn đến lỗ
và mất khả năng thanh toán.
- Về mặt xã hội: từ rủi ro tín dụng đến rủi ro thanh khoản gây mất lòng tin, mất
tín nhiệm trong nhân dân, gây tâm lý không ổn định khách hàng ồ ạt rút tiền ở
Ngân hàng về.
+ Đối với chính quyền quản lý cấp trên của Ngân hàng bị mất lòng tin, không
tin tưởng vào sự hoạt động của Ngân hàng cơ sở.
+Do làm ăn thua lỗ, tâm lý của cán bộ nhân viên Ngân hàng chán nản, không
tin tưởng vào năng lực tài chính của chính bản thân mình, một số nhân viên có
năng lực xin chuyển công tác.
+Hoạt động của ngân hàng có liên quan đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Vì vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra có thể làm phá sản một vài ngân hàng, có khả
năng lây lan các ngân hàng khác tạo ra sự phá sản của Ngân hàng mà đua nhau rút
tiền ào ạt, tạo cho dân chúng một tâm lý sợ hãi nên đưa nhau đến ngân hàng rút
tiền trước thời hạn. Điều đó có thể đưa đến phá sản hàng loạt các ngân hàng và sẽ
tác động xấu đến nền kinh tế. Khi các Ngân hàng phá sản sẽ kéo theo một bộ
phận, các xí nghiệp, doanh nghiệp, dân cư mất vốn làm ảnh hưởng xấu đến sản
xuất và đời sống.
Rủi ro tín dụng là vấn đề chính phủ phải quan tâm, đặc biệt là NHTW phải

khuyến cáo thường xuyên thông qua công tác kiểm tra, thanh tra, chiết khấu, tái
chiết khấu và sẵn sàng tài trợ cho các ngân hàng thương mại khi có các biến cố rủi
ro xảy ra. Tuy nhiên để hạn chế rủi ro và thiệt hại trong kinh doanh, thì các Ngân
hàng phải là người thực hiện trực tiếp quản lý phòng ngừa rủi ro.
2. Rủi ro lãi suất:
Xảy ra khi biến động lãi suất thị trường gây tổn thất cho ngân hàng. Rủi ro này
xuất hiện trong trường hợp lãi suất của thị trường tăng lên, khi đó, các khoản
vay và đầu tư của ngân hàng sẽ sụt giảm giá trị và ngân hàng sẽ bị tổn thất.
Trường hợp khác của rủi ro lãi suất là khi lãi suất thị trường giảm, làm cho
ngân hàng phải chấp nhận đầu tư và cho vay các khoản tiền huy động với lãi
suất cao vào các tài sản với mức sinh lời thấp.
- Rủi ro thay đổi lãi suất biến đổi sẽ xảy ra khi lãi suất của các khoản mục trong
tài sản có và lãi của các khoản mục nợ trong tài sản nợ không thể thay đổi đồng
thời về thời điểm và đồng nhất về mức thay đổi theo sự thay đổi của lãi suất thị
trường. Ngân hàng rủi ro giảm thu nhập do chênh lệch lãi suất đầu ra- đầu vào bị
thu hẹp.

9


Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

-Khi giữa ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận một lãi suất cố định thì
khoảng thời gian đã thỏa thuận, lãi suất này không thay đổi dù lãi suất thi trường
có thể biến động mạnh và biến động nhiều lần.
Về lí thuyết, Ngân hàng sẽ không bị rủi ro lãi suất khi luôn cân bằng được
khối lượng các khoản mục nguồn vốn – tài sản với lãi suất cố định. Như thế ngân
hàng sẽ luôn luôn đảm bảo ổn định chênh lệch lãi suất đầu vào- đầu ra. Nhưng
thực tế thường rất khó có được sự tương xứng đồng nhất về khối lượng giữa ngồn
vốn – tài sản, cho nên ngân hàng cần nhận biết được rủi ro lãi suất và có những

biện pháp phòng ngừa, quản lí phù hợp nhằm tránh ảnh hưởng xấu đến tình trạng
hoạt động của ngân hàng.
=> Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng với tư cách
là trung gian của đời sống kinh tế , nó có quan hệ trực tiếp và thường xuyên với
các tổ chức kinh tế , vì vậy kinh doanh ngân hàng gặp phải rủi ro tất yếu sẽ gây ra
những ảnh hưởng đối với nền kinh tế và đời sống kinh tế xã hội .Rủi ro làm cho
lợi nhuận ngân hàng giảm, từ đó ngân hàng không có khả năng đáp ứng nhu cầu
về vốn cho khách hàng và chi trả chậm đối với người cho vay. Vì vậy, xét trong
nền kinh tế, rủi ro làm cho sản xuất bị đình trệ, các doanh nghiệp phải đóng cửa,
hàng hoá không đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường, tới một chừng mực nào đó
làm giá cả hàng hóa tăng vọt, đó chính là một trong những nguyên nhân của lạm
phát. Mặt khác, các ngân hàng thường lập một hệ thống chặt chẽ có mối liên hệ
với nhau, khi một ngân hàng gặp phải rủi ro có nguy cơ dẫn đến phá sản dễ dàng
kéo theo tình trạng khủng hoảng của cả hệ thống ngân hàng, gây mất ổn định trên
thị trường tiền tệ. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế phát triển, mọi hoạt động
thanh toán giao dịch của khách hàng đều được thực hiện qua ngân hàng, các
doanh nghiệp sông chủ yếu nhờ vốn ngân hàng, nên khi ngân hàng gặp rủi ro lớn
có thể gây chậm trễ trong công tác thanh toán của khách hàng, làm cản trở trực
tiếp quá trình chu chuyển vốn , tất yếu làm giảm lợi nhuận kinh doanh của doanh
nghiệp.
IV. QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
1. Quản lý rủi ro tín dụng:
Nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, các nhà quản lý đã tuân thủ các nguyên tắc quản
lý rủi ro tín dụng: sàng lọc và giám sát, thiết lập quan hệ khách hàng lâu dài, cam
kết cho vay, tài sản thế chấp, tồn số bù trừ và phân phối tín dụng.
a. Sàng lọc và giám sát
i. Sàng lọc
Sự lựa chọn bất lợi trong thị trường cho vay đòi hỏi các nhà cho vay phải lọc ra
các rủi ro tín dụng xấu để các khoản vay là có ích cho họ. Để thực hiện sàng lọc
hiệu quả, các nhà cho vay phải thu thập thông tin đáng tin cậy từ người đi vay

tiềm năng. Nhà cho vay thu thập thông tin về lợi nhuận, thu nhập, tài sản, các
10


Nhóm 13

khoản nợ phải trả và lịch sử thanh toán nợ của công ty – người đi vay. Từ những
thông tin đó, nhà cho vay sẽ đánh giá rủi ro tín dụng của công ty đi vay như thế
nào bằng cách tính toán “điểm tín dụng”, một biện pháp thống kê từ các dữ liệu
thu thập được để quyết định có nên cho vay hay không.
ii.

Giám sát

Khi một khoản vay đã được thực hiện, những người đi vay có thể thực hiện các
hoạt động đầu tư trong hạng mục rủi ro, điều này ảnh hưởng đến khả năng hoàn
trả lại khoản vay. Để giảm bớt rủi ro đạo đức, các tổ chức tài chính đã thiết lập
các quy định (giao ước hạn chế) trong hợp đồng vay. Bằng cách theo dõi các hoạt
động của khách hàng, các tổ chức tài chính sẽ giám sát việc tuân thủ các giao ước
hạn chế và bằng cách bắt buộc thực hiện các giao ước đó nếu họ không tuân thủ.
b. Các mối quan hệ khách hàng dài lâu
Thêm một cách cho các nhà quản lý tổ chức tài chính để có được thông tin về
khoản cho vay của họ là thông qua các mối quan hệ khách hàng dài lâu. Với một
khách hàng triển vọng đã có các giao dịch với tổ chức tài chính trong một thời
gian dài thì việc tìm hiểu những thông tin sẽ dễ dàng hơn, giúp giảm chi phí thu
thập thông tin và giúp dễ dàng việc sàng lọc ra những rủi ro tín dụng xấu. Bên
cạnh đó, mối quan hệ khách hàng lâu dài cũng giúp cho cả hai bên (người cho vay
– người vay) đều có lợi.
c. Cam kết cho vay
Các ngân hàng có một phương tiện đặc biệt để thể chế hóa mối quan hệ khách

hàng lâu dài được gọi là một cam kết cho vay. Một cam kết cho vay là cam kết
của ngân hàng( đối với một khoảng thời gian trong tương lai nhất định) để cung
cấp cho một công ty với các khoản vay lên đến một mức nhất định với lãi suất
được gắn với một số mức lãi suất thị trường. Một sự sắp xếp cam kết cho vay là
phương pháp hiệu quả cho việc giảm chi phí của ngân hàng để sàng lọc và thu
thập thông tin.
d. Tài sản thế chấp
Yêu cầu tài sản thế chấp cho khoản vay là công cụ quản lí rủi ro tín dụng quan
trọng. Các khoản vay với những yêu cầu tài sản thế chấp thường được gọi là các
khoản vay có đảm bảo, vì nó làm giảm thiệt hại của người cho vay trong trường
hợp người vay không trả. Nó cũng làm giảm rủi ro đạo đức vì người đi vay mất
nhiều hơn từ việc không trả được nợ. Tài sản thế chấp là một yêu cầu quan trọng
để bảo vệ cho các tổ chức tài chính cho vay, đó là lí do tại sao nó cực kì phổ biến
trong các khoản vay được thực hiện bởi các tổ chức tài chính.
e. Tồn số bù trừ
Một hình thức đặc biệt mà tài sản thế chấp yêu cầu khi một ngân hàng tạo các
khoản vay thương mại được gọi là tồn số bù trừ: một công ty nhận một khoản vay
11


Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

phải đạt được số lượng yêu cầu tối thiểu của quỹ tại tài khoản vãng lai của ngân
hàng. Ví dụ, một doanh nghiệp nhận được một khoản vay 10.000.000$ có thể
được yêu cầu giữ tồn số bù trừ tối thiểu 1.000.000$ trong tài khoản thanh toán của
nó ở ngân hàng. 1.000.000$ này trong tồn số bù trừ sau này có thể được ngân
hàng lấy để bù đắp tổn thất khoản vay nếu người vay vỡ nợ.
Cụ thể, bằng cách yêu cầu người đi vay dùng sử dụng một tài khoản thanh toán
ở ngân hàng, ngân hàng có thể quan sát thực tế thanh toán séc của công ty, cái mà
có thể mang lại rất nhiều thông tin về tình trạng tài chính của người đi vay. Bất kì

sự thay đổi đáng kể trong việc thanh toán của người vay là một tín hiệu cho ngân
hàng thực hiện thanh toán. Tồn số bù trừ do đó khiến ngân hàng dễ giám sát người
vay hiệu quả hơn và là một công cụ quản lí rủi ro tín dụng quan trọng.
f. Định mức tín dụng
Một cách khác mà các tổ chức tài chính đối phó với lựa chọn bất lợi và rủi ro
đạo đức là thông qua định mức tín dụng: từ chối cho vay mặc dù người vay sẵn
sàng trả lại suất quy định hoặc thậm chí là lãi suất cao hơn. Định mức tín dụng có
hai hình thức. Hình thức thứ nhất xảy ra khi người cho vay từ chối không cho
người vay vay bất kì khoản nào, thậm chí nếu người vay sẵn sàng trả một mức lãi
suất cao hơn. Hình thức thứ hai xảy ra khi người cho vay sẵn sàng cho vay nhưng
hạn chế khoản cho vay thấp hơn khoản vay mà người vay cần.
Tổ chức tài chính chọn hình thức thứ hai của hạn chế tín dụng để bảo vệ chống
lại rủi ro đạo đức: họ cho vay đối với khách hàng vay nhưng không lớn như người
vay mong muốn. Hạn chế tín dụng như vậy là cần thiết bởi vì khoản vay càng lớn
thì lợi ích từ rủi ro đạo đức sẽ càng lớn. Thêm vào đó, nhiều người vay trả lại
khoản nợ của họ nếu khoản nợ nhỏ, tổ chức tài chính hạn chế tín dụng bằng cách
cung cấp cho người vay khoản nợ vay nhỏ hơn khoản vay họ cần
2. Quản lý rủi ro lãi suất:
Với sự biến động tăng của lãi suất xảy ra những năm 1980, nhà quản lý của tổ
chức tài chính trở nên quan tâm hơn về rủi ro lãi suất, rủi ro của các khoản thu
nhập và lợi nhuận được kết hợp với sự thay đổi trong lãi suất. Bước đầu tiên trong
việc đánh giá rủi ro lãi suất là người quản lý quyết định tài sản và nợ phải trả ở
mức tỉ lệ nhạy cảm, chính là lãi suất sẽ được định giá lại trong năm nay. Lưu ý
rằng tỉ lệ nhạy cảm giữa tài sản hay nợ phải trả có thể có lãi suất được thiết lập lại
trong năm hoặc các công cụ nợ đáo hạn trong vòng 1 năm vì việc định lại giá
được thực hiện tự động.
Ví dụ dưới đây sẽ cho thấy nhũng rủi ra sẽ xảy ra khi lãi suất thay đổi.
Đây là bảng cân đối kế toán của ngân hàng First National:
TÀI SẢN (triệu USD)
NỢ PHẢI TRẢ (triệu USD)


12


Nhóm 13

Dự trữ và các mặt hàng bằng
tiền mặt
Chứng khoán
Ít hơn 1 năm
Từ 1 đến 2 năm
Hơn 2 năm
Thế chấp nhà ở
Lãi suất biến đổi
Lãi suất cố định (30 năm)
Khoản vay thương mại
Ít hơn 1 năm
1 đến 2 năm
Hơn 2 năm
Vốn vật chất

5

Tổng cộng

100

5
5
10

10
10
15
10
25
5

Tiền gửi thanh toán
Thị trường tiền tệ
Tài khoản tiền gửi
Tiền gửi tiết kiệm
CDs
Lãi suất biến đổi
Ít hơn 1 năm
1 đến 2 năm
Quỹ Fed
Vay
Ít hơn 1 năm
1 đến 2 năm
Hơn 2 năm
Vốn ngân hàng

15

Tổng cộng

100

5
15

10
15
5
5
10
5
5
5

Tài sản có tỉ lệ nhạy cảm rõ ràng là chứng khoán với kỳ hạn dưới 1 năm (5tiệu
$), lãi suất biến thiên thế chấp (10 triệu $), và khoản vay thương mại cùng các kì
hạn dưới 1 năm (1 triệu $), cho 1 tổng 30 triệu $. Tuy nhiên, một số tài sản có vẻ
giống như tài sản tỉ lệ cố định mà lãi suất của nó không được định giá lại trong
năm thực sự có 1 thành phần, đó là tỉ lệ nhạy cảm.
Các giám đốc ngân hàng bây giờ đi qua một quy trình tương tự để xác định
tổng số tiền Nợ nhạy cảm với lãi suất. Số tiền Nợ nhạy cảm với lãi suất rõ ràng là
tài khoản tiền gửi trên thị trường tệ (5.000.000 $), CD biến suất và CD kỳ hạn
thanh toán dưới 1 năm (25.000.000 $), các quỹ liên bang ($ 5.000.000), và vay
với kỳ hạn thanh toán dưới một năm (10 triệu $), tổng số 45 triệu $. Ngân hàng có
thể thay đổi lãi suất tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm bất cứ lúc nào, mặc
dù các ngân hàng thường muốn giữ mức giá của họ cố định trong một thời gian
đáng kể. Do đó, những khoản nợ này là một phần chứ không phải toàn bộ tỉ lệ
nhạy cảm.Giám đốc ngân hàng ước tính rằng 10% tiền gửi thanh toán (1,5 triệu $)
và 20% số tiền gửi tiết kiệm (3.000.000 $) cần được cân nhắc tỷ lệ nhạy cảm.
Thêm 1.500.000 $ và 3.000.000 $ vào số tiền 45.000.000 $ sẽ tạo ra tổng
49.500.000 $ cho khoản nợ nhạy cảm.
Bây giờ, giám đốc ngân hàng có thể phân tích những gì sẽ xảy ra nếu lãi suất
tăng thêm 1%, trung bình từ 10% đến 11%. Thu nhập trên tài sản tăng thêm
320.000 $ (= 1% x 32.000.000$ tài sản nhạy cảm với lãi suất), trong khi các
khoản thanh toán trên khoản nợ tăng thêm 495.000$ (= 1% x 49.500.000 $ khoản

nợ nhạy cảm). Lợi nhuận của ngân hàng Trung ương suy giảm một khoản
13


Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

175.000$ = (320.000$ -495.000$). Trong trường hợp này, sự gia tăng 1% lãi suất
có dẫn đến một sự suy giảm của lãi ròng biên một tỉ lệ 0,175% (= -175.000$ /100
triệu$). Ngược lại, nếu lãi suất giảm 1%, lý luận tương tự cho chúng ta biết thu
nhập Ngân hàng trung ương tăng thêm 175.000 và lãi ròng biên của nó tăng thêm
0,175%.
Ví dụ này minh họa các điểm sau: Nếu một tổ chức tài chính có khoản nợ
nhạy cảm nhiều hơn với tài sản, tăng lãi suất sẽ giảm lợi nhuận thuần cận biên
và thu nhập, và sự suy giảm của lãi suất sẽ tăng lãi ròng biên và thu nhập.
 Đo lường rủi ro lãi suất
a. Phân tích chênh lệch thu nhập

Một phương pháp đơn giản và nhanh chóng để đo độ nhạy của thu nhập ngân
hàng đối với sự thay đổi lãi suất là phân tích chênh lệch (còn gọi là phân tích
chênh lệch thu nhập), trong đó số tiền nợ nhạy cảm được trừ từ số tài sản nhạy
cảm.Sự tính toán này, GAP, có thể được viết như:
GAP = RSA – RSL

(1)

Trong đó:
RSA : Tài sản nhạy cảm với lãi suất
RSL : Tỷ lệ nợ nhạy cảm
Trong ví dụ, các giám đốc ngân hàng tính toán GAP được :
GAP = 32 triệu $- 49,5 triệu $ = - 17,5 triệu$

Nhân số lần chênh lệch sự thay đổi trong lãi suất ngay lập tức tiết lộ sự ảnh
hưởng đến thu nhập của ngân hàng:
I = GAP x i

(2)

Trong đó:
I = sự thay đổi trong thu nhập của ngân hàng
i = sự thay đổi lãi suất

Ví dụ 1:
Sử dụng -17.500.000$ chênh lệch được tính trong công thức (1), có sự thay đổi
gì trong thu nhập nếu lãi suất tăng thêm 1%?
Cách giải:
Thu nhập thay đổi: -175.000$
I = GAP x i
Trong đó:
GAP = RSA – RSL = -17.500.000$
14


Nhóm 13

i = 0,01
Do đó:
I = -17,5 triệu x 0,01 = -175.000$
Các phân tích của ví dụ trên là những phân tích chênh lệch cơ bản, nó bị tổn
thất từ một vấn đề là nhiều tài sản và các khoản nợ mà không được phân loại dù tỷ
lệ nhạy cảm có kỳ hạn thanh toán khác nhau.
Một phương pháp tốt hơn để giải quyết với vấn đề này là phương pháp tiếp

cận kỳ hạn, phương pháp đo lường chênh lệch các khoảng con kỳ hạn để có thể
tính toán những tác động của việc thay đổi lãi suất qua nhiều năm.
Ví dụ 2:
Giám đốc của ngân hàng First National thông báo bảng cân đối kế toán của
ngân hàng cho phép ông đưa tài sản và các khoản nợ vào phương pháp tiếp cận kỳ
hạn, nó cho phép ông ước tính sự thay đổi tiềm năng trong thu nhập vào một hay
hai năm tới. Tài sản nhạy cảm với lãi suất trong giai đoạn này bao gồm
5.000.000$ chứng khoán đáo hạn trong 1 đến 2 năm, 10.000.000$ khoản cho vay
thương mại đáo hạn trong 1 đến 2 năm, và thêm 2.000.000$ (20% lãi suất thế
chấp cố định) mà các ngân hàng mong đợi sẽ được hoàn trả. Nợ nhạy cảm với lãi
suất trong giai đoạn này bao gồm 5.000.000$ các chứng chỉ tiền gửi từ 1-2 năm,
5.000.000$ các khoản vay từ một đến hai năm, 1.500.000$ các tài khoản thanh
toán ngân hàng (checkable deposits) (giám đốc ngân hàng ước tính 10% tài khoản
thanh toán ngân hàng là chỉ số nhạy cảm trong thời kỳ này), và thêm 3.000.000$
các tài khoản gửi tiết kiệm (ước tính chiếm 20% tổng tài khoản tiết kiệm). Trong
vòng 1-2 năm tiếp theo, nếu lãi suất tăng thêm 1% thì sẽ phải tính sự chênh lệch
và sự thay đổi trong thu nhập.
Cách giải:
Chênh lệch được tính cho khoảng thời gian một đến hai năm là 2.5 triệu USD.
Trong đó:
RSA : Tài sản nhạy cảm với lãi suất = 17 triệu USD
RSL : Nợ nhạy cảm với lãi suất = 14.5 triệu USD
Do đó,
GAP = 17 triệu USD – 14.5 triệu USD = 2.5 triệu USD
Nếu lãi suất tiếp tục tăng cao hơn 1% thì thu nhập trong năm thứ hai sẽ lên đến
25 nghìn USD.
Trong đó:
GAP = RSA – RSL = 2.5 triệu USD
= tỉ lệ lãi suất thay đổi = 0.01
Do đó,

15


Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

Bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận kỳ hạn chính xác hơn, giám đốc ngân
hàng có thể tính toán được điều gì sẽ xảy ra với thu nhập của ngân hàng qua
những năm tiếp theo khi có sự thay đổi trong lãi suất.
b. Phân tích chênh lệch thời lượng

Phương pháp phân tích chênh lệch thu nhập (GAP) chúng ta vừa tìm hiểu chỉ
tập trung vào tác động của sự thay đổi lãi suất đến thu nhập. Tuy nhiên, trên thực
tế, những người chủ sở hữu và giám đốc của các tổ chức tài chính không chỉ quan
tâm đến tác động của sự thay đổi lãi suất đến thu nhập mà họ còn quan tâm đến
tác động của thay đổi này đến giá trị trên thị trường của giá trị ròng của tổ chức tài
chính. Một phương pháp khác cho việc đo lường rủi ro lãi suất, được gọi là phân
tích chênh lệch thời lượng (duration gap analysis), nghiên cứu tính nhạy cảm
của giá trị thị trường của giá trị ròng của tổ chức tài chính thay đổi theo tỉ lệ lãi
suất.
Thời gian là một khái niệm hữu ích bởi nó cung cấp con số xấp xỉ gần đúng
nhất (một cách chi tiết khi có sự thay đổi nhỏ trong tỉ lệ lãi suất) tính nhạy cảm
của giá trị thị trường của chứng khoán thay đổi trong tỉ lệ lãi suất của nó theo
công thức dưới đây:

Trong đó:
= phần trăm thay đổi trong giá trị thị trường của chứng khoán
= khoảng thời gian
= tỉ lệ lãi suất
Sau khi đã xác định được khoảng thời gian của tất cả các tài sản và khoản nợ
phải trả trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng, giám đốc ngân hàng có thể sử

dụng công thức này để tính toán xem giá trị thị trường của mỗi tài sản và khoản
nợ phải trả thay đổi như thế nào khi có sự thay đổi tỉ lệ lãi suất và sau đó tính sự
tác động đến giá trị ròng.
Khoảng thời gian được tính là là bình quân gia quyền thời lượng của các chứng
khoán riêng lẻ, với trọng số cho thấy sự cân đối của danh mục đầu tư. Có nghĩa là
giám đốc ngân hàng có thể tính toán được ảnh hưởng mà sự thay đổi tỉ lệ lãi suất
sẽ xảy ra với giá trị thị trường của giá trị ròng bằng cách tính trung bình các khoản
thời gian của tài sản và khoản nợ phải trả, sau đó sử dụng những con số đó để ước
lượng ảnh hưởng của sự thay đổi tỉ lệ lãi suất.
Để thấy được một giám đốc ngân hàng làm điều này như thế nào, ta trở lại với
Bảng cân đối kế toán của Ngân hàng First National Bank. Đối với mỗi tài sản,
người giám đốc tính trọng số khoảng thời gian bằng cách nhân các khoảng thời
gian với số lượng tài sản rồi chia cho tổng tài sản, trong trường hợp là 100 triệu
USD. Ví dụ, trong trường hợp chứng khoán có kỳ hạn dưới 1 năm, người giám
đốc sẽ nhân 0.4 năm (khoảng thời gian) với 5.000.000$ và chia cho 100.000.000$
để có được kết quả của trọng số khoảng thời gian là 0.02. Làm tương tự cho tất cả
16


Nhóm 13

các tài sản và cộng chúng lại, người giám đốc sẽ có được con số về khoảng thời
gian bình quân của các tài sản là 2.7 năm.
Tương tự với các khoản nợ phải trả, lưu ý tổng nợ phải trả (không bao gồm
nguồn vốn) là 95.000.000$. Ví dụ, trọng số khoảng thời gian của tài khoản thanh
toán ngân hàng được xác định như sau: nhân khoảng thời gian 2 năm với 15 triệu
USD và chia cho 95 triệu USD, ta có kết quả là 0.32. Cộng các trọng số khoảng
thời gian này lại, người giám đốc có được trung bình khoảng thời gian của nợ phải
trả là 1.03 năm.
Ví dụ 1:

Giám đốc ngân hàng muốn biết điều gì xảy ra khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 10% lên
11%. Tổng tài sản là 100 triệu USD, và tổng nợ phải trả là 95 triệu USD. Sử dụng
phương trình (3) để tính sự thay đổi giá trị thị trường của tài sản và nợ phải trả.
Cách giải:
Với một tài sản trị giá 100 triệu USD, giá trị thị trường của tài sản giảm xuống
2.5 triệu USD (100 triệu USD x 0.025 = 2.5 triệu USD)
Trong đó:
DUR = thời gian = 2.70
∆i= Thay đổi trong lãi suất = 0,11-0,10 = 0,01
i = lãi suất = 0.10
Do đó,
%∆P ≈ -2.70 x = - 0.025 = - 2.5%
Với tổng số nợ phải trả của 95.000.000 $, giá trị thị trường của các khoản nợ
rơi bởi $ 0.900.000
(95.000.000$ 0,009 = - 900.000$).
%∆P ≈ -DUR x
Với
DUR = thời gian = 1,03
∆i= Thay đổi trong lãi suất = 0,11-0,10 = 0,01
i = lãi suất = 0.10
Do đó,
%∆P ≈ -1.03 x = - 0,009% = - 0.9%
Kết quả là giá trị ròng của ngân hàng sẽ giảm 1.600.000$
(-2.500.000$ - (- 900.000$) = - 2.500.000$ + 900.000 $ = - 1.600.000$).
Các nhà quản lý ngân hàng có thể đã có được câu trả lời một cách nhanh chóng
hơn bằng cách tính toán được gọi là một khoảng cách thời gian, được định nghĩa
như sau:
17



Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

DURgap = DURa – (– DURi) (4)
Trong đó:
DURa = thời gian trung bình của tài sản
DURi = thời gian trung bình của các khoản nợ
L = thị trường của các khoản nợ
A = Một giá trị thị trường của tài sản
BẢNG 23.1 Thời hạn của tài sản và nợ phải trả ngân hàng First National
Số tiền
Thời gian
Thời gian gia
(Triệu $) (năm)
quyền (năm)
Tài sản
Dự trữ và các mặt hàng 5
0.0
0.00
bằng tiền mặt
Chứng khoán
Ít hơn 1 năm
5
0.4
0.02
1-2 năm
5
1.6
0.08
Lớn hơn 2 năm
10

7.0
0.70
Thế chấp nhà ở
Lãi suất thay đổi
10
0.5
0.05
Lãi suất cố định (30 10
6,0
0.60
năm)
Vay thương mại
15
0.7
0.11
Dưới 1 năm
10
1.4
0.14
1-2 năm
25
4.0
1.00
Lớn hơn 2 năm
5
0.0
0.00
Vốn vật chất
2.70
Thời Hiant rung bình

Nợ phải trả
15
2.0
0.32
Tiền gửi Checkable
5
0.1
0.01
Chiếm huy động thị 15
1.0
0,16
trường tiền
Tiền gửi tiết kiệm
10
0.5
0.05
CDs
15
0.2
0.03
Lãi suất thay đổi
5
1.2
0.06
Dưới 1 năm
5
2.7
0.14
1-2 năm
5

0.0
0.00
Lớn hơn 2 năm
Quỹ Fed
10
0.3
0.03
Vay
5
1.3
0.07
Dưới 1 năm
5
3.1
0.16
1-2 năm
1.03
Lớn hơn 2 năm
Thời gian trung bình
18


Nhóm 13

Ví dụ 2:
Dựa trên những thông tin được cung cấp trong ví dụ 3, sử dụng phương trình 4
để xác định khoảng cách thời gian cho First National Bank.
Cách giải:
Khoảng cách thời gian cho First National Bank là 1,72 năm.
DURgap= DURa – ( x DURl)

Trong đó:
DURa = tuổi thọ trung bình của tài sản = 2.70
L = giá trị thị trường của nợ = 95
A = giá trị thị trường của tài sản = 100
DURi = tuổi thọ trung bình của các khoản nợ = 1,03
Do đó,
DURgap= 2,7- (x1.03)= 1,72 năm
Ví dụ 3:
Tỷ lệ phần trăm thay đổi trong giá trị thị trường của tài sản ròng trên tổng tài
sản khi lãi suất tăng từ 10% đến 11% là gì? (Sử dụng phương trình 5.)
Cách giải:
Tăng lãi suất từ 10% đến 11% sẽ dẫn đến một sự thay đổi trong giá trị thị
trường của tài sản ròng như là một tỷ lệ phần trăm tài sản của -1.6%.
- DURgap x
Với:
DURgap: khoảng cách thời gian =1,72
∆i: tỉ lệ thay đổi của lãi suất= 0,11-0,1=0,01
i : tỉ lệ lãi suất = 0,1
do đó:
-1,72 x = -0,016= -1,6%
Để ước lượng được điều gì sẽ xảy ra nếu tỉ lệ lãi suất thay đổi, quản lý ngân
hàng sử dụng các phép tính DUR gap trong phương trình (4) để có được tỷ lệ phần
trăm sự thay đổi trong giá trị thị trường của tài sản ròng trên tổng tài sản. Nói cách
khác, tỷ lệ phần trăm sự thay đổi trong giá trị thị trường của tài sản ròng trên tổng
tài sản được tính như sau:
- DURgap

(5)

19



Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

Với tổng tài sản 100.000.000$, ví dụ 3 cho thấy một sự sụt giảm về giá trị thị
trường của tài sản ròng là 1.600.000 USD, đó cũng là số tiền tương tự mà chúng
ta thấy trong ví dụ 1.
Với các ví dụ chúng ta đã làm, cả hai sự phân tích khoảng cách thu nhập và
phân tích khoảng cách thời gian chỉ ra rằng First National Bank sẽ bị chịu ảnh
hưởng khi lãi suất tăng. Thật vậy, trong ví dụ 3 này, chúng ta đã thấy rằng sự gia
tăng lãi suất từ 10% đến 11% sẽ dẫn đến giá trị thị trường của tài sản ròng sẽ giảm
1.600.000$, đó một phần ba số tiền vốn của ngân hàng. Như vậy, người quản lý
ngân hàng nhận ra rằng các ngân hàng phải đối mặt với rủi ro lãi suất vì sự gia
tăng lãi suất có thể dẫn đến mất rất nhiều vốn. Rõ ràng, phân tích khoảng cách thu
nhập và phân tích khoảng cách thời gian là những công cụ hữu ích để cho một
người quản lý tổ chức tài chính biết mức độ của tổ chức gặp phải rủi ro lãi suất.
V.

LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ RỦI RO TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
VÀ CÁCH KHẮC PHỤC.
1. Thực trạng quản trị rủi ro tài chính tại Việt Nam:
Quản trị rủi ro tài chính là một vấn đề đã được đề cập nhiều trong giới
khoa học ở Việt Nam, nhưng việc nhận thức tầm quan trọng của nó vẫn còn rất sơ
sài trong doanh nghiệp nước ta.Nghiên cứu các mức độ rủi ro tài chính bao gồm
rủi ro thị trường, tín dụng, hoạt động và rủi ro thanh khoản vẫn còn nhiều điều
chưa được lường tính hết và chưa có các công cụ đầy đủ cho phép thực hiện
những bước đi đầu tiên đó. Vì vậy, việc đưa ra những quyết định quản trị rủi ro
nhằm giảm thiểu những tổn thất tiềm ẩn là cần thiết.
Hệ thống lý thuyết về quản trị rủi ro tài chính cho bộ phận doanh nghiệp
thực tế đã được phát triển tương đối đầy đủ và đa dạng, xét ngay tại Việt Nam.

Điều này bắt nguồn từ ba thực tế cụ thể bao gồm sự năng động và biến đổi đa
dạng của các điều kiện tài chính, kinh tế trong suốt hơn ba thập kỷ vừa qua, thứ
hai là tiến bộ trong việc xây dựng các học thuyết tài chính kinh tế nói chung, và
nguyên nhân cuối cùng chính là sự phát triển của sức mạnh công nghệ, cho phép
giải quyết các mô hình toán học sử dụng nhiều biến số phức tạp, phục vụ hoạt
động quản trị.
Ở Việt Nam, hiện nay, giới nghiên cứu luôn cố gắng để vừa chỉ ra các rủi ro đặc
trưng đối với thị trường trong nước, vừa xác định cấp độ rủi ro. Tuy nhiên, việc
tìm ra một phương thức quản trị rủi ro nhằm hạn chế tối đa những tổn thất do các
vấn đề nêu trên gây ra vẫn chưa có tính thực tiễn cao, đồng thời một phần do tư
duy quản lý của doanh nghiệp còn khá mới mẻ với việc sử dụng các công cụ toán
học cũng như chưa hình thành được một văn hóa quản trị rủi ro một cách đầy đủ.
2. Nguyên nhân rủi ro tài chính tại Việt Nam:

LẠM PHÁT

20


Nhóm 13

TỶ GIÁ BỊ
ĐÔ LA HÓA

RỦI RO

NỢ XẤU, MẤT KHẢ NĂNG
THANH TOÁN

LÃI SUẤT


Nhân tố đầu tiên gây ra rủi ro thị trường tài chính ở Việt Nam là mức độ lạm
phát. Sau thời kỳ khủng hoảng 2007-2009, lạm phát vẫn duy trì ở mức cao trong
năm 2011 (18%). Năm 2012, lạm phát đã giảm xuống còn 6,8%. Chính sách tiền
tệ của Chính phủ đã có tác động phần nào, tuy nhiên điều đáng nói là hàng tồn
kho tại rất nhiều doanh nghiệp nội địa lại tăng một cách bất thường. Chỉ số tồn
kho bình quân cả nước duy trì ở mức cao tại nhiều thời điểm trong năm. Điều này
cho thấy sức mua trung bình cả nước đã sụt giảm đáng kể chứ không hẳn chính
sách tiền tệ là nguyên nhân chính kiềm chế lạm phát. Ngoài ra, việc kiềm chế lạm
phát từ một mức cao xuống một mức thấp bất thường trong thời ngắn chưa hẳn đã
là một hiện tượng tích cực vì nó gây ra những đứt gãy bất thường trong quản lý
dòng tiền, thể hiện tính ngắn hạn trong các giải pháp được sử dụng.

Hình 1: CPI 10 tháng đầu năm 2013

Thực tế cho thấy chỉ số CPI năm 2012 đạt mức 18%, nhưng trong 5 tháng đầu
năm 2013, có thời điểm 3 tháng liên tục duy trì ở mức âm; chỉ trong tháng 6 vừa
qua, ở các thành phố lớn, CPI của một vài ngành hàng mới tăng nhẹ trở lại.
21


Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

Hình 2: GDP qua các năm 2007-2013

Ngoài ra GDP vẫn đảm bảo mức tăng trưởng trung bình trong 10 năm trở lại
đây là 7,3%, tuy nhiên tỷ trọng đầu tư xã hội so với GDP lại sụt giảm mạnh,
khoảng 25% trong khoảng thời gian hơn 2 năm (năm 2010 đạt 42%, năm 2011 đạt
34,6%, năm 2012 chạm đáy 33%. “Thiếu tiền” thực chất là nguyên nhân chính
chứ chưa phải là các chính sách kiềm chế lạm phát đã có tác dụng toàn diện.

Tiếp theo, vấn đề tỷ giá của một nền kinh tế đang ngày càng bị đôla hóa như
Việt Nam là hết sức nan giải. Báo cáo tài chính doanh nghiệp cũng như công tác
đánh giá lại tỷ giá hàng năm được yêu cầu sử dụng tỷ giá liên ngân hàng do Ngân
hàng Nhà nước công bố (các ngân hàng thương mại cũng phải niêm yết theo mức
giá này). Đây được coi là kênh chính thức cho việc tham chiếu tỷ giá ngoại hối,
nhưng doanh nghiệp và người dân rất khó tiếp cận, đa phần phải sử dụng tỷ giá
trên thị trường tự do, thường là cao hơn. Thêm vào đó, tỷ giá so với đồng USD
vẫn duy trì ở mức cao gây ra nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
tại chỗ.
Bên cạnh lạm phát và tỷ giá, vấn đề lãi suấtcũng là một thành tố cơ bản trong
những quyết định tài chính – một cơ sở để ước lượng mức độ rủi ro trong các
quyết định huy động vốn hoặc đầu tư. Trong suốt 5 năm trở lại đây, bài toán vừa
duy trì sức ép tăng trưởng kinh tế đồng thời phải kiềm chế lạm phát, chính sách
kinh tế vĩ mô đã phải dựa vào những biện pháp khác như quy định trần lãi suất
hoặc cho phép sử dụng lãi suất thỏa thuận. Lãi suất cơ bản trong thời gian gần đây
ít nhiều đang bị lu mờ dưới tư cách là một công cụ điều tiết nền kinh tế.
Bên cạnh những biến động ngày càng bất thường của thị trường tài chính,
các vấn đề khác như nợ xấu, mất khả năng thanh khoản đối với các khoản nợ đều
đang ở những mức độ tương đối tiêu cực. Chính sách kinh tế hạn chế tăng trưởng
tín dụng, mặc dù lãi suất cơ bản duy trì ở mức vừa phải, khiến cho việc tiếp cận
nguồn vốn giá rẻ thực chất lại không đơn giản với các doanh nghiệp. Do thiếu một
sự liên tục về mặt chiến lược trong một thời gian, nên dù cuối năm 2012 và đầu

22


Nhóm 13

năm 2013, tín dụng tăng gần 9%, doanh nghiệp nhìn chung cũng không có đủ
chuẩn bị để hấp thụ một cách tốt nhất.

Trước thực tế rủi ro về thị trường tài chính rất bất thường, cũng như các rủi
ro về thanh khoản và tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam khi được hỏi về vấn đề
quản trị rủi ro, thì đa phần có tâm lý đơn giản, đổ lỗi cho “khó khăn chung”, mà
không có sự giải thích mang tính khoa học hoặc chuẩn hóa về việc không đạt
được các mục tiêu đề ra. Rõ ràng doanh nghiệp trong nước đang thiếu một quy
trình chính thức và chuẩn mực cho việc đánh giá, báo cáo và kiểm soát quản lý rủi
ro. Việc thuê ngoài các công ty tư vấn tài chính lớn gặp một khó khăn là chi phí
khá cao, đồng thời cũng do cách suy nghĩ quan ngại rằng thực tế quản lý doanh
nghiệp Việt Nam không thể áp dụng những chuẩn mực chung của quốc tế. Điều
này được chia sẻ bởi không ít khách hàng lớn của các công ty kiểm toán và tư vấn
thuế độc lập như PwC hay KPMG.
Với những lý do như trên, chúng ta hiểu rằng, trước khi giải thích hay đào
tạo các phương pháp định lượng phức tạp trong quản trị rủi ro cho doanh nghiệp,
bộ phận quản trị cần được nâng cao nhận thức về các rủi ro tài chính và các tác
động của nó. Quản trị rủi ro tài chính cần phải được hình thành như một dạng thức
văn hóa trong các quyết định quản trị. Hiện tại rất nhiều cơ sở đào tạo có uy tín,
thậm chí các công ty tư vấn lớn không thiếu các chương trình đào tạo về tư vấn
doanh nghiệp, tuy nhiên các khung chương trình đưa ra chưa gắn liền với thực
tiễn quản lý, chưa chỉ ra được lợi ích hay một quy trình chuẩn cho doanh nghiệp,
mà vẫn nặng về các kinh nghiệm thực tiễn của cá nhân người tư vấn.
3. Cách khắc phục:
- Nâng cao kiến thức của bản thân doanh nghiệp:
Rủi ro tài chính trong tình hình kinh tế thế giới cũng như trong nước nhiều biến
động như hiện nay là không thể tránh khỏi, nhất là khi Việt Nam đang thực hiện
chính sách mở cửa hội nhập. Với nền kinh tế đang phát triển, còn nhiều yếu kém,
thị trường tài chính nước ta hoàn toàn dễ dàng bị tác động mạnh mẽ bởi diễn biến
trên thị trường thế giới. Do đó, các định chế tài chính trong nước cần chú trọng
hơn nữa vào công tác quản trị rủi ro tài chính của doanh nghiệp mình, chủ động
trong việc dự báo và áp dụng các công cụ phái sinh để giảm thiểu rủi ro tín dụng
cũng như lãi suất. Việc doanh nghiệp chủ động hơn trong việc đối mặt với rủi ro

tài chính cũng sẽ góp phần làm cho thị trường tài chính ngày càng ổn định hơn,
nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như tăng cơ hội đầu tư cho các doanh nghiệp.
a. Đối với rủi ro tín dụng:
- Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của
cán bộ nhân viên:

23


Quản lí rủi ro trong tổ chức tài chính

Tăng cường công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ làm công tác nghiệp vụ,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ tín dụng và kiểm soát nội bộ và đội ngũ quản lý rủi ro
bằng nhiều hình thức trong đó chú trọng hơn nữa công tác đào tạo tại chỗ nhằm
nâng cao năng lực quản trị ngân hàng của đội ngũ cán bộ nghiệp vụ nhất là năng
lực quản trị rủi ro: tín dụng, thanh khoản, thị trường, đạo đức nghề nghiệp…;
trong điều kiện nền kinh tế cả nước nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng
đang gặp nhiều khó khăn, có nhiều diễn biến khó lường như hiện nay, không xem
nhẹ rủi ro nào.
-

Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng vay vốn và dự án
vay vốn:

Các Ngân hàng cần sàng lọc lựa chọn khách hàng; nắm vững thông tin
khách hàng vay vốn thông qua thẩm định, kiểm tra; chủ động tìm kiếm các nguồn
thông tin khác từ cơ quan thuế, tài chính, kiểm toán; thông tin từ các ngân hàng và
tổ chức tín dụng trên địa bàn; các phương tiện thông tin đại chúng…; giám sát
khách hàng việc sử dụng vốn vay và việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng
trên cơ sở đó tiến hành tính điểm tín dụng, đánh giá, xếp loại khách hàng để có

quyết định cho vay. Ngân hàng nên sử dụng có hiệu quả thông tin tín dụng từ
Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC); đồng thời, xây
dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng, tập hợp, thu thập thông tin đầy đủ về
khách hàng; kịp thời phát hiện những biểu hiện yếu kém của khách hàng từ đó
hạn chế hoặc từ chối cho vay.
-

Nâng cao hiệu quả của công tác kiểm soát nội bộ

Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ với tinh thần nghiêm túc nhằm phát
hiện nhanh những khoản vay có vấn đề, đồng thời giúp các nhà quản lý xác định
được quá trình tác nghiệp của cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng quy chế, quy trình
nghiệp vụ hay không. Quá trình kiểm soát cẩn thận và nghiêm túc để đảm bảo
đánh giá được tất cả những đặc tính quan trọng nhất đối với khoản vay. Từ đó
giúp Ban lãnh đạo đánh giá được toàn bộ rủi ro tiềm tàng của hệ thống và nhu cầu
vốn trong tương lai.
-

Hoàn thiện chính sách quản lý rủi ro: Một chính sách quản lý rủi ro bao
gồm:

Nhận biết rủi ro: Bước đầu tiên để có một chính sách quản trị rủi ro hiệu
quả là phải nhận biết và xác định được các loại rủi ro mà Ngân hàng có thể gặp
phải.
Xác định hạn mức rủi ro: Bộ phận quản lý rủi ro phải xác định hạn mức rủi
ro cho ngân hàng, là mức rủi ro nhất định mà ngân hàng có thể chấp nhận. Hội
đồng quản trị theo định kỳ có trách nhiệm xem xét lại và thông qua các hạn mức
đó. Các mức này sau đó được thông báo tới toàn bộ cán bộ, nhân viên các bộ phận
24



Nhóm 13

nghiệp vụ và ban điều hành. Ban điều hành chịu trách nhiệm đảm bảo các bộ phận
nghiệp vụ tuân thủ các hạn mức này. Có tỷ lệ thưởng và phạt tính trên tổng số
thấp hơn và lớn hơn tổng số vượt hạn mức đó.
Ðịnh lượng rủi ro: là việc đề ra và xem xét lại hạn mức rủi ro, giúp ban
điều hành xác định được rủi ro cần được ưu tiên theo dõi và kiểm soát. Kiểm soát
rủi ro: Rủi ro được kiểm soát bằng việc thực hiện các thủ tục nằm trong hệ thống
kiểm soát nội bộ của ngân hàng nhằm giảm thiểu rủi ro. Ban điều hành phải tìm ra
sự cân bằng tối ưu giữa chi phí cho các thủ tục kiểm soát và lợi ích đem lại từ các
thủ tục đó, từ đó lựa chọn các thủ tục kiểm soát rủi ro phù hợp.
-

Phát triển sản phẩm phái sinh rủi ro tín dụng

Phái sinh rủi ro tín dụng là một hình thái chuyển giao rủi ro tín dụng bậc
cao nhằm giúp các ngân hàng có một công cụ để chuyển giao mua, bán, gia công,
chế biến rủi ro tín dụng mà không cần phải chuyển giao các danh mục tín dụng
của mình.
Để sản phẩm này có thể phát triển góp phần vào việc quản lí rủi ro tín dụng
của các NHTM Việt Nam đòi hỏi sự góp sức hỗ trợ từ phía NHNN cũng như các
bộ ngành có liên quan, hiệp hội ngân hàng và bản thân các NHTM.
Cần chú trọng tới việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thống nhất về nghiệp
vụ tài chính phái sinh và phái sinh tín dụng cho các NHTM.
+

+

Các ngân hàng phải có hệ thống quản lí rủi ro có khả năng định lượng được


rủi ro.
Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, đầu tư nhất định về vốn và nhân lực.Việc
áp dụng công nghệ thanh toán điện tử giúp cho quá trình thanh toán chính xác và
hiệu quả hay việc cập nhật thông tin diễn biến của thị trường về các loại hàng hóa
giao dịch trên thị trường sẽ giúp cho các tổ chức tài chính cũng như những chủ thể
khác tham gia giao dịch có quyết định đúng đắn trong việc sử dụng các công cụ
tài chính phái sinh một cách có hiệu quả để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh.
+

Ngoài ra, hợp đồng giao dịch cần phải được chuẩn hóa. Các quy định phải cụ
thể chặt chẽ như quy định những loại tài sản được sử dụng làm tài sản cơ sở, số
lượng mỗi lô giao dịch… Tương tự như hợp đồng bảo hiểm, sự kiện rủi ro có liên
quan đến biến cố chi trả bảo hiểm cần được xác định rõ phạm vi, giới hạn trả tiền
và các trường hợp loại trừ (trường hợp xảy ra biến cố nhưng không được trả tiền),
tránh trường hợp quy định không rõ ràng dẫn đến tranh chấp giữa người tham gia
bảo hiểm và công ty chi trả tiền bảo hiểm .
+

25


×