Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

thất nghiệp trẻ ở việt nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.32 KB, 15 trang )

Đề tài số 5: THẤT NGHIỆP TRẺ Ở VIỆT NAM,
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP

MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thất nghiệp trẻ
I. Khái niệm thất nghiệp và thất nghiệp trẻ
II. Tác động của thất nghiệp và thất nghiệp trẻ
Chương 2: Tình hình thất nghiệp trẻ ở Việt Nam giai đoạn gần đây.
I. Tình hình kinh tế và thực trạng thất nghiệp Việt Nam từ năm 2008
đến nay
II. Thanh niên trong cơ cấu lao động, việc làm
III. Tình trạng thất nghiệp trẻ ở Việt Nam
Chương 3: Nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp trẻ
I. Nguyên nhân khách quan
II. Mất cân đối giữa đào tạo và nhu cầu thực tế
III. Tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh
IV. Từ phía sinh viên
Chương 4: Giải pháp làm giảm thất nghiệp


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã không ít tạo
ra những sự nhảy vọt về mọi mặt, đã đưa nhân loại tiến xa hơn nữa . Trong những
năm gần đây chúng ta đã đạt được một số thành tựu phát triển rực rỡ về khoa học kỹ
thuật,các ngành như du lịch,dịch vụ, xuất khẩu, lương thực thực phẩm sang các
nước,vv.... Đằng sau những thành tựu chúng ta đã đạt được,thì cũng có không ít vấn
đề mà Đảng và nhà nước ta cần quan tâm như : Tệ nạn xã hội, lạm phát, thất nghiệp.
Nhưng có lẽ vấn đề được chú ý hàng đầu ở đây có lẽ là thất nghiệp. Bất kỳ một
quốc gia nào dù nền kinh tế có phát triển đến đâu đi chăng nữa thì vẫn tồn tại thất
nghiệp. Đó là vấn đề không tránh khỏi chỉ có điều là thất nghiệp đó ở mức độ thấp


hay cao. Ở bài viết này chúng em xin được đề cập đến một khía cạnh quan trọng
của thất nghiệp là thất nghiệp trẻ - một vấn đề đang được mọi người, nhất là các
sinh viên đã và sắp ra trường hết sức quan tâm.
Thực trạng của thất nghiệp và thất nghiệp trẻ ở Việt Nam giai đoạn gần đây,
nguyên nhân làm gia tăng tỉ lệ người thất nghiệp trẻ và giải pháp cho sinh viên. Đó
là những vấn đề sẽ được trình bày trong bài viết. Trong đề tài nghiên cứu này,
chúng em xin trình bày một số quan điểm của bản thân về tình hình thất nghiệp trẻ
ở Việt Nam. Song trình độ sinh viên có hạn, bài tiểu luận này chỉ xin dừng lại ở việc
tổng kết những kiến thức đã học ở trường, các ý kiến và số liệu kèm theo về vấn đề
nói trên đã được một số nhà nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu và được đăng tải trên
báo, tạp chí.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài này chính là nhằm mục đích đưa ra những nhận thức
đúng đắn, nguyên nhân, tác động tốt xấu của thất nghiệp trẻ ở Việt Nam. Việc nhận
thức đúng đắn về vấn đề này giúp ta có những giải pháp giải quyết tình trạng thất
nghiệp ở nước ta, tìm kiếm những hướng đi của chính sách đồng thời cũng giải
quyết được nhiều vấn đề xã hội do thất nghiệp trẻ gây ra như cờ bạc, trộm cắp, làm
xói mòn nếp sống lành mạnh, gây tổn thương về mặt tâm lý và niềm tin của nhiều
người.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: những thanh niên thất nghiệp và bán thất nghiệp Việt
Nam.
Phạm vi nghiên cứu: tình trạng thất nghiệp và thất nghiệp trẻ trong nước, sự
biến động của tỷ lệ thất nghiệp, tình hình việc làm của lao động trẻ ở Việt Nam hiện
nay, các chính sách giải quyết việc làm của nhà nước ta, những kết quả đạt được và


chưa đạt được. Bên cạnh đó nêu lên một số lý do tại sao khủng hoảng kinh tế lại
làm gia tăng tỉ lệ thất nghiệp trẻ tại Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu

Đi sâu nghiên cứu tình trạng thất nghiệp trẻ thông qua nghiên cứu nền kinh tế
thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây nói riêng.
Cần phải sử dụng những khái niệm, lý thuyết về thất nghiệp trẻ, những số liệu
có sẵn trên sách báo internet để nêu lên tình trạng thất nghiệp, lý do thất nghiệp, các
biện pháp để giải quyết tình trạng này đảm bảo đời sống nhân dân.
Nguồn số liệu: ghi chú cụ thể sau mỗi số liệu.
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẤT NGHIỆP
VÀ THẤT NGHIỆP TRẺ
I. KHÁI NIỆM THẤT NGHIỆP VÀ THẤT NGHIỆP TRẺ
1. Khái niệm thất nghiệp
Tại Điều 20 Công ước số 102 (1952) của tổ chức lao động Quốc tế (gọi tắt là
ILO) về Quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội định nghĩa: “Thất nghiệp là sự ngừng
thu nhập do không có khả năng tìm được một việc làm thích hợp trong trường hợp
người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc” .
Ở Việt Nam, có một số khái niệm về thất nghiệp như:
“Thất nghiệp là hiện tượng mà người có sức lao động, có nghề, muốn đi làm
việc, không có việc làm và đã đăng ký ở cơ quan có thẩm quyền” - (Kỷ yếu hội thảo
khoa học 1988 Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội)
“Thất nghiệp là tình trạng trong đó người có sức lao động trong độ tuổi lao
động không có việc làm và đang cần tìm một việc làm có trả công” - (Đề tài khoa
học cấp Bộ (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) năm 1996)
Như vậy, thất nghiệp là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không
tìm được việc hay là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động,
không có việc làm và đang tìm kiếm việc làm.
2. Khái niệm thất nghiệp trẻ
Từ những khái niệm thất nghiệp ở trên, ta có thể rút ra khái niệm về thất
nghiệp trẻ. Thất nghiệp trẻ là tình trạng thanh niên có khả năng lao động nhưng
không có việc làm hoặc làm những công việc bán thời gian, tạm thời và đang tìm
kiếm việc làm.



II. TÁC ĐỘNG CỦA THẤT NGHIỆP VÀ THẤT NGHIÊP TRẺ
1. Tác động của thất nghiệp nói chung
1.1 Tác động của thất nghiệp đối với kinh tế
Tỷ lệ thất nghiệp cao là biểu hiện của GDP thực tế thấp hơn mức tiềm năng,
hay nói cách khác đó cũng là biểu hiện của giảm sản lượng nền kinh tế và có nhiều
ngành, doanh nghiệp cắt giảm sản lượng.
Tỷ lệ thất nghiệp cao thường đi đôi với cắt giảm sản xuất của nhiều doanh
nghiệp, nhiều ngành, do đó sản lượng, doanh thu, thu nhập giảm sút. Xét ở phạm vi
toàn bộ nền kinh tế, thất nghiệp làm cho tăng trưởng kinh tế thấp hoặc không có
tăng trưởng, đôi khi giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng đến mức sống người lao
động và nhân dân.
1.2. Tác động xã hội của thất nghiệp
Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có
người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm.
Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi nhiều
việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn.
1.3. Tác động của thất nghiệp đối với người lao động.
Không có việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với những người lao động
khác, tiêu tốn thời gian vô nghĩa, không có khả năng chi trả, mua sắm vật dụng thiết
yếu cũng như các hàng hóa tiêu dùng. Ảnh hưởng tới chất lượng sức khỏe.
Trong kinh tế thị trường nếu nhà nước không giải quyết được vấn đề việc làm
thì những người thất nghiệp sẽ sống bằng đủ mọi cách như khai thác trái phép các
tài nguyên như vàng, gỗ, than, quặng…, buôn lậu, làm hàng giả, trộm cắp… làm hại
nền kinh tế và môi trường tự nhiên của đất nước.
Do thừa lao động, nước ta không thể tiến hành nhanh hiện đại hóa vì càng
trang bị hiện đại, càng cần ít lao động.
Việc gia tăng số người thất nghiệp khiến nhà nước phải bỏ ra những khoản chi
phí lớn để trợ cấp cho những người thất nghiệp, mở các lớp dạy nghề… làm ngân
sách thu hẹp, không thể mở rộng đầu tư.

Thất nghiệp giáng một đòn rất mạnh vào tâm lý và đời sống của mọi người
đặc biệt là giới trẻ từ đó ảnh hưởng mãnh liệt đến đời sống xã hội.
2. Tác động của thất nghiệp trẻ
Thất nghiệp trẻ cũng là một bộ phận của thất nghiệp nói chung, nên nó bao
gồm các tác động đã nói trên của thất nghiệp. Ngoài ra, nó còn có các tác động tiêu
cực và tích cực sau :


2.1 Tác động tiêu cực
Thất nghiệp trẻ khiến những thanh niên mới lớn, những sinh viên ra trường
không có việc dễ sinh bi quan, chán nản hoặc hận đời, xung đột với gia đình, dần
dần nhiễm thói hư tật xấu, làm cho các tệ nạn xã hội càng thêm trầm trọng.
Tình trạng này nếu kéo dài sẽ làm cho những lao động trẻ trở nên mệt mỏi vì
để có công ăn việc làm. Và khi có cơ hội tìm việc mới thì họ đã không còn sức lực
nữa. Điều này là sự mất mát nghiêm trọng của nền kinh tế, làm mất ổn định xã hội
bởi chính những người trẻ sẽ đưa đẩy sự phát triển kinh tế.
2.2 Tác động tích cực
Nếu thất nghiệp trẻ kéo dài thì nó sẽ giúp cho xã hội có tính cạnh tranh cao
hơn. Những người trẻ phải không ngừng nâng cao trình độ nếu không muốn bị thất
nghiệp. Điều này giúp cải thiện chất lượng lao động nói chung và lao động trẻ nói
riêng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế nước ta cũng như nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân. Sâu xa hơn sẽ đưa nước ta ngày một phát triển với nguồn lao
động dồi dào cả về số lượng cũng như chất lượng.
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THẤT NGHIỆP VÀ THẤT NGHIỆP TRẺ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN GẦN ĐÂY
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ VÀ THỰC TRẠNG THÂT NGHIỆP
VIỆT NAM TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY
Năm 2008, bên cạnh lý do lạm phát, Việt Nam còn bị ảnh hưởng bởi tình
trạng suy giảm tăng trưởng toàn cầu, nhất là kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc rất
nhiều vào đầu tư ngoại quốc và xuất khẩu (đặc biệt là sang Hoa Kỳ và châu Âu).

Danh sách các doanh nghiệp phải giải thể, ngưng hoạt động, thu hẹp sản xuất ngày
càng nhiều. Hậu quả là nạn thất nghiệp ở Việt Nam tăng cao.
Năm 2008 tỉ lệ thất nghiệp chung cho cả nước là 2,38 % trong đó thành thị
chiếm 4,65 % và nông thông là 1,53 %.
Từ đầu năm 2009, cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, kinh tế
thế giới vẫn tiếp tục suy giảm, tác động tiêu cực đến Việt Nam. Mặc dù chính phủ
đã có những giải pháp chống suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an
sinh xã hội; giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng… để thúc đẩy sản xuất phát triển
trở lại, tạo việc làm cho người lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam trong năm này ở mức 2,9%, tăng 0,52% so
với năm 2008. Đáng chú ý, tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn lên tới 2,25% còn khu vực
thành thị là 4,6%.


Kinh tế thế giới năm 2010 mặc dù đang phục hồi sau khủng hoảng tài chính
toàn cầu và có những chuyển biến tích cực, song nhìn chung chưa thực sự ổn định
và còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế nước ta. Ở trong nước,
thiên tai liên tiếp xảy ra, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống dân cư. Tỷ
lệ thất nghiệp năm 2010 của lao động trong độ tuổi là 2,88%, trong đó khu vực
thành thị là 4,29%, khu vực nông thôn là 2,3%. So sánh với năm 2009, thất nghiệp
thành thị giảm 0,31% trong khi thất nghiệp nông thôn lại tăng thêm 0,05%.
Bước vào năm 2011, năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5
năm 2011-2015, nước ta có những thuận lợi cơ bản: Tình hình chính trị ổn định;
kinh tế-xã hội phục hồi trong năm 2010 sau hơn một năm bị tác động mạnh của lạm
phát tăng cao và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, ngay sau đó những khó khăn, thách thức tiềm ẩn trong nội tại nền
kinh tế thế giới với vấn đề nợ công, tăng trưởng kinh tế chậm lại. Giá hàng hóa, giá
dầu mỏ và giá một số nguyên vật liệu chủ yếu tăng cao và có diễn biến phức tạp. Ở
trong nước, lạm phát và mặt bằng lãi suất cao gây áp lực cho sản xuất và đời sống
dân cư. Tỉ lệ thất nghiệp chung cho cả nước là 2,22%, giảm 0,66% so với năm

2010. Tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 3,6%, ở nông thông là 1,6%.
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2012 tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh
tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu chưa được
giải quyết. Suy thoái trong khu vực đồng euro cùng với khủng hoảng tín dụng và
tình trạng thất nghiệp gia tăng tại các nước thuộc khu vực này vẫn đang tiếp diễn.
Hoạt động sản xuất và thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa diễn
biến phức tạp. Tăng trưởng của các nền kinh tế đầu tàu suy giảm kéo theo sự sụt
giảm của các nền kinh tế khác. Một số nước và khối nước lớn có vị trí quan trọng
trong quan hệ thương mại với nước ta như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật bản và EU đối
mặt với nhiều thách thức nên tăng trưởng chậm. Những bất lợi từ sự sụt giảm của
kinh tế thế giới ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân
cư trong nước. Thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao,
sức mua trong dân giảm. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động
hoặc giải thể. Các con số về thất nghiệp ở cả nước, thành thị và nông thôn là 1,99%,
3,25% và 1,42%.
Kinh tế thế giới năm 2013 tuy vẫn còn nhiều khó khăn thách thức nhưng đã có
một số dấu hiệu khả quan. Để đối phó với tình trạng tăng trưởng chậm, một số nền
kinh tế mới nổi thực hiện những biện pháp tích cực để tăng cầu trong nước. Khu
vực đồng tiền chung châu Âu đã có tín hiệu tích cực với số đơn đặt hàng gia tăng


trong những tháng gần đây. Mặc dù vậy, tình hình kinh tế thế giới nhìn chung chưa
có nhiều cải thiện rõ nét. Thất nghiệp vẫn đang là mối quan tâm lớn tại các nền kinh
tế đang phát triển. Sản xuất kinh doanh trong nước mặc dù đã có chuyển biến tích
cực nhưng tốc độ vẫn chậm. Mức tiêu thụ sản phẩm hàng hóa chưa cao, nhất là khu
vực sản xuất trong nước.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi sáu tháng đầu năm 2013 ước tính
là 2,88%, trong đó khu vực thành thị là 3,85%, khu vực nông thôn là 1,57%.


Tỷ lệ thất nghiệp chung ( % )
3.5
3
2.5
2
1.5

Tỷ lệ thất nghiệp
chung ( % )

1
0.5
0
2008

2009

2010

2011

2012 6 tháng
đầu
năm
2013

Biểu đồ thể hiện tỉ lệ thất nghiệp ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay
(Nguồn: Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2010,
Tổng cục Thống kê Việt Nam).
Nhìn chung, từ năm 2008 đến năm 2012, tỉ lệ thất nghiệp chung của cả

nước có xu hướng giảm, nhưng đến năm 2013 lại tăng lên.
II. THANH NIÊN TRONG CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM
Thanh niên là lực lượng lao động lớn của xã hội và là nguồn lực quan trọng
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hằng năm có khoảng 1,2 –
1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Theo kết quả điều tra lao động và việc
làm toàn quốc của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, số lượng và tỷ lệ thanh
niên tham gia hoạt động kinh tế tăng đều từ năm 2008 đến nay. Năm 2008, số thanh
niên hoạt động kinh tế của cả nước là hơn 16 triệu người, chiếm 67,2% tổng số
thanh niên (38,7% lực lượng lao động xã hội); năm 2009, số thanh niên hoạt động
kinh tế tăng thành gần 18 triệu người, chiếm 75,4% tổng số thanh niên (36,6% lực
lượng lao động xã hội); năm 2010 con số đó là 17,1 triệu người, chiếm 75,9% tổng
số thanh niên (33,7% lực lượng lao động xã hội).


Thanh niên tham gia lao động trong các thành phần kinh tế đã có sự thay đổi
đáng kể, phù hợp với một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang
phát triển của đất nước. Hiện nay thanh niên tham gia lao động trong khu vực kinh
tế ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ là 87,7% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
4%,(riêng tại khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng gấp 4 lần so với năm 2000).
Trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ, kỹ năng lao động của thanh niên
tham gia hoạt động kinh tế ngày càng tăng cao. Lực lượng lao động là thanh niên có
trình độ trung cấp chuyên nghiệp tăng từ 4,1% (năm 2008) lên 6,2% (năm 2009) và
6,5% (năm 2010); có trình độ cao đẳng, đại học tăng nhanh từ 5,5% (năm 2008) lên
7,8% (năm 2009) và 8,7% (năm 2010). Mỗi năm có từ 70.000 – 80.000 sinh viên hệ
cao đẳng và 143.000 – 160.000 sinh viên đại học tốt nghiệp, bổ sung cho lực lượng
lao động xã hội.
Những con số thống kê trên đây cho thấy lực lượng lao động là thanh niên
ngày càng có vị trí to lớn trong các hoạt động sản xuất, nghề nghiệp, đóng góp tích
cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
III. TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP TRẺ Ở VIỆT NAM

Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thực trạng việc làm của
thanh niên trong thời gian gần đây diễn biến khá phức tạp. Tình trạng thất nghiệp,
thiếu việc làm trong thanh niên vẫn gia tăng. Theo thống kê của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi lao động thiếu việc làm tăng
từ 3% (năm 2008) lên 5,6% (năm 2009) và 4,1% (năm 2010), trong đó khu vực
thành thị là 2%; khu vực nông thôn là 4,9%.
Tình trạng thất nghiệp cũng có xu hướng tăng mạnh, tập trung chủ yếu ở nhóm
thanh niên đô thị. Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp chiếm 4,2% (năm 2008); 4,1% (năm
2009) và tăng lên 5,2% (năm 2010), trong đó ở khu vực đô thị là 7,8%, cao gần gấp
hai lần nông thôn (4,3%).
Số đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp ở nhóm thanh niên cũng chiếm tỷ lệ
khá cao. Trong số những người hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng thì số người ở
độ tuổi dưới 24 là 12.275 người (chiếm 24,5%); từ 25 – 40 tuổi là 31.366 người
(chiếm 62,7%); trên 40 tuổi là 6.416 người (chiếm 12,8%)(3).
Phân tích các số liệu điều tra thực tế, có thể nhận thấy là sau thời kỳ khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, nhiều thanh niên thất nghiệp, chưa tìm được việc làm đã và
đang tiếp tục tham gia học tập nâng cao trình độ, học các khóa đào tạo nghề với hy
vọng tìm được một công việc tốt hơn. Tuy nhiên, thời gian học văn hóa, học nghề
kéo dài cũng làm tăng thêm số lượng lao động chưa có việc làm. Gần đây, do kinh
tế có dấu hiệu phục hồi, nhiều khu công nghiệp, nhà máy đã trở lại hoạt động bình


thường và một số đơn vị còn mở rộng sản xuất. Một số doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất mới cũng được hình thành nên người lao động đã có nhiều cơ hội hơn để lựa
chọn lao động và việc làm. Yêu cầu về điều kiện làm việc (như môi trường làm
việc, lương, nhà ở và các vấn đề an sinh khác…) của người lao động hiện nay cũng
được cải thiện, khiến họ có thể tìm kiếm, chọn lựa nơi làm việc tốt hơn thay vì phải
chấp nhận mọi điều kiện ngặt nghèo chỉ miễn là có việc làm như trước đây.
Qua đó đã được phản ánh qua thực tế là thời gian gần đây ở một số nơi, thị
trường lao động phát triển khá sôi động, thậm chí nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản

xuất ở vào tình trạng thiếu lao động nghiêm trọng. Tuy nhiên, nhu cầu lao động đã
qua đào tạo, lao động có kỹ thuật ngày càng lớn đã khiến cho nhiều thanh niên
không đáp ứng được các yêu cầu tuyển dụng. Vì vậy, tỷ lệ thanh niên thất nghiệp
vẫn cao. Chẳng hạn, tại Thành phố Hồ Chí Minh có gần 16.000 người được xác
nhận là thất nghiệp; tại Bình Dương con số đó là 10.513 người; Đồng Nai: 3.786
người; Long An: 2.273 người(4).
Kết quả điều tra khảo sát tình hình thanh niên của Viện Nghiên cứu Thanh
niên năm 2009 cho thấy, 69% số thanh niên chịu sự tác động trực tiếp về việc làm,
trong đó 43,4% ít việc làm hơn trước, 16,7% thất nghiệp và 8,7% phải làm những
việc khác so với công việc trước đây.
Với đối tượng thanh niên đang là công nhân do tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu làm đình đốn sản xuất, dịch vụ của hầu hết các doanh nghiệp, trọng
tâm là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có liên quan đến xuất
khẩu, như dệt may, da giày… dẫn đến nhiều thanh niên công nhân thiếu hoặc mất
việc làm ảnh hưởng lớn tới thu nhập, đời sống của bộ phận thanh niên công nhân.
Có 90,3% số thanh niên trong các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương được hỏi đã xác nhận nơi họ làm việc đang
phải chịu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Kết quả khảo sát cũng cho
thấy, chỉ có 29% số người được hỏi duy trì được việc làm như trước, 18,4% thất
nghiệp hoặc bị sa thải; 71,7% bị cắt giảm thời gian lao động, 23,7% không được
nhận lương đúng kỳ hạn…
Tình hình trên đã khiến không ít thanh niên công nhân rời bỏ xí nghiệp tìm
kiếm công việc khác không ổn định ở các thành phố hoặc trở về quê làm ăn sinh
sống. Tựu trung, đa số thanh niên tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đều rất
quan tâm, lo lắng tới vấn đề việc làm, thu nhập và điều kiện sống, sinh hoạt.
Một số khó khăn hiện nay của thanh niên khu vực nông thôn, đặc biệt tại các
khu vực thu hồi đất là: trình độ học vấn thấp nên không có cơ hội để có việc làm
(68,4%), không có đất để sản xuất, kinh doanh (53,1%), thiếu kinh nghiệm sản xuất,



kinh doanh (26,5%), thiếu thông tin về thị trường lao động (23,3%), khó tiếp cận
các nguồn vốn (22,3%).
Kết quả điều tra Lao động Việc làm năm 2011 cho thấy, cả nước có hơn
một triệu người thất nghiệp, trong đó khu vực thành thị chiếm 49,8% và số nữ
chiếm 57,7% tổng số người thất nghiệp. Số người thất nghiệp trẻ tuổi từ 15-29 tuổi
chiếm tới 59,2%, trong khi đó nhóm dân số từ 15-29 tuổi chỉ chiếm 32,8% tổng dân
số từ 15 tuổi trở lên của cả nước.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên trong độ tuổi từ 15-24 ước tính gần 6%, trong
đó khu vực thành thị là 10,8%, tăng 1,27 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước;
khu vực nông thôn là 4,5%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên 9 tháng
năm 2013 ước tính là 1,29%, trong đó khu vực thành thị 2,45%, khu vực nông thôn
0,77%. Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng lên do sản xuất vẫn gặp khó
khăn làm ảnh hưởng đến việc làm của người lao động.

Cả nước

Nhóm
tuổi

Thành thị

Chung Nam Nữ

Chung

Nam

Tổng số

2,22


1,17

2,73

3,60

3,02

4,27

1,60

1,22

2,05

15-19

4,94

4,52

5,46

10,21

10,17

10,27


3,84

3,37

4,45

20-24

5,30

4,17

6,61

8,62

7,71

9,49

4,07

2,99

5,39

25-29

2,68


2,04

3,35 4,13

3,53

4,73

1,96

1,33

30-34

1,43

0,81

2,06 2,54

1,63

3,47

0,89

0,41

1,39


35-39

1,08

0,71

1,47 2,03

1,34

2,75

0,63

0,41

0 ,86

40-44

1,06

0,74

1,39 1,93

1,30

2,63


0,64

0,47

0,83

45-49

1,14

0,86

1,43 1,98

1,67

2,33

0,75

0,46

1,05

50-54

1,67

1,28


2,06 3,23

2,59

3,94

0,92

0,61

1,21

55-59

2,45

2,45

4,40

-

1,62

1,62

-

-


4,40

Nông thôn
Nữ

Tỉ lệ thất nghiệp chia theo nhóm tuổi năm 2011
( Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam - đơn vị:%)

Chung Nam

Nữ

2,65


Số liệu cho thấy tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm tuổi trẻ (15-29) là cao nhất cả nước.
Bảng số liệu cũng cho thấy thất nghiệp ở thành thị và nông thôn đều tập trung vào
nhóm tuổi dưới 30. Như vậy, vấn đề thất nghiệp được đặt ra với lao động trẻ tuổi,
một trong những nhóm lao động dễ bị ảnh hưởng nhất bởi các biến động trên thị
trường lao động.
Mới đây nhất, Thông tin từ ILO Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên
Việt Nam cao gấp 3 lần người trưởng thành. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên sáu
tháng đầu năm 2013 ước tính là 6,07%.

CHƯƠNG 3: NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THẤT NGHIỆP TRẺ
I. NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN
Thứ nhất, khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ tới nền
kinh tế Việt Nam. Cùng với đó nền kinh tế trong nước còn non trẻ, vì thế đã gặp
rất nhiều khó khăn. Nhiều doanh nghiệp không thể vượt qua dẫn tới tình trạng

phá sản, ngưng hoạt động. Các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân
công hoặc tuyển lao động với những tiêu chí khắt khe hơn đã làm cho hàng
triệu người dân Việt Nam thất nghiệp trong đó một bộ phận không nhỏ là sinh
viên
Thứ hai, thị trường lao động của nước ta không phát triển; doanh nghiệp
tư nhân hầu hết là doanh nghiệp nhỏ, chưa thu hút được nhiều lao động, còn
doanh nghiệp nhà nước thì biên chế “chật chội”, tuyển dụng lao động chưa thật
sự công bằng, khách quan. Mặt khác, bản thân người lao động đặc biệt là lao
động trẻ chưa được đào tạo đầy đủ, đúng hướng, dẫn đến gặp rất nhiều khó
khăn trong quá trình tìm việc làm.
II. MẤT CÂN ĐỐI GIỮA ĐÀO TẠO VÀ NHU CẦU THỰC TẾ
Nếu xét về nguyên nhân dẫn đến số sinh viên thất nghiệp nhiều như hiện
nay thì người ta nghĩ ngay đến chất lượng đào tạo sinh viên ở các cơ sở giáo
dục. Khoảng vài năm trở lại đây có hàng trăm trường đại học,cao đẳng ,trung
cấp từ chính quy cho đến tư thục đua nhau mọc lên bất kể là điều kiện như thế
nào. Đa số các trường đại học, cao đẳng chỉ đào tạo theo thế mạnh của trường,
trong khi đó phần lớn các đơn vị sử dụng lao động không có kế hoạch nhân lực
dài hạn, chưa có thói quen hợp tác với các trường để đặt hàng đào tạo theo nhu
cầu sử dụng lao động của mình. Người học có xu hướng theo học các ngành mà


sau khi ra trường có thu nhập cao, dễ tìm được việc làm (Kế toán, Tài chính
Ngân hàng...), dẫn tới việc số lượng sinh viên theo học các ngành này tăng
nhanh, vượt quá nhu cầu thực tế của xã hội, gây nên tình trạng mất cân đối
ngành, nghề đào tạo.
III. TỪ PHÍA SINH VIÊN
Nếp nghĩ có từ lâu trong thanh niên là thói quen đề cao việc học để “làm
thầy’’ mặc dù nếu bản thân học để “làm thợ’’ sẽ tốt hơn, hay “ thích làm nhà
nước, không thích làm cho tư nhân”. Như vậy là thiếu thực tế bởi không dựa
trên khả năng của bản thân và nhu cầu xã hội. Một bộ phận lao động trẻ lại có

biểu hiện ngộ nhận khả năng của bản thân, một bộ phận khác lại tự ty không
đánh giá hết năng lực thực sự của mình. Chọn nghề theo “nếp nghĩ” sẽ dẫn đến
mắc những sai lầm. Và hậu quả là thất nghiệp.
Một nguyên nhân nữa cũng quan trọng không kém từ phía sinh viên là
sinh viên ra trường thiếu kinh nghiệm làm viêc, kinh nghiệm sống và những kĩ
năng nghề nghiệp, kĩ năng mềm như : kĩ năng mềm, tiếng anh, tin học, thụ động
trong công việc vv… Tất cả những sự thiếu sót đó làm mất đi những cơ hội cho
chính bản thân những người đi xin việc hay đang làm việc mà mất việc.
Không phủ nhận các nguyên nhân khách quan từ xã hội, nhưng nguyên
nhân chủ quan từ phía bản thân thanh niên cũng có ảnh hưởng hết sức quan
trọng đến việc thất nghiệp của bộ phận này.
CHƯƠNG 4 : GIẢI PHÁP
Bản thân em hiện đang là sinh viên năm thứ hai Học viện Ngân Hàng,
luôn quan tâm tới vấn đề việc làm sau khi ra trường. Tuy nhiên với tình hình
kinh tế khó khăn hiện nay, việc tìm một công việc là không hề đơn giản mặc dù
bản thân đang được học trong một ngôi trường kinh tế thuộc top đầu của cả
nước.
Kết quả học tập là điều không thể phủ nhận cho sự cố gắng, nỗ lực của
bản thân mỗi sinh viên. Một tấm bằng đẹp khi đi xin việc là một động lực giúp
chúng ta tự tin hơn trước các nhà tuyển dụng. Tuy nhiên có một câu hỏi đặt ra là
tại sao có người bằng giỏi vẫn không lọt qua được lưới của các nhà tuyển
dụng? Tốt nghiệp loại giỏi, ra trường và. thất nghiệp là một thực trạng đang phổ


biến hiện nay của sinh viên Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các bạn sinh viên sau
khi thực hiện vài cuộc phỏng vấn với các nhà tuyển dụng đều nhận ra một sự
thực phũ phàng: hiện thực và nhu cầu xã hội khác xa với tưởng tượng cũng như
mong muốn của các bạn. Cùng một tấm bằng tốt nghiệp như nhau nhưng tại sao
có người đậu kẻ rớt? Chắc chắn không phải nằm ở yếu tố hên xui mà còn là vì
rất nhiều lý do khác. Một công ty hay một doanh nghiệp, không chỉ đòi hỏi

người làm việc cho mình có kiến thức chuyên môn vững vàng mà họ còn đặc
biệt quan tâm đến việc người đó có những kĩ năng như thế nào, có đáp ứng
được cho công việc hay không.
Ở bậc đại học, phần lớn sinh viên nỗ lực học vì điểm, chứ không phải vì
kỹ năng. Một sinh viên được đánh giá “giỏi” khi điểm tổng kết từ 8,0 trở lên.
Nhưng khi đi làm, nhà tuyển dụng không chỉ trả tiền để tìm kiếm bảng điểm
đẹp, họ còn trả tiền cho các kỹ năng mang lại lợi ích thực hay gia tăng giá trị
cho công ty. Thực trạng cho thấy sinh viên hiện nay có kiến thức chuyên môn
nhưng lại không có những kỹ năng khác như kỹ năng làm việc nhóm, trình độ
ngoại ngữ, tin học, vv… không hề có, và đó mới là điều mà các nhà tuyển dụng
cần.
Vì thế, với góc nhìn của một sinh viên, giải pháp cho tình trạng thất
nghiệp trẻ hiện nay mà phần lớn là sinh viên là rèn luyện, phát triển kỹ năng
mềm cho bản thân.
Kỹ năng mềm là một yếu tố chiến lược để bạn được cái gật đầu tiếp nhận
của nhà tuyển dụng, cũng như duy trì và thăng tiến trong bất cứ ngành nghề
nào.
Kỹ năng mềm (soft skills) là thuật ngữ dùng để chỉ các kỷ năng quan trọng
trong cuộc sống con người như: kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, làm việc theo
nhóm, kỹ năng quản lý thời gian,sáng tạo và đổi mới….là những kỹ năng không
gắn liền với kiến thức chuyên môn, không thể sờ nắm, không phải là kỹ năng cá
tính đặc biệt mà phụ thuộc chủ yếu vào cá tính của từng người. Chúng quyết
định bạn là ai, làm việc thế nào. Là thước đo hiệu quả cao trong công việc.


Những người sử dụng lao động coi trọng các kỹ năng “mềm”, bởi vì các
nghiên cứu cho thấy chúng là một nhân tố đánh giá rất hiệu quả bên cạnh những
kỹ năng công việc truyền thống hay còn gọi là kỹ năng “cứng”.
Về đào tạo: Trong khi việc đào tạo kỹ năng mềm tại các trường Đại học
trên thế giới rất được chú trọng, thì quá trình giảng dạy môn học này ở nước ta

vẫn chưa thực sự được tiến hành. Có chăng cũng chỉ là trong một buổi ngoại
khóa, hoặc nhà trường mời diễn giả tới phổ biến sơ lược kiến thức cho sinh
viên.Vì thế việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên cần được tiến hành song
song với kiến thức chuyên ngành, xuyên suốt quá trình học để sinh viên ra
trường có kỹ năng chuyên môn tốt cũng như kỹ năng mềm thành thạo.
Về phía sinh viên: bản thân sinh viên cũng cần cố gắng tự trang bị cho
mình những kiến thức, kỹ năng cần thiết qua quá trình học tập cũng như trong
cuộc sống hàng ngày.
Hiện tại hầu hết các trường đại học đang đào tạo theo học chế tín chỉ,
trong quá trình giảng dạy giảng viên chủ yếu là định hướng và khái quát vấn đề,
muốn nghiên cứu chi tiết sinh viên phải dành thời gian để tự nghiên cứu và đọc
sách ngoài giờ. Nếu thực hiện nghiêm túc yêu cầu này, sinh viên có thể đạt
được kỹ năng đầu tiên.
Hàng ngày bạn đi học, bạn sẽ nghe thầy cô giảng bài. Nhưng bạn nghe
được gì? Mức độ hiểu như thế nào? Thì để kiểm định điều này, bạn nên phản
hồi với các giảng viên thông qua các câu hỏi, để xem thử vấn đề mình tiếp thu
có chính xác không. Trong tình huống bạn nghe quá nhiều thông tin cùng một
lúc thì nên lắng nghe có chọn lọc, hay nói cách khác là nên chú ý vào những từ
khóa thì việc kết nối nội dung sẽ tốt hơn. Điều này sẽ giúp các bạn sinh viên rèn
luyện kỹ năng lắng nghe.
Hoặc với các kỹ năng như kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm..sinh viên
có thể rèn luyện thông qua các bài thảo luận nhóm tại lớp, các chủ đề nhóm mà
giảng viên yêu cầu, cần biết cách tôn trọng ý kiến người khác thì mới làm việc
nhóm được. Còn muốn rèn luyện kỹ năng thuyết trình, cần chủ động xung
phong để được thuyết trình thay vì ỷ y vào các thành viên còn lại trong nhóm


Hoặc với các kỹ năng như kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy sáng
tạo, kỹ năng đàm phán…sinh viên có thể sẽ được rèn luyện qua các tình huống
trong các môn học như Quản trị chiến lược, Nghệ thuật thương lượng đàm

phán. Quan hệ công chúng, Quảng cáo và chiêu thị….
Hầu như tất cả các kỹ năng này đều được lồng vào các môn học để sinh
viên có thể rèn luyện, vấn đề là các bạn sinh viên có ý thức về tầm quan trọng
của kỹ năng mềm và có chủ động trong việc nắm bắt, học hỏi và rèn luyện hay
không.
Nếu khi ra trường, sinh viên có được kết quả tốt về kiến thức chuyên môn
lẫn thành thạo các kĩ năng mềm thì chắc chắn họ sẽ là đối tượng đang được các
nhà tuyển dụng chờ đón. Và khi đó, chắc chắn gánh nặng thất nghiệp của nền
kinh tế sẽ được giảm nhẹ và họ sẽ là những người góp phần đưa đất nước phát
triển lên một tầm cao mới ./.



×