Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tìm hiểu việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn cuối năm 2015 trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp lý.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.52 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kỳ quan
trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó ảnh hưởng lớn đến các biến
số vĩ mô như: công an việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát... Để đạt được các
mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ
bản, quyết định. Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt
là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng
đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các
công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một
vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch
định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt
là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên
cứu về chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Bước
sang thế kỷ 21, Việt Nam xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế - công bằng xã
hội, vì vậy việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia có hiệu quả nhất là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Nhận thấy tầm quan
trọng của vấn đề này nên em quyết định chọn đề tài : “Tìm hiểu việc thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn cuối năm 2015 trở lại đây và
đề xuất ý kiến pháp lý.”

I.
1.

NỘI DUNG
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Khái niệm

Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương
khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các
mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế. Tùy
thuộc điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà chính sách tiền tệ có thể được xác lập


theo hai hướng: Chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc
đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng - chính sách tiền tệ
chống thất nghiệp). Chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm
giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp
tăng - chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền)
2.

Vị trí chính sách tiền tệ

Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền
tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh
vực lưu thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế
1


vĩ mô khác như chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối
ngoại. Đối với Ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách chính
sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho
chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
3.

Đặc điểm của chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống chính sách kinh tế-tài chính vĩ mô của Chính phủ, nó là tổng hòa
các phương thức mà Ngân hàng Trung ương thông qua các hoạt động của mình tác
động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.
Chính sách tiền tệ hay chính sách lưu thông tiền tệ là quá trình quản lý hỗ
trợ đồng tiền của Chính phủ hay Ngân hàng Trung ương để đạt được những mục

đích đặc biệt như: kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được tăng
trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất
nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các công cụ như nghiệp vụ thị
trường mở, quy định các mức dự trữ bắt buộc hoặc trao đổi trên thị trường hối
đoái…
Chính sách tiền tệ một mặt là cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh
tế, mặt khác phải giữ ổn định giá trị đồng bản tệ. Để thực hiện được điều đó, thông
thường trên thế giới, việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ được giao cho
Ngân hàng Trung ương.
4.

Các mục tiêu của chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất của Ngân hàng Trung
ương. Có thể coi chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt trong mọi hoạt động của
Ngân hàng trung ương. Các hoạt động khác của Ngân hàng Trung ương đều nhằm
thực thi chính sách tiền tệ đạt được các mục tiêu của nó.
Chính sách tiền tệ cũng như mọi chính sách kinh tế vĩ mô khác đều có mục
tiêu riêng của nó, đó là mục tiêu: ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định hệ thống
tài chính, thị trường ngoại hối, tăng trưởng kinh tế…
Mỗi quốc gia đều có chính sách tiền tệ riêng, phù hợp với nền kinh tế đặc
thù của mình. Nhưng chính sách tiền tệ đều hướng vào những mục tiêu chủ yếu
giống nhau. Tuy nhiên tùy từng giai đoạn khác nhau và tùy điều kiện thực tế của
nền kinh tế để lựa chọn mục tiêu trọng tâm.
a.

Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ
2



Các nhà kinh tế học cho rằng, lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền sản
xuất hàng hóa, đặc biệt là các nền sản xuất hàng hóa phát triển ở mức độ cao (nền
kinh tế thị trường).
Tùy theo quan điểm và góc độ nghiên cứu của mình, các nhà kinh tế học đã
đưa ra những khái niệm riêng về lạm phát. Tuy nhiên, nhìn chung có thể hiểu: lạm
phát là sự gia tăng giá cả trung bình của hàng hóa theo thời gian.
Lạm phát tác động đến nền kinh tế-xã hội theo cả 2 hướng tích cực và tiêu
cực. Khi lạm phát gia tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế - xã hội, làm
sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, làm phân phối lại thu nhập, kích thích tâm lý đầu cơ
tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng… gây tình trạng khan hiếm hàng hóa giả tạo,
giảm sức mua thực tế của hàng hóa dân chúng về hàng hóa tiêu dùng. Do đó đời
sống của người lao động sẽ khó khăn hơn, gây khó khăn cho hoạt động của hệ
thống ngân hàng vì ngân hàng sẽ không thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi cho
hoạt động của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác hại mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế, trong
chừng mực nào đó, với một tỷ lệ lạm phát vừa phải, lạm phát lại là yếu tố để kích
thích kinh tế tăng trưởng. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Các nhà kinh
tế học còn gọi đó là liều thuốc bổ cho tăng trưởng kinh tế. Do vậy, cần chấp nhận
sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế chứ
không phải là triệt tiêu nó. Vấn đề quan trọng là cần phải kiểm soát được lạm phát,
ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống cho
người lao động… Trách nhiệm này thuộc về chính sách tiền tệ của Ngân hang
Trung ương.
Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền NHTW thông qua
CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá
trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ
số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước) và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng
tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền
không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng không, vì như vậy nền kinh tế không thể
phát triển được. Trong điều kiện nền kinh tế trì trệ thì kiểm soát lạm phát ở một tỷ

lệ hợp lý (thường ở mức một con số) sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế trở lại.
b.

Tạo việc làm, giảm thất nghiệp

Như chúng ta đã biệt, ngày nay thất nghiệp là nỗi quan tâm của mọi quốc gia
trên thế giới. Việc giảm tỷ lệ thất nghiệp còn đồng nghĩa với việc giữ gìn an ninh
trật tự trong xã hội. Nhưng vấn đề đặt ra phải làm sao xác định được một tỷ lệ thất
nghiệp cho phù hợp? Theo các nhà kinh tế, chúng ta phải duy trì tỷ lệ thất nghiệp
3


bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do vậy trong xã hội luôn có người thất nghiệp tự
nhiên, tạo ra cô hội tìm việc làm tốt hơn.
Việc làm cho người lao động cũng là mục tiêu của chính sách tiền tệ. Chúng
ta cũng đã biết rằng nơi nào sức lao động là hàng hóa thì thất nghiệp là một căn
bênh kinh niên. Để đạt được mục tiêu này, chính sách tiền tệ hướng vào việc
khuyến khích đầu tư gia tăng sản xuất, việc làm sẽ tăng lên; mặt khác, khi các hoạt
động kinh tế được mở rộng, sẽ có tác dụng chống suy thoái, nhất là suy thoái chu
kỳ để đạt được mức tăng trưởng ổn định.
Nhìn tổng quát giữa các mục tiêu vĩ mô: lạm phát, tăng trưởng kinh tế và
việc làm có mâu thuẫn đối nghịch nhau, đó là:
Khi kiềm chế được lạm phát thì có nguy cơ tăng trưởng kinh tế giảm, dễ dẫn
đến suy thoái và thất nghiệp.
Ngược lại khi mở rộng đầu tư, khắc phục suy thoái kinh tế tạo việc làm và
khuyến khích tăng trưởng kinh tế thì lại khó kiềm chế được lạm phát.
Rõ ràng công ăn việc làm cao là điều ai cũng mong muốn. Thông qua chính
sách tiền tệ có thể tác động đến công ăn việc làm, tức đến tỷ lệ thất nghiệp trong
nền kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương nhằm mở rộng cung
ứng tiền tệ thì tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh

tế cần nhiều lao động hơn, công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại,
cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp và Nhà nước cần ít lao động hơn, công ăn việc làm giảm, tỷ lệ thất
nghiệp tăng.
Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm không đồng nghĩa với tỷ lệ
thất nghiệp bằng không, mà ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Bởi lẽ, trong thực tế
có một số người thất nghiệp có lợi cho nền kinh tế. Đó là khi người lao động quyết
định đi tìm một công việc khác tôn hơn, phù hợp hơn, thì người lao động đó bị thất
nghiệp trong thời gian đi tìm việc làm. Hoặc một số người lao động tự nguyện rời
bỏ công việc của mình để theo đuổi các hoạt động khác như học tập, du lịch… và
khi họ quyết định gia nhập trở lại thị trường lao động, họ phải mất một thời gian để
tìm đúng công việc mà họ mong muốn. Mặt khác, thông thường để có một tỷ lệ
công ăn việc làm cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát gia tăng nhất định nào
đó. Hai mục tiêu này luôn triệt tiêu nhau trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
c.

Tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu vĩ mô của bất kì quốc gia nào. Tuy nhiên
thực hiện mục tiêu này không có nghĩa là chỉ khuyến khích tăng trưởng kinh tế mà
4


còn thực hiện việc kìm hãm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nếu nền kinh tế
phát triển quá nóng. Điề u này có nghĩa là mỗi quốc gia phải xác định một tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế dự kiến phù hợp với điều kiện nội tại của nền kinh tế nước đó.
Trên cơ sở đó, căn cứ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện tại là thấp hay cao để sự
điều tiết của chính sách tiền tệ sẽ hướng vào khuyến khích hay kìm hãm tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
Trường hợp cần khuyến khích tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Trung ương

sẽ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tăng khối lượng tiền tệ, lãi suất giảm
xuống, do vậy sẽ kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng tổng sản phẩm quốc
nội. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm tăng tổng cầu, sức mua hàng hóa trên
thị trường tăng lên, hàng hóa tồn đọng của các doanh nghiệp tiêu thụ được, là tiền
đề cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất dẫn đến tổng sản phẩm quốc nội tăng.
Nếu mức gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội cao hơn nhịp độ gia tăng dân số thì
nền kinh tế sẽ thất sự có tăng trưởng.
Trường hợp cần kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Trung ương
sẽ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Khi đó, khối lượng tiền tệ trong lưu thông
giảm xuống, lãi suất có xu hướng tăng lên, đồng vốn đầu tư đắt lên, đầu tư giảm,
dẫn đến tổng sản phẩm quốc nội giảm xuống. Mặt khác khi giảm khối lượng tiền
tệ, sẽ làm giảm tổng cầu, sức mua sẽ giảm, làm tăng hàng hóa tồn đọng của các
doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp không có cơ sở để mở rộng sản xuất, vì vậy
tổng sản phẩm quốc nội giảm.
Việc gia tăng khối lượng tiền tệ cho nền kinh tế trong thời kỳ đầu thường
được các quốc giá sử dụng công cụ hạn mức tín dụng. Nhưng khi nền kinh tế thị
trường vận động một cách thuần thục thì việc cung cấp tiền chủ yếu được thực hiện
thông qua các công cụ: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở,
lãi suất, tỷ giá…
Các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng, nền kinh tế thị trường luôn có những
thăng trầm, biến động mang tính chu kỳ của nó: từ tăng trưởng kinh tế quá mức,
đến kinh tế phát triển quá nóng dễ dẫn đến lạm phát cao, từ lạm phát cao dễ rơi vào
trạng thái ngưng trệ rồi suy thoái kinh tế, một khối lượng tiền tệ cung ứng tăng
thêm để cứu vãn tình thế có thể chuyển nền kinh tế sang giai đoạn phục hưng, rồi
từ phục hưng lại csos khả năng chuyển qua giai đoạn tăng trưởng mạnh…
Vấn đề đặt ra là đối với từng giai đoạn cụ thể, chính sách tiền tệ phải tìm
giải pháp để vừa có thể đạt được mục tiêu trọng tâm, vừa dung hòa được các mục
tiêu trên.

5



d.

Ổn định thị trường tài chính

Tình trạng khủng hoảng tài chính có thể làm giảm khả năng của thị trường
tài chính trong việc tạo ra kênh dẫn vốn cho người có cơ hội đầu tư vào sản xuất,
qua đó làm giảm quy mô hoạt động kinh tế. Bởi vậy, việc tạo ra hệ thống tài chính
ổn định hơn, tránh được các cuộc khủng hoảng tài chính là mục tiêu quan trọng của
Ngân hàng Trung ương. Sự ổn định thị trường tài chính được hỗ trợ bởi sự ổn định
của lãi suất, bởi vì sự biến động của lãi suất tạo ra sự bất định lớn cho các định chế
tài chính. Sự gia tăng lãi suất tạo ra các tổn thất lớn về vốn cho trái phiếu dài hạn
và các khoản cho vay cầm cố, cũng như những tổn thất này có thể làm cho các định
chế tài chính nắm giữ sụp đổ.
e.

Ổn định thị trường hối đoái

Với tầm quan trọng ngày càng tăng của tỷ giá hối đoái trong thương mại
quốc tế, ổn định tỷ giá trở thành mục tiêu mong muốn của chính sách tiền tệ. Tỷ
giá hối đoái có ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trong nước
so với nước ngoài. Ngoài ra, ổn định tỷ giá giúp cho các doanh nghiệp và cá nhân
trao đổi hàng hóa với nước ngoài dễ dàng lập kế hoạch hơn.
f.

Ổn định thị trường lãi suất

Sự biến động của lãi suất có thể tạo ra tính bất định trong nền kinh tế và khó
khăn trong lập kế hoạch cho tương lai. Biến động của lãi suất ảnh hưởng tới lượng

dự trữ, mức chi tiêu của người dân và đồng thời ảnh hưởng tới khả năng mở rộng
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu, có mối quan hệ chặt chẽ hỗ trợ nhau không
tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu
thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục têu trên một
cách hài hòa thì Ngân hàng Trung ương trong khi thực hiện chính sách tiền tệ cần
phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
5.

Các công cụ của chính sách tiền tệ.

Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn và điều kiện thực tiễn
của nền kinh tế, Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
để điều tiết lượng tiền cung ứng. Nghĩa là, Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện
việc đưa tiền vào lưu thông là thiếu hụt hay dư thừa. Các công cụ mà Ngân hàng
Trung ương thường sử dụng là: Tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường
mở, hạn mức tín dụng, lãi suất và tỷ giá.

6


5.1.

Công cụ tái cấp vốn.

Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các
tổ chức tín dụng. Khi cáp một khoản tín dụng cho tổ chức tín dụng một mặt Ngân
hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các tổ chức
tín dụng tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ.
Tùy từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác

nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tái cấp vốn được thực
hiện dưới hình thức tái chiết hấu. Vì vậy, đối với các quốc gia này, công cụ này
được gọi là tái chiết khấu. Tại nhiều quốc gia khác, hoạt động tái cấp vốn của Ngân
hàng Trung ương đối với các tổ chức tín dụng được thực hiện không chỉ được thực
hiện dưới hình thức tái chiết khấu mà còn dưới nhiều hình thức khác nữa, như:
Chiết khấu, tái chiết khấu hưởng phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho
vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng từ ngắn hạn, cho vay trong thanh
toán bù trù, cho vay theo hình thức chỉ định, cho vay lại theo hồ sơ tín dụng


Ưu điểm

Qua công cụ tái cấp vốn, Ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối
cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng, bơm tiền ra lưu thông
theo mức độ đã được khống chế để kìm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng
kinh tế. Đối với các tổ chức tín dụng, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi
vốn khả dụng bị đe dọa thì Ngân hàng Trung ương là chỗ dựa, là cứu tinh của họ.
Bởi vì, với số tiền Ngân hàng Trung ương cung ứng, họ có khả năng điều tiết được
vốn khả dụng phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán.


Nhược điểm

Ngân hàng Trung ương không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết.
Trong trường hợp này, quyền lực của Ngân hàng Trung ương và tổ chức tín dụng là
ngang nhau. Ngân hàng Trung ương có quyền cho vay và để khuyến khích vay, họ
hạ lãi suất tái cấp vốn xuống. Nhưng tổ chức tín dụng lại có quyền quyết định vay
hoặc không vay và nếu tổ chức tín dụng không vay thì mục đícg điều tiết của công
cụ tái cấp vốn không thực hiện được.
5.2.


Công cụ dự trữ bắt buộc

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô
hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán của
các tổ chức tín dụng. Nếu khả năng thanh toán quá lớn (tổ chức tín dụng đang dư
thưa tiền) thì việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng từ đó
7


giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự
trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng.


Ưu điểm

Tác động đầy quyền lực đến lượng tiền cung ứng. Tạo mối quan hệ máy móc
giữa tạo tiền do tổ chức tín dụng thực hiện và nhu vầu tái cấp vốn tại Ngân hàng
Trung ương.
Tăng cường quyền lực cho Ngân hàng Trung ương vì tùy theo mục đích của
chính sách tiền tệ và tùy theo mức vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, Ngân
hàng Trung ương có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các tổ chức tín dụng
có trách nhiệm thực hiện.
Tôn trọng sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng vì nó áp dụng không phân
biệt mọi tổ chức tín dụng trong toàn hệ thống tài chính.
Đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức tín dụng, giúp cho tổ chức tín
dụng tránh được rủi ro do mất khả năng thanh toán.


Nhược điểm


Mặc dù có thể đạt những thay đổi trong ứng tiền tệ bằng những thay đổi nhỏ
trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về phí quản lý.
Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay
đối với một tổ chức tín dụng có dự trữ vượt mức thấp.
Việc không ngững thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn
định cho các tổ chức tín dụng và làm cho việc quản lý khả năng thanh toán của
những tổ chức tín dụng đó khó khăn hơn.
5.3.

Công cụ nghiệp vụ thị trường mở

Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua, bán giấy
tờ có giá chủ yếu là ngắn hạn (tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Trung ương,
chứng chỉ tiền gửi…) trên thị trường tiền tệ, điều hoa cung cầu về giấy tờ có giá,
gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các tổ chức tín dụng, từ đó tác động đến khả
năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng dẫn đến làm tăng hay giảm khối
lượng tiền tệ, cụ thể:
-Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, Ngân hàng Trung ương có
thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.

8


-Ngược lại, khi Ngân hàng Trung ương mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn,
tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế,
tăng khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng.
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến như Anh,
Mỹ và Thụy Sĩ áp dụng từ những năm đầu của thế kỷ XX. Cho đến nay đã trở
thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hòa lưu thông tiền tệ.



Ưu điểm

Công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã thể hiện tính ưu việt của nó so với các
công cụ khác của chính sách tiền tệ:
-Ngân hàng trung ương có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó
tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng dịch vụ của các tổ chức tín dụng.
-Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Mong
muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào, Ngân
hàng Trung ương cũng có thể thực hiện được bằng cách mua, bán một khối lượng
lớn, nhỏ chứng khoán.
-Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những
chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hoặc dự trữ, Ngân
hàng Trung ương có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.


Nhược điểm

Ngân hàng trung ương có thể không đạt được mục tiêu đã đề ra do nghiệp vụ
thị trường mở chỉ thực sự hữu hiệu khi nền kinh tế đã phát triển rất cao, cơ chế
thanh toán không dùng tiền mặt đã phát triển.
5.4.

Công cụ hạn mức tín dụng

Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó
khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy có chế tác động của
nó mang tính áp đặt đối với hệ thống tài chính.
Qua sử dụng hạn mức tín dụng, Ngân hàng Trung ương nhằm điều chỉnh khả

năng tạo tiền của các tổ chức tín dụng phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh
tế. Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền tăng qua mức trong lưu thông, Ngân hàng
Trung ương quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng tổ chức tín dụng. Trong
phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định căn cứ vào tỷ trọng
cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống tài chính, tổ
chức tín dụng chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế cho vay của các tổ chức tín
9


dụng, nếu tổ chức tín dụng cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị xử
phạt.


Ưu điểm

Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu
thông. Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, Ngân hàng Trung ương có thể kiểm
soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả
khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao. Khi đó, nó được Ngân
hàng Trung ương sử dụng nếu các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu quả.


Nhược điểm
Công cụ này thiếu linh hoạt và có thể làm giảm cạnh tranh giữa các ngân

hàng.
5.5.

Công cụ về lãi suất


Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Trung ương trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản
chỉ áp dụng cho Đồng Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho
các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa
trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của
Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và có xu
hướng biến động cung-cầu vốn.
Lãi suất tái cấp vốn là loại lãi suất mà ở đó Ngân hàng Trung ương áp dụng
cho các nghiệp vụ tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng trung gian. Ở Việt Nam,
Ngân hàng Trung ương tái cấp vốn cho các Ngân hàng Thương mại qua các hình
thức: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu và các giấy tờ có
giá ngắn hạn khác, cho vay lại dưới hình thức cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn.
5.6.

Công cụ tỷ giá hối đoái

Là tương quan giữa sức mua đồng tiền nội tệ với đồng tiền ngoại tệ. Nó vừa
phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ
giá hối đoái vừa là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại lệ, tác động mạnh
đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
II.
1.

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM
Những thành tựu chính sách tiền tệ đạt được

Nhìn lại năm 2016 vừa qua, chính sách tiền tệ có nhiều đổi mới, ngành Ngân
hàng đã và đang triển khai đồng bộ và quyết liệt các giải pháp điều hành, qua đó
10



góp phần vào việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng ở
mức hợp lý. Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính ngân hàng, chính sách
tiền tệ từ cuối năm 2015 đến nay đã được Ngân hàng Nhà nước điều hành theo
hướng chủ động linh hoạt và có sự phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ
mô và chính sách tài khóa. Do đó, lạm phát được kiểm soát trong mục tiêu mà
Chính phủ đặt ra cho ngành Ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng từng bước khắc phục
tình trạng trước đây dồn dập vào những tháng cuối của quý III và quý IV, hiện nay
đã được diễn ran gay từ những tháng đầu năm. Thông qua thị trường liên ngân
hàng mở, Ngân hàng Nhà nước điều hành đảm bảo thanh khoản cho một số ngân
hàng thương mại gặp khó khăn về thanh khoản, qua đó chủ động điều hành lãi suất
trên thị trường liên ngân hàng theo xu hướng giảm thấp để hỗ trợ lãi suất huy động.
Cùng với đó, là việc Ngân hàng Nhà nước tiến hành công bố tỷ giá trung tâm hàng
ngày một cách linh hoạt và từng bước bám sát diễn biến cung cầu về ngoại tệ trên
thị trường, góp phần ổ định tỷ giá hối đoái
Ts. Đinh Tuấn Minh, nghiên cứu viên cao cấp của Viện Chiến lược và Chính
sách Khoa học và Công nghệ, thành viên hội đồng sáng lập Viện Nghiên cứu Kinh
tế và Chính sách cho rằng, năm qua chính sách tỷ giá được điều hành linh hoạt
không cứng nhắc so với những năm trước đây: “Điểm nổi bật nhất của chính sách
tiền tệ năm qua là chính sách tỷ giá. Chính sách này đã theo đúng cam kết của
Ngân hàng Nhà nước từ đầu năm, tỷ giá được điều hành theo phương thức mới,
linh hoạt, điều chỉnh hàng ngày bám sát thị trường hơn, không duy trì tỷ giá một
cách cứng nhắc như những năm trước đây. Chính sách tiền tệ phản ánh được đúng
tác động bên ngoài. Qua đó phản ánh đúng chính sách tiền tệ và tỷ giá chính xác
hơn.”
Theo TS. Đặng Ngọc Đức, Phó Viện trưởng thường trực Viện Ngân hàng Tài
chính, Đại học Kinh tế quốc dân, việc điều hành tỷ giá trung tâm mang lại thành
công rất quan trọng và cũng đảm bảo cho việc thực hiện chống đô la hóa khi đưa
lãi suất xuống còn 0%. Tuy nhiên, có thời điểm tỷ giá tăng do yếu tố tâm lý hay do
ảnh hưởng của cuộc bầu cử tổng thống Mỹ gần đây, song việc gia tăng tỷ giá này

không phải do tác động của việc chống đô la hóa hay áp dụng lãi suất 0%. Do đó
đây là thành công rất quan trọng của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành
chính sách tiền tệ. Ông cũng cho rằng, việc lạm phát giữ được ở mức 4,8% thấp
hơn 5% so với kế hoạch ban đầu mà Chính phủ đề ra với Quốc hội, điều này cho
thấy lạm phát đã được kiềm giữ, ổn định giá trị của đồng tiền, ổn định tỷ giá. Qua
đó góp phần vào việc ổn định tài chính của đất nước.
Thêm vào đó, năm 2016 có nhiều tác động từ bên ngoài ảnh hưởng đến tình
hình tài chính, tiền tệ của đất nước nhưng Ngân hàng Nhà nước rất chủ động, đối
11


phó với những tình huống cụ thể, đều có dự báo trước bằng chứng là việc giữ cho
lạm phát ổn định.
“Tác động của biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh
và tình hình tài chính. Vấn đề Brexit nước Anh rời khỏi khu vực EU và kết quả khá
bất ngờ trong việc bầu cử Tổng thống Mỹ…điều này có những tác động đến tình
hình tài chính, tiền tệ của Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã rất chủ động đối phó
với tình huống này đó đều có dự báo trước và có những cuộc thảo luận và có
những kết luận về tác động này. Do đó, hoàn toàn chủ động bằng chứng là việc giữ
cho lạm phát ổn định.” TS. Đặng Ngọc Đức khẳng định.
2.

Một số hạn chế của chính sách tiền tệ

Trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ thời gian qua, chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể, nhưng mặc dù vậy cũng không tránh khỏi những
bộc lộ yếu kém. Có thể tóm tắt những mặt tồn tại, hạn chế chính sách tiền tệ ở
nước ta trong thời gian như sau:
-Hạn mức tín dụng ngân hàng Nhà nước có quy định cho các Ngân hàng
thương mại nhưng tốc độ tăng dư nợ chậm. Do đó, ý nghĩa của công cụ này trước

thực tế hiện nay chưa được phát huy tác dụng.
-Nghiệp vụ thị trường mở mới ở giai đoạn thid điểm dự báo vốn khả dụng.
-Công cụ lãi suất được sử dụng thường xuyên, linh hoạt hơn đã theo tín hiệu
thị trường để điều chỉnh. Tuy nhiên, có lúc lãi suất thay đổi còn chậm so với thực
tế, đồng thời có thời kỳ lại liên tục điều chỉnh gây khó khăn cho người gửi cũng
như người vay, dễ hoang mang thiếu ổn định về tâm lý… Việc tính toán điều chỉnh
lãi suất mới chỉ dựa vào hiệu ứng về hình thức biểu hiện của chỉ số giá cả tăng.
Trong khi còn nhiều yếu tố tác động khác làm cho giá cả biến động nhưng chưa
được phân tích một cách sâu sắc và chưa lượng hóa được thành các tiêu chí cụ thể
để xử lý tổng thể. Chẳng hạn, nếu sức mua của người dân giảm (do nhiều nguyên
nhân khác nhau) sẽ dẫn đến giá cả giảm (nhìn theo góc độ cung-cầu) hoặc ngược
lại. Trong trường hợp này nếu không phân tích đầy đủ, tìm hiểu kỹ nguyên nhân
dẫn đến sức mua giảm của dân cư, dự đoán để quyết định việc thay đổi lãi suất
giảm thì chưa đủ độ tin caajay đảm bảo tính xác thực và phải lượng hóa các yếu tố
tác động cụ thể.
-Công cụ tỷ giá lâu nay Ngân hàng Nhà nước sử dụng để điều chỉnh tăng
giảm biên độ quan hệ tỷ giá giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ. Như chúng ta đã biết,
lý thuyết xác định tỷ giá căn cứ vào giá cả bình quân của một số loại hàng hóa chủ
yếu của mỗi nước. Có nghĩa, khi giá cả bình quân của mỗi nước thay đổi sẽ ảnh
12


hưởng đến quan hệ tỷ giá. Đối với Việt Nam, việc xác định tỷ giá chủ yếu vẫn dựa
vào hiện tượng giá cả biến động và dự đoán những tác động để xác định và điều
chỉnh. Việc đưa ra những cơ sở, tiêu thức và một phương pháp tính toán cụ thể cho
từng yếu tố tác động
-Chưa có biện pháp hữu hiệu tập trung các nguồn lực thúc đẩy công nghệp
nghiệp hóa hiện đại hóa.
-Thị trường tiền tệ chưa phát triển. Hoạt động ngân hàng có nhiều biểu hiện
chưa lành mạnh (quy định, quy chế chưa được chấp hành nghiêm chỉnh)

-Tình trạng nợ xấu và sở hữu chéo, cùng năng lực quản trị thị trường của các
ngân hàng và tổ chức tín dụng trong nước còn nhiều điểm yếu, nợ công tăng cao.
III. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ.
Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua bao nhiêu giai đoạn thăng trầm nhưng cho
đến nay đã đạt được nhiều kết quả đáng mừng. Việc đánh giá thực trạng nền kinh
tế từ đó suy đoán vận động của nó trong tương lai là hết sức cần thiết cho việc
hoạch định bất cứ một chính sách kinh tế nào.
1.

Phát triển thị trường tiền tệ.

Điều kiện cần thiết là phải có thị trường liên ngân hàng hoặc thị trường tiền
tệ hoạt động tốt để chắp nối, cân đối cung cầu giữa các tổ chức trong hệ thống.
Phải thiết lập thị trường có khả năng tạo ra lãi suất từ chính nhu cầu của thị trường,
cho phép Ngân hàng Nhà nước can thiệp một cách hạn chế để thực hiện chính sách
tiền tệ và các ngân hàng thương mại có thể hoạt động độc lập.
Phải thừa nhận một điều rằng, đối với mỗi quốc gia khác nhau thì việc phát
triển thị trường tiền tệ cũng theo những xu hướng khác nhau, nó căn cứ vào hoàn
cảnh và khả năng cụ thể của từng nước nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Mỗi nước có thể tạo ra các điều kiện cho một thị trường liên ngân hàng cơ sở và
phát triển thị trường đối với một số loại tín phiếu nhất định.
Nhìn chung để phát triển thị trường tiền tệ chúng ra cần quan tâm đến một số
yếu tố:
-Sự ổn định hợp lý của lãi suất, tính thanh khoản cao, rủi ro thấp và khuôn
khổ pháp lý thích hợp. Sự ổn định lãi suất không có nghĩa là đi ngược lại với cơ
chế định giá của thị trường. Nhưng Ngân hàng nhà nước cần khống chế biên độ
giao động của lãi suất thông qua xác định lãi suất trần trong đấu thầu. Điều này
luôn là một sự cân bằng tinh tế và các quyết định cần đưa ra trên cơ sở các chỉ tiêu
13



chính sách. Để tạo ra khả năng thanh khoản cáo khi thị trường thứ cấp chưa phát
triển, Ngân hàng Nhà nước cần phải thiết lập thể thức tái chiết khấu được thiết kế
thích hợp và khuyến khích một số Ngân hàng thương mại đóng vai trog tạo lập thị
trường.
-Đối với ngân sách nhà nước thì việc tài trợ cho ngân sách cần được thực
hiện ngày càng nhiều thông qua thị trường và căn cứ theo lãi suất thị trường. Chính
phủ cần xây dựng chính sách vay nợ trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách và
tìm cách thiết kế các công cụ được thị trường chấp nhận..
-Các quyết định của chính phủ về vay nợ trong nước và số dư tiền gửi của
kho bạc tác động tới các hoạt động thị trường mở. Đôi khi các yếu tố đó tạo điều
kiện thuận lợi cho các hoạt động thị trường mở, nhưng đôi khi cũng làm cho nhiệm
vụ trở nên phức tạp hơn. Do đó Chính phủ cần có những hoạt động phối hợp với
các ngành, lĩnh vực chuyên môn khác để đưa ra những quyết định đúng đắn, phù
hợp. Nhưng dù thế nào thì Ngân hàng Nhà nước vẫn phải có khả năng gây ảnh
hưởng hoặc kiểm soát các yếu tố tác động tới tiền dự trự của hệ thống ngân hàng
và số dư tài khoản của kho bạc mở tại ngân hàng.
-Khuôn mẫu giám sát và điều tiets cần được củng cố. Các nước cần xây
dựng những hành lang an toàn dưới hình thức các tiêu chuẩn về vốn tối thiểu, lập
quỹ phòng ngừa rủi ro, các yêu cầu về bảo lãnh, cầm cố, thế chấp và các cơ chế
khác nhằm khuyến khích hành vi thận trọng trong kinh doanh tiền tệ. Các báo cáo
tài chính phải qua kiểm toán và đảm bảo tính công khai để cho thị trường và các
nhà chức trách có thể thực hiện hữu hiệu vai trò của họ trong đảm bảo kỉ cương tài
chính.
-Xây dựng mạng lưới thông tin hoàn chỉnh và đầy đủ.
2.

Cải cách hệ thống ngân hàng


Cải cách hệ thống ngân hàng cần thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau
của nền kinh tế. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến những biện pháp có mối quan hệ và
tác động tới hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ.
a.

Cải cách đối với Ngân hàng Trung ương

Năng lực kĩ thuật của Ngân hàng Nhà nước cần được củng cố. Với việc sử
dụng các công cụ chính sách tiền tệ và cơ chế thị trường để can thiệp, Ngân hàng
Nhà nước cần phải có được thông tin cập nhật và tiếp xúc thường xuyên với thị
trường. Ngân hàng Nhà nước phải tính được cung-cầu tiền tệ và dự trữ của ngân
hàng, tình hình thanh khoản và trạng thái hối đoái của một Ngân hàng Thương mại,
đánh giá ảnh hưởng của chúng đến khối lượng tiền và tín dụng ở diện rộng. Điều
14


này đòi hỏi phải có sự thay đổi trong phương thức hoạt động của Ngân hàng Nhà
nước, chuyển từ việc theo dõi thụ động và định kì việc tuân thủ các quy định bắt
buộc sang tham gia một cách tích cực và thường xuyên. Việc theo dõi những diễn
biến hàng ngày trên thị trường tiền tệ sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước biết thời điểm
và mức độ can thiệp (trực tiếp hay hoặc gián tiếp). Điều này kéo theo sự thay đổi
trong việc ra quyết định, tổ chức hệ thống thông tin, bố trí nhân lực…Sau đây là
một số vấn đề cụ thể:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước cần được phát triển thành một định chế có
quyền hình thành và thực hiện chính sách tiền tệ một cách độc lấp. Ngân hàng nhà
nước càng độc lập thì việc sử dụng công cụ chính sách tiền tệ sẽ càng nhanh và
hiệu quả hơn. Cần có những thủ tục rõ ràng nhằm giảm sự can thiệp của Chính phủ
vào các quyết định cho vay, quản lý tài sản và chính sách nhân sự.
Thứ hai, đảm bảo Ngân hàng Nhà nước là người cho vay cuối cùng nhằm
điều hòa khối lượng tiền tệ, kiểm soát sát sao hoạt động của Ngân hàng Thương

mại.
Thứ ba, cần quan tâm đúng mức tới vấn đề cán bộ, phải có sự đào tạo lại cán
bộ trên quy mô lớn để đáp ứng được với nhu cầu đổi mới. Việc thiếu cán bộ có
năng lực có thể trở thành trở ngại lớn cho việc cải cách quản lý tiền tệ và cải cách
thị trường tài chính nói chung. Ngân hàng Nhà nước cũng phải chú trọng đào tạo
cán bộ chuyên môn và có những hình thức khuyến khích thích hợp. Đồng thời,
Ngân hàng nhà nước phải đầu tư cho công nghệ hiện đại như máy vi tính và các
phương tiện viễn thông, thông tin toàn cầu…Để hỗ trợ cho các hoạt động nghiệp
vụ đạt hiệu quả
Thứ tư, hợp lý hóa và hiện đại hóa hệ thống ké toán nhằm cung cấp thông tin
cập nhật, cần thiết quản lý ngắn hạn các mục tiêu chủ yếu trong bảng cân đối của
Ngân hàng Trung ương.
b.

Cải cách đối với ngân hàng thương mại

Hệ thống Ngân hàng thương mại cần được cơ cấu lại nhằm xây dựng những
NHTM mạnh và thúc đảy quá trình cạnh tranh. Khu vực ngân hàng hiện nay đang
đứng trước một áp lực mạnh mẽ từ sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế và điều
kiện tài chính ngày một xấu đi của một bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước. Hiện
nay tỷ lệ nợ cao. Chính vì vậy, để chấn chỉnh hoạt động ngân hàng nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng Thương mại cần phải có những giải
pháp sau:

15


Trước hết cần tập trung xử lý các khoản nợ nhằm lành mạnh hóa tình hình
tài chính của hệ thống Ngân hàng thương mại. Tổ chức tín dụng cần đánh giá, phân
loại, phân tích nợ quá hạn đồng thời phân tích hiệu quả kinh tế từng món vay và

tình hình tài chính của khách hàng trên cơ sở đó đề ra biện pháp cụ thể để thu hồi
vốn.
Tổ chức đánh giá lại giá trị tài sản của các Ngân hàng thương mại, các giải
pháp nâng cao vốn tự có, nghiêm chỉnh thực hiện tiêu chí tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu.
Đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp lại hệ thống ngân hàng thương mại, kiện
toàn và củng cố lại, tập trung ở các khu vực kinh tế phát triển.
Đảm bảo lợi ích của khách hàng và bản thân tổ chức tín dụng. Giảm công cụ
quản lý hành chính, tăng biện pháp quản lý thị trường.
Công khai hóa tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng
kiểm tra kiểm soát nội bộ, chấn chỉnh bộ máy tổ chức và cơ chế hoạt động tăng
cường các biện pháp ngăn ngừa rủi ro.
Khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống các văn bản pháp quy
để đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc thực hiện Luật Ngân hàng, đảm bảo
cho hệ thống Ngân hàng hoạt động hiệu quả năng động an toàn
Thực hiện hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng mà trọng tâm là nghiệp vụ
thanh toán, phát triển mạnh các công cụ và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
Tham gia hoạt động thị trường chứng khoán, tạo lập kênh huy động tốt nhất
cho nền kinh tế.
Cải tiến chính sách khách hàng, lựa chọn đầu tư sao cho hiệu quả đầu tư là
cao nhất.
Đào tạo và chọn lựa cán bộ Ngân hàng đầy đủ cả về chuyên môn và phẩm
chất, có đủ năng lực và bản lĩnh phù hợp với môi trường kinh tế.
Có vậy thì hoạt động ngân hàng mới được cải tiến, đủ sức để thực hiện tốt
các mục tiêu của nền kinh tế, trước hết là của chính sách tiền tệ.
3.

Các điều kiện khác
a. Ngân sách nhà nước


Chính sách tiền tệ cần được cách lý với những sức ép từ những yêu cầu của
Chính phủ nhằm tài trợ thâm hụt tài chính. Chính phủ phải thanh toán các khoản
16


nợ theo lãi suất thị trường và kiềm chế việc gây áp lực lên Ngân hàng Nhà nước để
duy trì những mức lãi suất thấp. Tăng cường tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước
có thể giúp được mục tiêu này.Chính phủ cần xây dựng một chương trình toàn diện
nhằm phát triển và hoàn thiện chính sách quản lý công nợ và thông qua phát hành
trái phiếu Chính phủ, tức là thông qua thị trường để bù đắp thâm hụt ngân sách.
Bên cạnh đó, để cải thiện tình hình ngân sách cần phải tiết kiệm triệt để phần chi
cho bộ máy hành chính, thực hiện cải cách hành chính và cải cách thuế.
b.

Hoàn thiện quy chế pháp lý

Cần tiếp tục ban hành những cơ chế thể lệ hợp thức hơn, mang đầy đủ hiệu
lực pháp lý hơn. Trước hết, cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý ngân hàng
nhằm tạo ra một hành lang pháp luật tương đối an toàn cho hoạt động của các ngân
hàng. Trước hết là các cơ chế: cơ chế phát hành tín phiếu của công ty tài chính, cơ
chế phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của Ngân hàng Thương mại, cơ chế
góp vốn cổ phần của các cổ đông nước ngoài vào các tổ chức kinh doanh tín dụng
Việt Nam, cơ chế tổ chức và hoạt động của loại hình công ty tài trợ thuê mua…Đi
đôi với những biện pháp như vậy là mở rộng phân công, phân cấp, phân quyền của
các tổ chức thanh tra, giám sát tài chính, ngân hàng, đảm bảo sự minh bạch trong
chế độ thông tin, báo cáo tài chính kế toán.
c.

Phối hợp đồng bộ chính sách tiền tệ với chính sách kinh tế vĩ mô khác


Chính sách tiền tệ là chính sách quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân.
Nó thường có sự đan xen phức tạp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (như
chính sách tài chính, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu…)
Vì vậy, việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ cần phải được đặt
trong tổng thể nền kinh tế trong sự hài hòa với các chính sách kinh tế khác. Mọi sự
khập khiễng, không đồng bộ từ khâu soạn thỏa, ban hành chính sách đều có thể
làm hạn chế hay triệt tiêu tác dụng của các chính sách khác.
Do đó, hoàn thiện chính sách tiền tệ có nghĩa là hoàn thiệ cơ chế điều hành,
công cụ điều hành của chính sách tiền tệ để chính cách này trở nên có hiệu quả
hơn, có nghĩa là xây dựng chính sách tiền tệ trong một thể thống nhất, thực hiện
mục tiêu chung của nền kinh tế hợp lý và hỗ trợ lẫn nhau.
Tóm lại việc phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách
kinh tế vĩ mô khác rất quan trọng và có ý nghĩa trong việc thúc đẩy tăng trưởng
nền kinh tế, tiến tới xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh trong những năm
gần đây.

17


KẾT LUẬN
Trong những năm qua, Việt Nam đã học được nhiều bài học bổ ích từ các
nước trên thế giới về điều hành chính sách tiền tệ…Tuy nhiên điều quan trọng hơn
cả là chúng ta phải phân tích, đánh giá và rút ra những kinh nghiệm về điều hành
chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, để từ đó có những quyết sách
phù hợp và đúng đắn hơn đối với nền tài chính tiền tệ trong tổng thể nền kinh tế
đất nước.
Có thể nói chính sách tiền tệ của nước ta hiện nay chưa đạt đến độ hoàn
thiện như mong muốn và đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế đặt ra nó. Nhưng
công bằng mà nói, chúng ta không thể không thừa nhận sự đóng góp tích cực và đã
đạt được một số kết quả nhất định của chính sách tiền tệ. Để đạt được mục tiêu cao

nhất của nền kinh tế nước nhà, đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, có
một sự phát triển vững chắc, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và
thế giới, thì với tư cách là một trong những công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô quan
trọng nhất, chính sách tiền tệ của nước ta nhất thiết phải có những đổi mới mang
tính tích cực phù hợp và đáp ứng được những đòi hỏi chúng ta phải liên tục tìm tòi,
học hỏi , liên hệ với thực tiễn, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm để đưa ra được
một chính sách tiền tệ hoàn thiện nhất, phù hợp nhất.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Đổi mới chính sách tiền tệ và kiểm soát ở Việt Nam
Các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường_Nguyễn Thế Thọ, NXB
Thống kê
Công nghệ ngân hàng và thị trường tài chính_Nguyễn Công Nghiệp, NXB
Thống kê.
Ngân hàng Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển_NXB Chính trị quốc
gia/1996
Các tạp chí
Những trang web khác.



MỤC LỤC



×