Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Đề án quản trị kinh doanh Thực trạng và giải pháp cho ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.81 KB, 39 trang )

Đại học Kinh Tế Quốc Dân



Mục Lục

Trần Hồng Quân – MSV 13150292

1

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp




Đại học Kinh Tế Quốc Dân

LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia chuỗi giá trị
toàn cầu là quy luật tất yếu. Mỗi sản phẩm được tạo ra đều có giá trị bao gồm
một xâu chuỗi mắt xích nhiều giá trị kết nối tạo nên. Trong bối cảnh hội nhập,
các mắt xích tạo nên giá trị cuối cùng của một sản phẩm đã vượt ra ngoài biên
giới quốc gia – lãnh thổ, hoặc một sản phẩm thuần túy ra đời tại một địa phương
cụ thể nhưng vẫn mang giá trị toàn cầu.
Ngành công nghiệp dệt may là một ngành có truyền thống lâu đời ở Việt
Nam. Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ
nhu cầu thiết yếu của con người, giải quyết nhiều việc làm cho xã hội. Xu thế
toàn cầu hóa có tác động đến tất cả các nước, đặc biệt là những nước đang phát
triển, và điều đó dẫn đến sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày
càng chặt chẽ. Dệt may Việt Nam cũng như các lĩnh vực khác của nền kinh tế
quốc dân đã tích cực tham gia vào thị trường thế giới. Sản phẩm của dệt may


Việt Nam được xuất đi rất nhiều nơi và Việt Nam có tên trong top 5 nước xuất
khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Mặc dù trong những năm gần đây, ngành dệt
may Việt Nam có tốc độ kim ngạch xuất khẩu tương đối lớn, với kim ngạch xuất
khẩu đứng thứ hai sau dầu mỏ - khí đốt nhưng giá trị gia tăng và lợi nhuận thu
được lại rất thấp. Với khoảng hơn 4500 doanh nghiệp, trong đó đa số có quy mô
vừa và nhỏ với những hạn chế về khả năng tài chính, trình độ công nghệ, tay
nghề của đội ngũ lao động, trình độ quản lý và cả uy tín thương hiệu, các doanh
nghiệp Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc cạnh tranh với các tập
đoàn dệt may lớn trên thế giới. Dệt may Việt Nam đã trở thành một mắt xích
trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt may nhưng mới chỉ dừng lại ở khâu gia
công, đặt mình vào vị trí đáy của chuỗi giá trị toàn cầu. Để lý giải điều này, cần
phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam, từ đó đưa ra các giải
pháp hữu hiệu để gia tăng giá trị trong chuỗi giá trị xuất khẩu của dệt may Việt
Nam.
Với mục đích tìm hiểu về những vấn đề nổi bật liên quan đến thực trạng và
giải pháp cho ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu với sự
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

2

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



hướng dẫn tận tình của thạc sĩ Dương Công Doanh, em đã quyết định chọn đề
tài này. Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chuỗi giá trị toàn cầu.

Chương 2. Thực trạng về ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn
cầu.
Chương 3. Giải pháp để ngành dệt may Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu.

Trần Hồng Quân – MSV 13150292

3

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
1. Khái quát về chuỗi giá trị toàn cầu
Chuỗi giá trị nói đến một loạt các hoạt động cần thiết để biến một sản phẩm
hay dịch vụ từ lúc còn là khái niệm, thông qua các giai đoạn sản xuất khác nhau,
đến khi phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng và loại bỏ sau khi đã sử dụng.
Tiếp đó, một chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả những người tham gia trong chuỗi
hoạt động để tạo ra tối đa giá trị trong toàn chuỗi. Chuỗi giá trị có thể diễn ra
trong một phạm vi hẹp nhưng cũng có thể diễn ra ở phạm vi toàn cầu.
Chuỗi giá trị toàn cầu bắt nguồn từ khái niệm chuỗi giá trị, cũng được biết
đến như là chuỗi giá trị phân tích, là một khái niệm từ quản lý kinh doanh đầu
tiên đã được mô tả và phổ cập bởi Michael Porter trong cuốn sách “Competitive
Advantage: Creating Sustaining Superior Performance” (1985) về phân tích lợi
thế cạnh tranh của ông. Theo Michael Porter, “chuỗi giá trị là một tập hợp các

hoạt động để đưa một sản phẩm từ khái niệm đến khi đưa vào sử dụng và cả
dịch vụ sau bán hàng”.
Chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động như thiết kế mẫu mã, sản xuất,
marketing, phân phối và dịch vụ sau khi bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Những hoạt động này có thể được thực hiện trong phạm vi một doanh nghiệp
hoặc được phân phối giữa các doanh nghiệp với nhau. Chuỗi giá trị này có thể
được thực hiện trong phạm vi một khu vực địa lý hoặc trải rộng trong phạm vi
nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá trị toàn cầu.
Dựa trên quan điểm của Michael Porter, năm 2002 hai nhà khoa học người
Mỹ là Raphael Kaplinsky và Mike Morris đã đưa ra khái niệm: “Chuỗi giá trị
toàn cầu là một dây chuyền sản xuất kinh doanh theo phương thức toàn cầu hóa,
trong đó có nhiều nước tham gia, chủ yếu là các doanh nghiệp tham gia vào các
công đoạn khác nhau từ thiết kế, chế tạo, tiếp thị đến phân phối và hỗ trợ người
tiêu dùng”.
Mọi sản phẩm từ phần mềm cho đến đồ dùng đều phải trải qua một chu kì:
bắt đầu từ nghiên cứu cơ bản rồi nghiên cứu ứng dụng, thời kì ấp ủ, phát triển,
thử nghiệm, sản xuất, triển khai, hỗ trợ và mở rộng kỹ thuật để cải tiến. Mỗi
khâu trên đều được chuyên môn hóa và có tính đơn nhất. Như vậy, mỗi sản
phẩm được tạo ra đều có giá trị bao gồm một xâu chuỗi các mắt xích nhiều giá
trị kết nối tạo nên. Trong thời đại toàn cầu hóa, các mắt xích tạo nên giá trị cuối
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

4

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân




cùng của một sản phẩm đã vượt ra ngoài biên giới một quốc gia, lãnh thổ khi các
chi tiết của nó được thiết kế ở một nước, sản xuất ở một nước khác, lắp ráp ở
nước thứ ba và tiêu thụ ở nước thứ tư … hoặc một sản phẩm thuần túy ra đời tại
một địa phương cụ thể nhưng vẫn mang giá trị toàn cầu. Vì vậy, khái niệm chuỗi
giá trị toàn cầu đã xuất hiện và ngày càng trở nên phổ biến trên khắp thế giới.
2. Vai trò của chuỗi giá trị toàn cầu
Chuỗi giá trị là một hệ thống các hoạt động trao đổi được tổ chức chặt chẽ từ
khâu sản xuất đến tiêu thụ, nhằm mục đích tạo ra giá trị và tính cạnh tranh cao
hơn. Chuỗi giá trị được coi là đặc tính của thương mại quốc tế ngày nay. Hiểu
một cách đơn giản, chuỗi giá trị là chuỗi hoạt động mà một công ty hoạt động
trong một ngành cụ thể, hoạt động nhằm mục đích cung cấp hàng hóa hoặc dịch
vụ. Chuỗi giá trị của ngành (hay còn gọi là chuỗi cung ứng) được thực hiện theo
hệ thống mạng lưới các công ty, gồm các quá trình liên quan tới hoạt động sản
xuất hàng hóa và dịch vụ.
Tham gia liên kết chuỗi sẽ làm cho doanh nghiệp mạnh lên, đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lợi ích mà chuỗi giá trị đem lại đó là những cơ hội
tiếp cận thị trường, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả
sản xuất, thị trường được đảm bảo, cơ hội tạo ra những giá trị lớn hơn từ một thị
trường chung và khả năng quản lý rủi ro. Chuỗi giá trị toàn cầu đã có tác động
mạnh mẽ tới phân công lao động quốc tế, giúp thay đổi cấu trúc kinh tế ở cả
nhóm nước đang phát triển và nhóm nước có nền kinh tế mới nổi cả về tốc độ và
quy mô hợp tác quốc tế. Vào chuỗi, doanh nghiệp có thể chuyên môn hóa được
mặt hàng mà mình có thế mạnh, trong khi vẫn nhận được các đơn hàng đa dạng
nhờ chia sẻ cho các doanh nghiệp khác trong chuỗi; phân công lao động cụ thể
hơn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực; các doanh nghiệp có thể giảm
được thời gian tìm kiếm người cung ứng; tăng cường được sự ổn định; đảm bảo
tiến độ; chia sẻ thông tin và tin cậy giữa các bên tham gia.
Chuỗi giá trị toàn cầu đang được coi là một nhân tố cách mạng, tái cấu trúc
toàn bộ hoạt động sản xuất toàn cầu, từ mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị gia

tăng, chuỗi cung ứng…trên quy mô hội nhập cả chiều rộng và chiều sâu, từ các
nước đang phát triển tới các nước phát triển. Nhân tố mới xuất hiện mang lại cơ
hội và thách thức cho tất cả các nước tham gia, đòi hỏi sự vận động theo hướng
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

5

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



phát triển của các nước, tạo dựng lợi thế thương mại cho chính mình. Trong xu
thế đó, các quốc gia cũng nhận thấy những gì là bất lợi và việc hoạch định chính
sách có nghĩa vụ giảm thiểu bất lợi, sẽ trở thành điểm mạnh để các quốc gia tìm
cho mình một chỗ đứng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
3. Khái niệm chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu được hiểu là các công đoạn của quá trình sản
xuất sản phẩm hàng may mặc trong chuỗi giá trị từ khâu khai thác, sản xuất
nguyên liệu, thiết kế, gia công – sản xuất thành phẩm rồi phân phối tới các nhà
bán buôn, bán lẻ… có sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc nhiều quốc gia
trên thế giới.
4. Bản chất và nội dung cơ bản của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
4.1. Bản chất của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Sản phẩm dệt may là một chuỗi giá trị bị ảnh hưởng bởi người mua, điều này
có nghĩa là những khách hàng quốc tế (bán lẻ hoặc những công ty phát triển
thương hiệu) thương có vị thế trội hơn trong chuỗi giá trị. Chuỗi giá trị toàn cầu
hướng theo người mua bao gồm các nhà bán lẻ lớn, các nhà marketing, các nhà

sản xuất có thương hiệu mạnh có vai trò then chốt trong việc hình thành mạng
lưới sản xuất tập trung ở các nước xuất khẩu khác nhau trên phạm vi toàn cầu,
đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
4.2. Nội dung cơ bản của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Chuỗi giá trị có thể được thực hiện trong phạm vi một khu vực địa lý hoặc
trải rộng trong phạm vi nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá trị toàn cầu. Nhìn
chung chuỗi giá trị dệt may toàn cầu được chia làm 6 công đoạn cơ bản:
1)
2)
3)
4)
5)
6)

Công đoạn cung cấp sản phẩm thô, bao gồm: các sợi tự nhiên, sợi nhân
tạo…
Công đoạn sản xuất các sản phẩm đầu vào, sản phẩm của công đoạn này
là chỉ, vải và sợi do các công ty dệt đảm nhận.
Công đoạn thiết kế sản phẩm.
Công đoạn sản xuất do các công ty may đảm nhận.
Công đoạn xuất khẩu: do trung gian thương mại đảm nhận.
Cuối cùng là công đoạn marketing và phân phối.

Trần Hồng Quân – MSV 13150292

6

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp



Đại học Kinh Tế Quốc Dân



Dệt may nằm trong hệ thống chuỗi giá trị toàn cầu do thị trường và người
mua chi phối. Trong chuỗi giá trị đó khâu tạo ra giá trị lợi nhuận cao nằm trong
khâu nghiên cứu và phát triển, thiết kế, marketing và chiến lược kết nối các nhà
sản xuất trên phạm vi toàn cầu và bán các sản phẩm cho các thị trường tiêu dùng
chính.
5. Sự cần thiết của việc tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu đối với các
nước đang phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa
5.1. Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại – cơ hội và thách thức đối với
các nước đang phát triển
Xu thế toàn cầu hóa có tác động đến tất cả các nước, đặc biệt là những nước
đang phát triển, và điều đó dẫn đến sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nước ngày càng chặt chẽ, do đó các nước dù giàu hay nghèo, dù lớn hay nhỏ,
cũng phải tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, nếu không muốn bị
đánh bại trong cuộc chiến toàn cầu của nền kinh tế.
5.2. Tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh
Hội nhập quốc tế thúc đẩy tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Chuỗi giá trị toàn
cầu cho phép các công đoạn của chuỗi đặt tại những địa điểm (quốc gia) có khả
năng đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Đến nay, nhiều công trình
nghiên cứu kinh tế đã đi đến kết luận là: lợi ích khi trở thành một bộ phận của
chuỗi giá trị toàn cầu đem lại lợi thế gấp 10 – 20 lần nếu chỉ do quá trình tự do
hóa thương mại đem lại.
6. Kinh nghiệm tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Trung Quốc
Ngành dệt may Trung Quốc là một trong những ngành có vị thế hàng đầu và
là ngành công nghiệp có nhiều thế mạnh trên trường quốc tế. Ngành dệt may
Trung Quốc là một trong những ngành công nghiệp quan trọng của quốc gia này.
Với việc tận dụng được những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, sự đầu tư đúng

đắn vào các khâu đem lại lợi nhuận cao, tăng cường đầu tư vào công nghệ, đổi
mới các quy trình quản lý mà Trung Quốc đã thật sự thành công trong việc đưa
ngành công nghiệp truyền thống mũi nhọn này ngày một phát triển mạnh mẽ.

Trần Hồng Quân – MSV 13150292

7

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
1.

Vài nét về ngành dệt may Việt Nam

Sau hơn 20 năm liên tục phát triển, dệt may Việt Nam đã vươn lên trở thành
ngành kinh tế quan trọng của cả nước. Năm 1990, toàn ngành có 200 doanh
nghiệp với 200.000 lao động, doanh thu đạt 1 tỷ USD, trong đó xuất khẩu chiếm
10%. Năm 2013 số doanh nghiệp đã đạt 4.500 đơn vị với 2,5 triệu lao động,
doanh thu tăng 20 lần, đạt 23 tỷ USD, trong đó xuất khẩu chiếm 86% đạt 19,73
tỷ USD. Dệt may Việt Nam đã vươn lên hàng thứ 5 thế giới về xuất khẩu, trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia, đóng góp trên 10% GDP và hơn
15% tổng kim ngạch xuất khẩu.

(ĐVT: Tỷ đô la Mỹ)

Biểu đồ 1. Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam từ năm 2000 – 2012
(Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam)
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

8

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay chỉ tham gia vào một phần
trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu là cắt và may, sản xuất theo phương thức
gia công đơn giản, thiếu khả năng cung cấp trọn gói nên giá trị gia tăng còn
thấp. Ngành dệt may Việt Nam vẫn còn phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên, phụ
liệu nhập khẩu (khoảng 70%) chủ yếu từ thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Hàn
Quốc. Tuy nhiên, liên tiếp hai năm trở lại đây, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu
phụ liệu dệt may, khẳng định bước đầu cho sự tự chủ. Theo thống kê của Tập
đoàn dệt may Việt Nam (VINATEX) trong năm 2013, Việt Nam có 5.982 công
ty dệt may, với lực lượng lao động chiếm hơn 20% lao động trong khu vực công
nghiệp và gần 5% tổng lực lượng lao động toàn quốc. Phần lớn các công ty được
đặt tại miền Nam (62%), còn lại nằm ở miền Bắc (30%), miền Trung và Tây
Nguyên (8%). Trong đó, các công ty may chiếm tỷ trọng lớn (70%), còn lại là
các công ty dệt (17%), kéo sợi (6%), nhuộm (4%), và ngành công nghiệp hỗ trợ
(3%).
Bên cạnh đó, phải kể đến sự đóng góp cao và ngày càng tăng của các doanh

nghiệp FDI trong giá trị xuất khẩu. Theo số liệu thống kê trong năm 2013 cũng
như hai tháng đầu năm 2014, đều cho thấy tỷ trọng xuất khẩu nghiêng hẳn về
phía doanh nghiệp FDI với hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Gia nhập WTO, ngành dệt may Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi và cơ hội;
chủ động hơn trong quá trình phát triển thị trường nước ngoài, đặc biệt là giảm
áp lực từ các nhà cung cấp nguyên phụ liệu nước ngoài, giảm chi phí sản xuất và
tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm thông qua công cụ giá cả. Với lợi thế ổn
định chính trị - xã hội và nguồn lao động, dệt may Việt Nam đang có nhiều cơ
hội để tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt khi các hiệp định đối tác kinh
tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiệp định thương mại tự do song
phương Việt Nam – EU (FTA) được ký kết. Theo đó, mục tiêu tăng trưởng xuất
khẩu và tăng trưởng thị trường nội địa theo Quy hoạch phát triển ngành công
nghiệp dệt may đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của Bộ Công Thương sẽ đạt
khoảng 10% - 12%/năm.
Mặc dù vậy, các doanh nghiệp trong ngành dệt may vẫn phải đối mặt với
không ít khó khăn, thách thức khi hội nhập sâu với thị trường quốc tế, chúng ta
vẫn bị coi là “công xưởng” của thế giới, sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

9

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



xuất khẩu, các rào cản thương mại ngày càng gia tăng từ các thị trường nhập
khẩu lớn, nhất là Hoa Kỳ với các yêu cầu khắt khe về trách nhiệm xã hội, nhãn

mác sinh thái, bảo vệ môi trường.
2.
2.1.

Dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu
Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu

Sơ đồ 1. Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
(Nguồn: The international competiveness of
Asian economic in the apparel commodity chain)
Chuỗi giá trị dệt may chịu ảnh hưởng bởi người mua, việc tạo ra sản phẩm
cuối cùng phải qua nhiều công đoạn và hoạt động sản xuất thường được tiến
hành ở nhiều nước. Trong đó, các nhà sản xuất với thương hiệu nổi tiếng, các
nhà buôn, nhà bán lẻ lớn đóng vai trò then chốt trong việc thiết lập mạng lưới
sản xuất và định hình tiêu thụ hàng loạt thông qua các thương hiệu mạnh và sự
phụ thuộc vào những chiến lược thuê gia công toàn cầu nhằm thỏa mãn nhu cầu
này.
Trước đây, ngành may mặc toàn cầu đặc trưng bởi rất nhiều nước xuất khẩu
do hệ thống quota MFA tạo ra, nhưng mức độ tập trung xuất khẩu đang tăng
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

10

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân




nhanh. Chuỗi cung ứng hàng may mặc được đánh dấu bằng sự chuyên môn hóa
đáng kể theo nước. Các nước có thu nhập cao hơn thường thống lĩnh các lĩnh
vực cần đầu tư vốn nhiều hơn, trong khi các nước có thu nhập thấp hơn tập trung
vào lĩnh vực cần nhiều lao động. Lĩnh vực hoạt động cần nhiều lao động nhất là
sản xuất hàng may mặc, sau đó là dệt (sợi và vải). Những lĩnh vực cần vốn đầu
tư lớn như sản xuất xơ sợi nhân tạo và chế tạo thiết bị là thượng nguồn, nơi mà
các hàng rào ngày càng cao hơn. Do các nước phát triển giàu hơn và lương tăng,
lợi thế so sánh trong sản xuất bị mất dần đi, và phải chuyển trọng tâm sang các
sản phẩm có giá trị cao hơn hoặc sang các sản phẩm chế tạo với sự tập trung lao
động thấp hơn.
Việc phân công lao động giữa các nước tại những mức độ phát triển khác
nhau hình thành nên sự nâng cấp công nghiệp trong chuỗi giá trị may mặc.
Những lĩnh vực chính trong chuỗi may mặc như: may mặc, dệt, xơ sợi và thiết bị
được sắp đặt dọc theo chiều ngang và nó phản ánh mức độ giá trị gia tăng tương
đối từ thấp lên cao khi tăng vốn đầu tư. Ở châu Á, các nước được nhóm theo
trục dọc theo mức độ phát triển tương đối của mình, với Nhật Bản đứng đầu,
Trung Quốc và Ấn Độ ở mức giữa và các nước xuất khẩu kém phát triển như
Bangladesh, Campuchia và Việt Nam đứng cuối.
Đầu tiên, các nước có xu hướng tiến bộ từ các lĩnh vực có giá trị gia tăng
thấp lên cao trong chuỗi thời trang theo thời gian. Điều này cho thấy tầm quan
trọng của việc xem xét toàn bộ các bước giá trị gia tăng trong quá trình sản xuất
(nguyên liệu, cấu kiện, hàng thành phẩm, dịch vụ liên quan, thiết bị) hơn là chỉ
xem xét sản phẩm cuối cùng. Thứ hai là có sự phân công lao động khu vực trong
chuỗi giá trị may mặc, nơi các nước có mức độ phát triển khác nhau tạo thành
một hệ thống thang bậc nhiều lớp với vai trò xuất khẩu khác nhau ( ví dụ như
Mỹ thường đưa ra thiết kế sản phẩm và đơn hàng lớn, Nhật Bản cung cấp thiết
bị may, các nền kinh tế mới nổi tại Đông Á (NIEs) cung cấp vải và các nền kinh
tế châu Á khác có mức lương thấp như Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam may
hàng may mặc). Sự nâng cấp công nghiệp xảy ra khi các nước thay đổi vai trò
của mình trong hệ thống bậc thang xuất khẩu đó. Cuối cùng là, các nền kinh tế

tiên tiến như Nhật Bản và các nước NIEs Đông Á không muốn rời xa ngành này
khi hàng thành phẩm của họ trong chuỗi đã trở nên chín muồi, theo mô hình
“vòng đời sản phẩm”, nhưng họ lại đầu tư vốn dựa trên kiến thức sản xuất và hệ
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

11

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



thống phân phối của mình, do vậy chuyển dịch sang những giai đoạn giá trị gia
tăng cao hơn trong chuỗi may mặc.
Hiện nay, trên thị trường dệt may toàn cầu, Trung Quốc là lực lượng chính –
là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất Thế giới. Tuy nhiên, nhiều nước xuất
khẩu hàng dệt may khác có chi phí lao động thấp hơn Trung Quốc như
Bangladesh, Sri Lanka và Việt Nam đã bắt đầu mở rộng thị phần. Bên cạnh đó,
nhiều thị trường nhập khẩu lớn trên thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản cũng
muốn giảm sự phụ thuộc nhập khẩu hàng dệt may từ Trung Quốc và đã chuyển
hướng sang hợp tác các nhà sản xuất tại châu Á khác.
Các doanh nghiệp dệt may gia công hàng xuất khẩu may mặc thường áp
dụng 4 phương thức xuất khẩu chính là CMT, FOB, ODM và OBM.

Sơ đồ 2. Các phương thức xuất khẩu chủ yếu
(Nguồn: FPT Securities)



CMT (Cut – Make – Trim)

Đây là phương thức xuất khẩu đơn giản nhất của ngành dệt may và mang
lại giá trị gia tăng thấp nhất. Khi hợp tác theo phương thức này, người mua cung
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

12

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



cấp cho doanh nghiệp gia công toàn bộ đầu vào để sản xuất bao gồm nguyên
liệu, vận chuyển, mẫu thiết kế và các yêu cầu cụ thể; các nhà sản xuất chỉ thực
hiện việc cắt, may và hoàn thiện sản phẩm. Doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu
theo CMT chỉ cần có khả năng sản xuất và hiểu biết cơ bản về thiết kế để thực
hiện mẫu sản phẩm.


OEM/ FOB (Original Equipment Manufacturing)

FOB – Free On Boad là phương thức xuất khẩu ở bậc cao hơn so với CMT;
đây là hình thức sản xuất theo kiểu “mua nguyên liệu, bán thành phẩm”. Theo
phương thức FOB, các doanh nghiệp chủ động tham gia vào quá trình sản xuất,
từ việc mua nguyên liệu đến cho ra sản phẩm cuối cùng. Khác với CMT, các nhà
xuất khẩu theo FOB sẽ chủ động mua nguyên liệu đầu vào cần thiết thay vì được
cung cấp trực tiếp từ các người mua của họ. Các hoạt động theo phương thức

FOB thay đổi đáng kể dựa theo các hình thức quan hệ hợp đồng thực tế giữa nhà
cung cấp với các khách mua nước ngoài và được chia thành 2 loại:
-

FOB cấp 1
Các doanh nghiệp thực hiện theo phương thức này sẽ thu mua nguyên liệu
đầu vào từ một nhóm các nhà cung cấp do khách mua chỉ định. Phương thức
xuất khẩu này đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may phải chịu trách nhiệm về tài
chính để thu mua và vận chuyển nguyên liệu.

-

FOB cấp 2
Các doanh nghiệp thực hiện theo phương thức này sẽ nhận mẫu thiết kế sản
phẩm từ các khách mua nước ngoài và chịu trách nhiệm tìm nguồn nguyên liệu,
sản xuất và vận chuyển nguyên liệu và thành phẩm tới cảng của khách mua.
Điểm cốt yếu là các doanh nghiệp phải tìm được các nhà cung cấp nguyên liệu
có khả năng cung cấp các nguyên liệu đặc biệt và phải tin cậy về chất lượng,
thời hạn giao hàng. Rủi ro từ phương thức này cao hơn nhưng giá trị gia tăng
mang lại cho công ty sản xuất cũng cao hơn tương ứng.


ODM (Original Design Manufacturing)

Đây là phương thức sản xuất xuất khẩu bao gồm khâu thiết kế và cả quá
trình sản xuất từ thu mua vải và nguyên phụ liệu, cắt, may, hoàn tất, đóng gói và
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

13


Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



vận chuyển. Khả năng thiết kế thể hiện trình độ cao hơn về tri thức của nhà cung
cấp và vì vậy sẽ mang lại giá trị gia tăng cao hơn rất nhiều cho sản phẩm. Các
doanh nghiệp ODM tạo ra những mẫu thiết kế, hoàn thiện sản phẩm và bán lại
cho người mua, thường là chủ của các thương hiệu lớn trên thế giới.


OBM (Original Brand Manufacturing)

Đây là phương thức sản xuất được cải tiến dựa trên hình thức OEM, song ở
phương thức này các hãng sản xuất tự thiết kế và ký các hợp đồng cung cấp
hàng hóa trong và ngoài nước cho thương hiệu riêng của mình. Các nhà sản xuất
tại các nền kinh tế đang phát triển tham gia vào phương thức OBM chủ yếu phân
phối sản phẩm tại thị trường nội địa và thị trường các quốc gia lân cận.
Đối với ngành dệt may, quan hệ theo chiều dọc của ngành này được biểu
hiện dưới dạng chuỗi giá trị như sau:

Thiết kế
mẫu mã

Sản xuất nguyên,
phụ liệu

Sản xuất

gia công

Marketing, phân phối,
dịch vụ sau bán hàng

Sơ đồ 3. Chuỗi giá trị sản xuất – kinh doanh hàng dệt may toàn cầu
2.1.1. Thiết

kế mẫu mã

Đầu tư để làm chủ khâu thiết kế thời trang, có thể chủ động đưa ra các mẫu
mốt, phù hợp với xu hướng thời trang thế giới. Khi được thị trường chấp nhận
thì giá trị của khâu này trong chuỗi giá trị toàn cầu chiếm 5%.
Đây là khâu rất quan trọng đòi hỏi trình độ cao và tiền công cao hơn – khâu
có tỷ suất lợi nhuận cao nhất, nhưng lại là khâu yếu nhất của ngành may mặc
Việt Nam. Chỉ khoảng 30% giá trị xuất khẩu của ngành dưới dạng FOB (tức là
có tham gia vào khâu ý tưởng của thiết kế) còn lại xuất khẩu dưới dạng hình
thức gia công. Thiết kế kiểu dáng chủ yếu được làm ở các trung tâm thời trang
thế giới tại Pari, Luân Đôn, New York…ở khu vực Mỹ, châu Âu. Vải được sản
xuất ở Trung Quốc, các phụ liệu đầu vào khác được sản xuất tại Ấn Độ.

Trần Hồng Quân – MSV 13150292

14

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân
2.1.2. Sản




xuất nguyên, phụ liệu

Phát triển sản xuất nguyên, phụ liệu, kể cả đầu tư để phát triển thượng nguồn
(bông, xơ), vải và các loại phụ liệu khác. Làm chủ được khâu này giá trị trong
chuỗi giá trị toàn cầu chiếm 18%.
Những năm gần đây, công nghiệp lọc hóa dầu phát triển đã mở ra cho chúng
ta một triển vọng mới trong việc tự túc các loại bông, xơ nhân tạo. Tuy nhiên,
việc phát triển bông tự nhiên, mặc dầu chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong
nhiều năm (khoảng hơn 10 năm), nhưng kết quả còn rất khiêm tốn. Hiện nay,
nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để đảm bảo sản xuất cần đến 95% xơ bông,
70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt thoi. Qua
đó, có thể thấy rằng cả một ngành công nghiệp dệt may gần như hoàn toàn phụ
thuộc vào nước ngoài.
2.1.3.

Sản xuất gia công

Khâu gia công sản phẩm, toàn bộ khâu này (cắt, may, hoàn thiện, đóng gói,
vận chuyển…) chiếm giá trị là 5% - 7% trong chuỗi giá trị toàn cầu (bao gồm cả
các thủ tục xuất nhập khẩu).
Sản phẩm cuối cùng được thực hiện ở những nước có chi phí nhân công thấp
như Việt Nam, Trung Quốc. Đây là khâu có tỷ suất lợi nhuận thấp nhất chỉ
chiếm 5% - 7%. Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là gia công cho
khách hàng theo hình thức CMT hoặc CMP có hàm lượng giá trị gia tăng rất
thấp. Có tới 90% doanh nghiệp dệt may của Việt Nam tham gia vào khâu này.
2.1.4. Marketing,


phân phối và dịch vụ sau bán hàng

Cuối cùng vươn lên, xâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu để bán sản
phẩm cho các nhà buôn (không phải qua các trung gian môi giới) thậm chí có
thể bán đến tận tay người tiêu dùng…Giá trị của khâu này lên tới 70% trong
chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong khâu thương mại hóa, ngành dệt may Việt Nam mới chỉ thực sự mạnh
về khâu thương mại hóa trong nước, thương mại hóa ở các thị trường xuất khẩu
còn yếu. Mặc dù đã bước đầu có xuất khẩu dạng FOB, song tỷ lệ rất thấp, trong
các doanh nghiệp may, chủ yếu vẫn là xuất khẩu dạng CIF .
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

15

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp




Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Tại thị trường trong nước, nhiều doanh nghiệp may đã có những quyết sách
marketing thành công: Tổng công ty may Việt Tiến với chiến lược marketing
chiếm lĩnh thị trường phía Bắc, Công ty cổ phần May 10 cũng có danh tiếng tại
thị trường phía Bắc…Tuy nhiên, còn rất nhiều doanh nghiệp đang yếu năng lực
marketing – công cụ nền tảng của việc tạo dựng hệ thống phân phối hiệu quả.
Khâu phân phối chưa có sự tham gia của các hãng phân phối lớn và chuyên
nghiệp, chủ yếu các doanh nghiệp tự thực hiện phân phối thông qua hệ thống
các cửa hàng giới thiệu sản phẩm và các đại lý nhỏ lẻ của tư nhân.
Trong chuỗi giá trị, các nhà phân phối thường chính là các nhà thiết kế, vì

hơn ai hết, chính là người tường tận nhất nhu cầu và điều kiện để thỏa mãn nhu
cầu khách hàng. Vì thế, sau khi Việt Nam gia công hoàn thiện, sản phẩm được
đưa trở lại thị trường do các công ty thương mại danh tiếng đảm nhận bán ra.
Các chuyên gia trong ngành dệt may ước tính, tới 70% lợi nhuận (tính trên 1 sản
phẩm may mặc từ khâu đầu đến khâu cuối cùng của chuỗi giá trị). Và để tăng
giá trị gia tăng cho toàn ngành, việc chú trọng vào khâu thương mại hóa nhằm
gia tăng giá trị cảm nhận của sản phẩm, tăng khối lượng tiêu thụ, kích thích tiêu
dùng thực sự cần chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa.
2.2. Dệt may Việt Nam tạo ra giá trị gia tăng ít
Cung cấp các yếu tố đầu vào
của sản phẩm dệt may
Đối tác
nước ngoài
(người đặt gia công)

Doanh nghiệp
dệt may Việt Nam
(cắt may, hoàn thiện)

Sản phẩm dệt may hoàn thiện
Sơ đồ 4. Quy trình gia công ở Việt Nam
Trở thành thành viên của WTO, cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu tăng
lên. Tuy nhiên, để có thể phát huy được ưu thế này, ngành dệt may Việt Nam
còn nhiều vấn đề cần phải tập trung giải quyết. Thực tế cho thấy, để có thể xuất
được số hàng dệt may trị giá 7,75 tỷ USD, Việt Nam phải chi tới 5,2 – 5,3 tỷ
USD để nhập nguyên phụ liệu sản xuất. Như vậy, giá trị mà ngành dệt may tạo
ra để thực hưởng vẫn quá khiêm tốn, chỉ khoảng 25% - 30% kim ngạch xuất
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

16


Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



khẩu. Đây cũng chính là tồn tại mà ngành này vẫn chưa xóa được đặc thù của
mình là gia công. Phần nhiều các sản phẩm may mặc của Việt Nam xuất khẩu
sang thị trường EU, Hoa Kỳ, được tiến hành qua một trung gian thứ ba là các
đối tác Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan… Với vai trò
là những nhà thầu phụ, các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc của Việt Nam cung
cấp hàng hóa theo các hợp đồng ký kết với những đối tác này và giao hàng thẳng
cho các nhà bán lẻ của Hoa Kỳ và EU hoặc cũng có thể giao trực tiếp cho những
đối tác này. Vì vậy, hình thức xuất khẩu này làm cho việc xuất khẩu hàng may
mặc của các doanh nghiệp may Việt Nam trở nên thụ động, phụ thuộc vào nước
thứ ba, dẫn đến giá trị xuất khẩu của Việt Nam bị hạn chế.
Hoạt động trong khu vực hạ nguồn của dệt may Việt Nam chủ yếu là gia
công cho khách hàng theo hình thức CMT hay CMP có hàm lượng giá trị gia
tăng rất thấp. Có đến 90% doanh nghiệp dệt may của Việt Nam tham gia vào
khâu này, các doanh nghiệp gia công cho các thương hiệu nổi tiếng và hầu như
không có đối tác phân phối trực tiếp trên thị trường quốc tế. Phần đóng góp của
phía Việt Nam vào việc hoàn thiện một chiếc áo khoác chỉ vào khoảng 11%, đối
với áo sơ mi là 25%, quần dài là 15% và các sản phẩm khác luôn dưới mức
25%. Trong năm 2015, ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu hàng hóa trị giá 27,2
tỷ USD, tương đương mức tăng trưởng 10% so với năm trước và chiếm 8,3%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các thị trường chính nhập khẩu
hàng dệt may của Việt Nam năm qua là: Hoa Kỳ đạt 10,96 tỷ USD, tăng 11,7%;
EU đạt 3,47 tỷ USD, tăng 4,2%; Nhật Bản đạt 2,79 tỷ USD, tăng 6,3%; Hàn

Quốc đạt 2,13 tỷ USD, tăng 2% so với năm 2014. Tuy nhiên, toàn bộ thị trường
trong nước chỉ đạt doanh số khoảng 1,8 tỷ USD (nguồn: Tổng cục Thống kê).
Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam không có vai trò lớn trong quá trình hình
thành và phân phối các sản phẩm dệt may trên thị trường thế giới. Sự xuất khẩu
dệt may bằng con đường gia công làm các doanh nghiệp Việt Nam không được
tiếp xúc trực tiếp với khách hàng cho nên không có khả năng dự đoán nắm bắt
nhu cầu để chuẩn bị kế hoạch sản xuất, dẫn đến bị động khi có sự thay đổi nhu
cầu, làm các doanh nghiệp dệt may bị phụ thuộc chặt chẽ vào đối tác đặt hàng
gia công. Khi lợi thế về chi phí gia công không còn thì các doanh nghiệp Việt
Nam khó có thể tự xuất khẩu vào thị trường này. Vì khi chúng ta gia công cho
nước ngoài hàng hóa đó không được gắn nhãn mác của các doanh nghiệp dệt
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

17

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



may Việt Nam mà cũng mang nhãn mác của các nhà phân phối. Do hình thức
gia công xuất khẩu các doanh nghiệp chỉ thực hiện duy nhất công đoạn sản xuất
còn lại các công đoạn khác là hoàn toàn do đối tác đặt gia công chịu trách
nhiệm.Cho nên hình thức gia công này là tương đối an toàn và phù hợp với các
doanh nghiệp dệt may có quy mô nhỏ và lượng vốn hạn hẹp vì nó tránh được
những rủi ro trong quá trình nghiên cứu thiết kế sản phẩm, cũng như quá trình
phân phối sản phẩm. Tuy nhiên, cùng với tránh được các rủi ro thì giá trị xuất
khẩu mang lại cũng thấp.

Đứng trên giác độ của các chuyên gia kinh tế cho thấy, mặc dù giá trị gia
tăng không cao nhưng giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có sức cạnh tranh
hơn bởi các “cường quốc may mặc”, họ cạnh tranh nhau khốc liệt ở giai đoạn
thiết kế và phát triển phụ trợ mà tạo ra nhiều thị trường ngách cho các nước
trong đó có Việt Nam. Với việc hội nhập sâu rộng của nước ta đã tạo ra cho
ngành dệt may Việt Nam hoàn toàn có đủ năng lực để phát triển và khai thác
triệt để các lợi thế trong khâu này. Trong ngắn hạn, quan điểm này cố gắng phản
ánh đúng thực tiễn nhưng nó sẽ không phù hợp, thậm chí sẽ có định hướng sai
lệch cho phát triển ngành dệt may Việt Nam trong tầm nhìn dài hơn. Khác với
các ngành công nghiệp khác, công nghệ không phải là đòi hỏi có tính sống còn
đối với các doanh nghiệp dệt may. Theo đó, các doanh nghiệp không quá khó
khăn trong quá trình tiếp cận các yếu tố đầu vào, điển hình là nguồn nhân lực; và
với bề dày kinh nghiệm, ngành dệt may Việt Nam cần phải phát triển các khâu
chủ chốt mang lại giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị may mặc toàn cầu.
2.3. Những nguyên nhân chính
2.3.1. Thiết bị công nghệ
Thiết bị công nghệ ngành dệt may Việt Nam vừa lạc hậu vừa thiếu đồng
bộ, sản phẩm làm ra không có năng lực cạnh tranh. Máy móc thiết bị ngành dệt
phần lớn là cũ kỹ có xuất xứ từ nhiều nước, có gần 50% thiết bị đã sử dụng trên
25 năm nên hư hỏng rất nhiều làm cho năng suất thấp, chất lượng sản phẩm
thấp, giá thành cao. Trong nhiều năm qua, hầu hết các doanh nghiệp đã sử dụng
nguồn vốn tự có, vốn vay trung hạn, dài hạn để mua sắm thiết bị, góp phần nâng
cao chất lượng công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm. Hàng ngàn máy dệt không
thoi, có thoi khổ rộng, nhiều bộ đồ mắc mới, hiện đại đã được nhập về, thay thế
cho những thiết bị quá cũ để nâng cấp mặt hàng dệt nhưng cũng chỉ đáp ứng
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

18

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp



Đại học Kinh Tế Quốc Dân



khoảng 15% công suất dệt. Toàn ngành đã trang bị thêm được trên 20.000 máy
may hiện đại để sản xuất các loại mặt hàng: sơ mi, jacket, đồ bảo hộ lao động,
áo phông các loại … cải thiện một bước chất lượng hàng may xuất khẩu và nội
địa. Ngành may liên tục đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới thiết bị để đáp ứng
yêu cầu chất lượng của thị trường thế giới. Một số doanh nghiệp đã đầu tư dây
chuyền đồng bộ, sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản xuất một mặt hàng như
dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần jean, comple, hệ thống giặt là…
nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất ngày càng cao.
2.3.2. Nguyên vật liệu
Vượt lên những khó khăn về thị trường, sự cạnh tranh gay gắt từ các quốc
gia xuất khẩu dệt may khác, năm 2015 ngành dệt may Việt Nam vẫn giữ vững vị
trí thứ 5 trong số các nước xuất khẩu dệt may thế giới, với kim ngạch xuất khẩu
đạt 27,2 tỷ USD (nguồn: baocongthuong.com.vn).
Hiện nay, nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để đảm bảo sản xuất cần đến
95% xơ bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải
dệt thoi. Qua đó, có thể thấy rằng cả một ngành công nghiệp dệt may gần như
hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, để sản xuất ổn định, hầu như các
công ty ngành dệt may đều phải chấp nhận gia công cho đối tác nước ngoài, dù
lợi nhuận thấp. Bởi khi gia công, đối tác sẽ cung ứng kịp thời, đầy đủ nguyên
phụ liệu.
Còn sản xuất theo dạng FOB (mua đứt, bán đoạn), lợi nhuận cao hơn,
nhưng bù lại phải chịu khó tự tìm nguồn nguyên phụ liệu bằng cách nhập khẩu.
Ngành dệt may Việt Nam chỉ có thể đáp ứng 30% nhu cầu nguyên phụ liệu và
điều này cũng không có nghĩa là năng lực của ngành kém, không đủ sức sản

xuất. Về cơ bản, phụ liệu nội địa có thể đáp ứng đủ và nguyên liệu nội địa có thể
đáp ứng đến 70% nhu cầu sản xuất; nhưng do yêu cầu về thành phẩm của đối tác
nước ngoài cao, nguyên phụ liệu Việt Nam chưa đáp ứng được, tất phải nhập từ
nước ngoài. Việt Nam hiện chưa có đội ngũ thiết kế kiểu dáng nguyên liệu (vải)
chuyên nghiệp.
Tất cả các nước đều phải nhập khẩu nguyên phụ liệu, kể cả Trung Quốc vì
nhu cầu trên thế giới rất đa dạng, không thể cùng lúc đáp ứng hết được. Vấn đề

Trần Hồng Quân – MSV 13150292

19

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



là tập trung nội lực phát triển sâu, mạnh, có định hướng vào loại nguyên liệu
nhất định nào đó để nó trở thành nguồn cung cấp chính cho thị trường thế giới.
Nguyên nhân khiến Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn nguyên, phụ liệu
cho ngành dệt may là do sản lượng lẫn diện tích trồng bông trong nước còn quá
thấp. Diện tích, năng suất sản xuất bông, xơ tại Việt Nam hiện nay chỉ đáp ứng
được 2% nhu cầu bông, xơ cho ngành dệt sợi. Trong khi đó, có một số nguyên
phụ liệu khác mà trong nước đã sản xuất được thì giá thành lại cao hơn sản
phẩm nhập khẩu tới 5%, hơn thế lại có chất lượng không ổn định. Hiện nay, các
doanh nghiệp dệt lớn tại Việt Nam chủ yếu cung cấp được vải sơ mi, kaki, dệt
thun. Vải thời trang sản xuất trong nước rất hiếm. Nguyên phụ liệu trong nước
chủ yếu là nút, chỉ, dây kéo, vải lót, bao bì. Trong chuỗi sản xuất liên hoàn từ

sản xuất bông, xơ, kéo sợi, dệt, nhuộm, hoàn tất vải, không chỉ thiếu trầm trọng
nguyên liệu bông, xơ đầu vào mà ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam còn
nhiều hạn chế trong khâu nhuộm và hoàn tất vải. Việc còn yếu khâu nhuộm,
hoàn tất vải cũng ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp thời trang. Vì đây là
công đoạn quyết định chất lượng, mẫu mã của vải để có thể cạnh tranh với hàng
nước ngoài. Nếu có được nguồn nguyên phụ, liệu tại chỗ sẽ giúp các nhà thiết kế
chủ động tìm nguyên liệu cho thiết kế.
2.3.3. Trình độ nhân lực
Dệt may hiện là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhất. Lao
động của ngành dệt may chiếm hơn 20% lao động trong khu vực công nghiệp và
gần 5% trong tổng lực lượng lao động toàn quốc. Gần 80% là lao động nữ, trình
độ văn hóa của người lao động tương đối cao chủ yếu là đã tốt nghiệp THPT,
THCS. Lao động trực tiếp của ngành đa số còn rất trẻ, tỷ lệ chưa có gia đình cao
sẽ là lợi thế cho việc đào tạo và nâng cao năng suất lao động. Lao động dệt may
Việt Nam có đôi bàn tay khéo léo, tiếp thu kiến thức mới nhanh nhưng do chưa
được đào tạo bài bản, hệ thống nên trình độ của họ còn rất hạn chế. Hơn nữa, do
điều kiện làm việc chuyên môn hóa cao nên cường độ làm việc căng thẳng.
Trong khi đó, giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm là rất ít do phần lớn là làm gia
công thế nên lương của công nhân ngành may lại rơi vào nhóm có thu nhập thấp.
Tình trạng này dẫn đến thiếu công nhân cục bộ tại các thành phố lớn. Các doanh
nghiệp liên tục phải tuyển lao động, chủ yếu là lao động phổ thông rồi đào tạo
nhưng có khi số lao động ra đi còn nhiều hơn số lao động tuyển vào. Nhiều cuộc
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

20

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân




đình công tự phát xảy ra tại các thành phố lớn và khu công nghiệp tập trung đã
ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp.
Bên cạnh đó ngành đang có tình trạng thiếu nguồn lao động quản lý và kỹ
thuật, thiếu các nhà thiết kế mẫu thời trang chuyên nghiệp nên khả năng gắn kết
thời trang với sản xuất đạt trình độ quốc tế còn kém. Hầu hết, các cán bộ quản lý
chủ chốt trong các doanh nghiệp dệt may đều có trình độ đại học, cao đẳng,
chuyên môn khá nhưng trình độ quản lý theo phong cách công nghiệp còn yếu,
tiếp cận với phương thức quản lý hiện đại còn ít. Cán bộ kĩ thuật chủ yếu trưởng
thành từ công nhân bậc cao nên chỉ giỏi về chuyên môn của sản phẩm cụ thể còn
như việc thiết kế mẫu, kiểu dáng sản phẩm còn rất kém. Vì thế, sản phẩm làm ra
không cạnh tranh được với các sản phẩm của nước ngoài.
Các doanh nghiệp rất cần những kỹ sư có bằng cấp, công nhân kỹ thuật và
các nhà quản lý – những người có khả năng nắm bắt công nghệ hiện đại, đặc biệt
là nếu như họ được đào tạo từ các quốc gia nổi tiếng về thời trang, công nghệ.
Những bất cập về nguồn nhân lực, đặc biệt là về chất lượng nguồn nhân lực đã
làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh của toàn ngành. Mục tiêu hiện nay của
ngành dệt may đặt ra cho mình là giữ vững top 5 nước xuất khẩu dệt may lớn
của thế giới và định hướng phát triển của ngành là theo hướng: thời trang – công
nghệ - thương hiệu. Với hướng đi như vậy nguồn nhân lực của toàn ngành dệt
may phải hướng đến chất lượng cao, nguồn nhân lực cần là yếu tố quan tâm số
một trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh, đào tạo cần được coi là giải pháp cơ bản
và quan trọng nhất để nguồn nhân lực đạt đến chất lượng mong muốn.
2.3.4. Mạng lưới phân phối và marketing
Hiện nay hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợi may mặc trong nước
chưa có tổ chức, để thả nổi, một số tư thương còn làm giả nhãn mác một số công
ty có uy tín. Bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại chưa mở rộng và
quản lý tốt các kênh tiêu thụ ngay ở thị trường trong nước. Bên cạnh đó, ngành

dệt may Việt Nam phải đối mặt với những đối thủ cạnh tranh rất mạnh như
Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ…không chỉ trên thị trường quốc tế mà còn trong thị
trường nội địa.
Có lẽ cũng do chi phí cho các hoạt động trong khâu này không phải là
nhỏ, chúng ta phải thường xuyên có các thương nhân có kinh nghiệm, tham gia
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

21

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



hầu khắp các cuộc trình diễn thời trang hay hội chợ triển lãm quốc tế, để vừa
chọn được mẫu mã của các nhà thiết kế, mang đi chào hàng, tìm các nhà buôn
để có thể ký hợp đồng bán hàng…Tất cả những công việc của khâu này không
chỉ là khó khăn về tài chính, về nghiệp vụ và kinh nghiệm kinh doanh mà đi kèm
với nó, như đã nói ở trên là rủi ro cao trong quá trình vận chuyển và bảo hiểm
hàng hóa đến các địa điểm phân phối. Chính vì vậy nó chiếm đến 70% giá trị
trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may.
3. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến ngành dệt may Việt Nam
Có thể phân ra làm hai nhóm nhân tố đó là nhóm nhân tố chủ quan và
nhóm nhân tố khách quan.
3.1. Nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan như đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, cơ
chế quản lý, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ ảnh hưởng
rất lớn đến quá trình phát triển của ngành.

Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là nhân tố mang tính chủ
quan của chủ thể quản lý mang cấp vĩ mô. Các chính sách về thuế, chính sách về
giá, chính sách xuất nhập khẩu, hạn ngạch hay các chính sách về đầu tư … Nếu
Nhà nước có sự can thiệp vừa phải tới ngành, tạo môi trường kinh doanh thông
thoáng, môi trường chính trị ổn định sẽ giúp cho ngành có điều kiện phát triển.
Trái lại, sự can thiệp quá sâu của Nhà nước sẽ kìm hãm sự phát triển của ngành.
Thêm vào đó những định hướng phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của
vùng, của địa phương cũng ảnh hưởng đến tổng thể phát triển của ngành dệt
may.



3.2. Nhân tố khách quan
Nhân tố địa lý, điều kiện tự nhiên
Khí hậu và đất đai thuận lợi sẽ tạo điều kiện phát triển các cây công nghiệp
như bông, đay, trồng dâu nuôi tằm … Nước ta nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa rất
phù hợp với phát triển cây công nghiệp, đây là yếu tố đầu vào của ngành dệt
may. Khi sợi, bông có năng suất, chất lượng cao thì sản phẩm dệt may sản xuất
ra cũng có chất lượng cao hơn, cạnh tranh dễ dàng trên thị trường.



Nhân tố xã hội
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

22

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp



Đại học Kinh Tế Quốc Dân
-



Yếu tố dân số

Dân số và cơ cấu dân số ảnh hưởng rất quan trọng trong ngành dệt may.
Với số lượng dân số trong độ tuổi lao động dồi dào sẽ góp phần thúc đẩy nguồn
nhân lực cho ngành dệt may. Dân số tăng lên, nhu cầu về hàng dệt may cũng
tăng lên. Do đó, ngành dệt may phải phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu để
đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng và giải quyết việc làm.
-

Yếu tố thị trường
Cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của thị trường đòi hỏi ngành phải vươn
lên và nhờ đó công nghiệp dệt may sẽ phát triển hiệu quả. Mở rộng thị trường là
vừa tăng thêm thị phần, vừa học hỏi được kinh nghiệm trong sản xuất và chuyển
giao công nghệ hiện đại và từ đó làm tăng khả năng sản xuất và cung cấp. Ngoài
ra, do lợi thế về giá lao động thấp nên nếu ngành dệt may được đầu tư thích
đáng hơn thì sản phẩm dệt may Việt Nam sẽ có sức mạnh cạnh tranh trên thị
trường thế giới.

-

Yếu tố truyền thống
Văn hóa, lịch sử truyền thống, phong tục tập quán và con người có ảnh
hưởng trực tiếp đến cách sống, cách ăn mặc, phương thức sản xuất của ngành.
Dệt may là một ngành truyền thống đã phát triển từ lâu đời. Qua thời gian đúc
kết kinh nghiệm và quá trình phát triển, nó đã trở thành một ngành công nghiệp

độc lập và có thế mạnh.


-

Nhân tố nguồn lực
Yếu tố nguồn nhân lực
Đây là một trong những yếu tố chính của hoạt động sản xuất kinh doanh,
đặc biệt là trong ngành dệt may nó được biểu hiện trên hai mặt đó là số lượng và
chất lượng. Về số lượng là những người trong độ tuổi lao động và thời gian của
họ có thể huy động vào làm việc. Về mặt chất lượng được thể hiện ở trình độ
khéo léo của công nhân, trình độ quản lý … Ngành dệt may có đặc trưng là sử
dụng lao động nhiều, quy trình sản xuất nhiều công đoạn thủ công, vì thế lao
động là yếu tố quan trọng của ngành. Nguồn nhân lực dồi dào, chi phí trả lương
rẻ là một lợi thế so sánh của ngành dệt may Việt Nam. Nhưng lao động cũng
phải đạt đến một trình độ nhất định, có trình độ chuyên môn cao, sáng tạo,
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

23

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



nhanh nhạy với cái mới thì mới thực sự trở thành lợi thế của ngành. Ngược lại,
người lao động kém năng động, kém khéo léo thì sẽ kìm hãm sự phát triển đó.
-


Yếu tố vốn
Vốn sản xuất vừa được coi là yếu tố đầu vào, vừa được coi là sản phẩm đầu
ra của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất,
tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp mà còn là điều kiện để nâng cao
trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào đầu tư theo chiều sâu, hiện
đại hóa quá trình sản xuất. Tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất từ đó tạo thêm
công ăn việc làm, tăng thu nhập của người lao động có ý nghĩa rất quan trọng
trong tình hình hiện nay của nước ta. Để dệt may trở thành một ngành công
nghiệp mũi nhọn thì phải cần vốn để đầu tư cải tạo, nâng cấp, đổi mới máy móc
thiết bị và công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm để có thể
cạnh tranh được trên thị trường.

-

Yếu tố thiết bị công nghệ
Công nghệ là yếu tố cơ bản đảm bảo cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả
cao. Máy móc, thiết bị công nghệ làm tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm chi phí, hạ giá thành … Máy móc thiết bị của ngành dệt may là máy
dệt thoi, dệt kim tròn, dệt kim đan móc, máy in nhuộm sản phẩm … Nếu máy
móc, thiết bị hiện đại phù hợp với trình độ của người sử dụng thì máy sẽ được
dùng hết công suất, sản phẩm làm ra vừa có chất lượng cao, mẫu mã phong phú
sẽ dễ dàng được thị trường chấp nhận.
4. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của ngành dệt may Việt Nam
4.1. Điểm mạnh
Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn xã hội, có sức
hấp dẫn đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ có
những biện pháp ưu tiên và khuyến khích đầu tư vào ngành dệt may như ưu đãi
thuế nhập khẩu cho các nguyên liệu thô với mục đích sản xuất các sản phẩm
may tái xuất khẩu trong 3 – 4 tháng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp …

Giá công nhân của ngành may mặc Việt Nam rẻ nhất so với các nước trong
khu vực và thế giới. Mức lương trung bình ngành dệt may của Việt Nam là từ
402 – 604 USD/tháng (tương đương từ 8,4 – 12 triệu đồng). Con số này chỉ
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

24

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân



bằng gần ½ so với Malaysia (755 -1.019 USD/tháng) và bằng ¼ so với mức
lương trung bình ngành dệt may tại Singapore (nguồn: JobStreet.com). Giá nhân
công rẻ -> chi phí thấp -> giá thành sản phẩm rẻ -> tạo ra lợi thế cạnh tranh
trong sản phẩm may mặc.
Người lao động cần cù chăm chỉ và khéo léo nên có những sản phẩm yêu
cầu tay nghề thủ công rất độc đáo, đặc sắc và có sự khác biệt tạo nên lợi thế
cạnh tranh cũng như giúp Việt Nam có những thuận lợi lớn trong xuất khẩu và
trong việc tạo dựng các làng nghề để phát triển ngành.
Ngành may mặc Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao, số lượng các công ty
liên tục tăng qua các năm và quy mô của công ty ngành càng lớn cả về mọi
nguồn lực. Giá trị xuất khẩu tăng ở các thị trường chính là Mỹ, EU, Nhật Bản.
Ngành dệt may Việt Nam có thế mạnh trong việc sản xuất các sản phẩm dệt kim.
Đây là chủng loại mà người tiêu dùng Mỹ, EU rất ưa chuộng. Ngành may mặc
được đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại với những máy cắt, máy ép, là hơi…giảm
bớt các công đoạn thủ công.
Một số thương hiệu được khẳng định trên thị trường trong và ngoài nước:

May 10, Việt Tiến, Dệt kim Đông Xuân, An Phước, Thái Tuấn … Những thương
hiệu này không chỉ đứng vững trong thị trường trong nước mà còn giúp ngành
dệt may Việt Nam tạo dựng tên tuổi trên thị trường nước ngoài.
4.2. Điểm yếu
Nguyên vật liệu ngành vẫn còn phải nhập khẩu và ngành dệt có tốc độ tăng
trưởng chậm hơn ngành may nên ngành may không có sự chủ động trong sản
xuất kinh doanh. Tình trạng này còn làm ảnh hưởng tới các đơn đặt hàng về thời
gian, chất lượng và hiệu quả kinh tế tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm ngành may
còn thấp và hiệu quả kinh tế chưa cao.
Giá lao động rẻ nhưng chất lượng lao động không cao, đặc biệt lao động có
trình độ chuyên môn thấp chiếm 60% nên năng suất lao động thấp, so với các
nước trong khu vực thì năng suất lao động của ngành dệt may nước ta chỉ bằng
2/3. Lương thấp gây ra tình trạng di chuyển lao động trong cùng ngành hoặc ra
khỏi ngành làm cho việc đào tạo chuyên môn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra
công ty có khả năng xuất khẩu hàng may mặc và gia công là chủ yếu chứ không
thực hiện xuất khẩu trực tiếp.
Trần Hồng Quân – MSV 13150292

25

Đề án Quản trị kinh doanh tổng hợp


×