Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đo lường tình trạng sức khoẻ thông qua tỉ lệ tử vong tới chất lượng của cuộc sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.15 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
--------------------

BÀI TẬP NHÓM
Môn: TÂM LÝ HỌC SỨC KHOẺ
Nhóm 5:


Chương 16: Đo lường tình trạng sức khoẻ thông
qua tỉ lệ tử vong tới chất lượng của cuộc sống
Sơ lược chương: Chương này quan tâm tới những phương thức khác nhau của
việc đo lường tỉ lệ tử vong tới chất lượng sống. Bên cạnh đó, chúng cũng mô tả các cách
khác nhau của việc nghiên cứu những tác nhân chính dự đoán chất lượng của cuộc sống
(như là một kết quả bất định) và sự lien hệ giữa chất lượng cuộc sống và sự trường thọ
Chương 16 bao gồm:
- Tỉ lệ tử vong
- Tỉ lệ mắc bệnh
- Biện pháp chức năng
- Tình trạng sức khoẻ chủ quan
- Đo lường chất lượng cuộc sống
- Dự đoán chất lượng cuộc sống
- Chất lượng sự sống và trường thọ
-------------------------------------------------------

TỶ LỆ TỬ VONG
Ở mức cơ bản nhất, một thước đo về tình trạng sức khoẻ có dạng tỷ suất chết thô,
được tính bằng cách đơn giản là đếm số người chết trong một năm so với những năm
trước đó hoặc những năm tiếp theo. Câu hỏi được đặt ra là: "Số người chết năm nay đã
tăng lên, đi xuống hay không thay đổi?" Sự gia tăng tỷ lệ tử vong có thể được xem như
tình trạng sức khoẻ giảm, và sự giảm tỷ lệ tử vong được coi như tình trạng sức khoẻ gia


tăng . Tuy nhiên, cách tiếp cận này đòi hỏi một mẫu số, một thước đo của những người có
nguy cơ. Hình thức tỷ lệ tử vong cơ bản nhất tiếp theo gồm có mẫu số phản ánh quy mô


dân số được nghiên cứu. Cách đo như vậy cho phép so sánh được thực hiện giữa các quần
thể khác nhau: nhiều người có thể chết trong một năm nhất định ở London khi so sánh
với Bournemouth, nhưng London lớn hơn một chút. Để có thể đo lường được tình trạng
sức khoẻ một cách có ý nghĩa, tỷ lệ tử vong được điều chỉnh theo độ tuổi (Bournemouth
có dân số lớn hơn và do đó chúng tôi dự đoán rằng có nhiều người sẽ chết mỗi năm) và
giới tính (nam giới thường chết trẻ hơn phụ nữ và điều này cần được đưa vào bản kê
khai). Hơn nữa, tỷ lệ tử vong có thể được tính theo độ tuổi cụ thể như tỷ suất chết trẻ sơ
sinh hoặc bệnh tật, cụ thể như tỷ lệ tử vong đột ngột. Miễn là dân số đang được nghiên
cứu chắc chắn được xác định chính xác, hiệu chỉnh và cụ thể, thì tỷ lệ tử vong được đo
lường dễ dàng và đơn giản: cái chết là một kết quả tốt đáng tin cậy.

TỶ LỆ THƯƠNG TẬT
Các nhà nghiên cứu thí nghiệm và lâm sàng và các nhà dịch tễ học có thể chấp nhận
tỷ lệ tử vong là thước đo hoàn hảo về tình trạng sức khoẻ. Tuy nhiên, sự kề nhau của các
nhà khoa học xã hội với thế giới y khoa đã thách thức vị trí này để đưa ra câu hỏi dường
như rõ ràng, "Liệu sức khoẻ thực sự chỉ là không có cái chết?" Đáp lại điều này, các
nghiên cứu tập trung ngày càng nhiều hơn vào bệnh tật. Tuy nhiên, phù hợp với sự nhấn
mạnh vào tính đơn giản vốn có trong việc tập trung vào tỷ lệ tử vong, nhiều cách đo bệnh
tật vẫn sử dụng phương pháp đếm và ghi chép. Ví dụ, việc đưa ra tỷ lệ bệnh tật cao và tốn
thời gian có liên quan đến các cuộc điều tra lớn về 'tình trạng' để đếm có bao nhiêu người
trong số dân số nhất định chịu thiệt hại từ một vấn đề cụ thể. Tương tự như vậy, tỷ lệ
không có bệnh tật chỉ đơn giản đếm số ngày bị mất do bệnh tật và đánh giá số lượng công
việc bằng đếm số người đến khám bác sĩ đa khoa hoặc tại bệnh viện trong một khoảng
thời gian nhất định. Tỷ lệ bệnh tật như vậy cung cấp chi tiết ở mức độ của dân số chung.
Tuy nhiên, thương tật cũng được đo cho mỗi cá nhân đang dùng các biện pháp chức
năng.



BIỆN PHÁP CHỨC NĂNG
Biện pháp chức năng đặt câu hỏi “Điều nào đánh giá những công việc sau đây bạn có
thể làm?” Và thường được gọi là hoạt động của thang đo sinh hoạt hàng ngày (activity of
daily living scales - ADLs). Ví dụ, Katzetal (1970) đã thiết kế mục lục hoạt động của
cuộc sống hàng ngày để đánh giá mức độ hoạt động ở người cao tuổi. Điều này đã được
phát triển cho nhà trị liệu và người chăm sóc để hoàn thành và yêu cầu người đánh giá để
đánh giá cá nhân trên một loạt các phương tiện bao gồm tắm, mặc quần áo, sự tự ti và
dinh dưỡng. ADLs cũng đã được phát triển cho các cá nhân để hoàn thành và bao gồm
các câu hỏi như “Bạn có hay bạn sẽ gặp khó khăn gì không: rửa chân/cắt móng chân/chạy
để bắt xe buýt/đi lên, xuống cầu thang?”. Các biện pháp chức năng có thể tự quản lý hoặc
như một phần của đánh giá phức tạp hơn bao gồm các biện pháp về tình trạng sức khoẻ
chủ quan.

TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE CHỦ QUAN
Trong một số năm trở lại đây, ngày càng có nhiều biện pháp chăm sóc sức khỏe được
lựa chọn nhằm đánh giá tình trạng sức khỏe theo góc độ chủ quan. Tất cả những biện
pháp ấy đều có điểm chung đó là: yêu cầu các cá nhân tự đánh giá sức khỏe của mình.
Một trong số đó được gọi là đơn giản là biện pháp chăm sóc sức khỏe chủ quan, gọi cách
khác là thang đo chất lượng cuộc sống hoặc thang đo chất lượng cuộc sống thông qua sức
khỏe.
Tuy nhiên, các tác phẩm được viết trong lĩnh vực tình trạng sức khỏe chủ quan và
chất lượng cuộc sống lại gặp cản trở bởi hai câu hỏi: “Chất lượng cuộc sống là gì?” và
“Làm thế nào để đo được nó?”

CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG LÀ GÌ?
Theo như báo cáo của Medline về việc tìm kiếm thuật ngữ “chất lượng cuộc sống”
cho thấy việc sử dụng có xu hướng gia tăng, từ 40 trích dẫn (1966-174) đến 1907 trích



dẫn (1981-85) và lên đến 5078 trích dẫn (1986-90) (Albrecht 1994). Có thể thấy rõ ràng
chất lượng cuộc sống ngày càng phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có được
sự thống nhất về mặt khái niệm. Ví dụ, nó được định nghĩa la các giá trị đi kèm với thời
gian sống được thay đổi bởi khiếm khuyết, các trạng thái chức năng, nhận thức và các cơ
hội xã hội ảnh hưởng bởi bệnh tật, chấn thương, điều trị bệnh tật hoặc chính sách (Patrick
and Ericson 1993), là “tuyên bố mang tính cá nhân về các đặc tính tích cực và tiêu cực
khi mô ta cuộc sống của một người” (Grant et al. 1990) và Tổ chức Y tế Thế giới thì đó là
một khái niệm phức tạp bao hàm cả sức khỏe thể chất, trạng thái tâm lí, mức độ độc lập,
các quan hệ xã hội, mối quan hệ và các đặc điểm nổi bật trong môi trường của họ
(WHOQoL Group 1993). Có một số nhà khoa học cho rằng các khái niệm về chất lượng
cuộc sống có thể hoán đổi cho nhau còn mốt số người lại cho rằng chúng tách rời nhau
(Bradley 2001).
Các vấn đề như vậy với định nghĩa đã tạo nên một loạt các phương pháp hoạt động
liên quan đến chất lượng cuộc sống. Ví dụ, sau cuộc thảo luận về một định nghĩa có thể
chấp nhận được về chất lượng cuộc sống, một Tổ chức nghiên cứu Châu Âu về điều trị
ung thư đã vận hành chất lượng cuộc sống để xem xét về tình trạng chức năng, ung thư,
điều trị các triệu chứng cụ thể, tâm lí phiền muộn, các tương tác xã hội, tác động tài
chính/kinh tế, nhận thức tổng thể về tình trạng sức khỏe và chất lượng cuộc sống
(Aaronson et al. 1993). Để phù hợp với điều này, biện pháp của họ bao gồm các danh
mục phản ánh các chiều kích khác nhau. Tương tự như vậy, các nhà khoa học đã nghiên
cứu sự vận hành của các năng lượng sức khỏe ở tập đoàn Rand Corporation về chất lượng
cuộc sống thông qua chức năng thể chất, chức năng xã hội, hạn chế vai trò đến các hạn
chế về thể chất, hạn chế vai trò đến các vấn đề về tình cảm, sức khỏe tinh thần, năng
lượng/sức sống, đau và nhận thức về sức khỏe nói chung. Từ đó hình thành nên các phác
đồ cơ bản trong quy mô của họ (e.g. Stewart and Ware 1992). Hơn thế, Fallowfield
(1990) xác định bốn phương diện chủ yếu của chất lượng sống là tâm lý (tâm trạng, nỗi
đau tinh thần, khả năng thích ứng với bệnh tật), xã hội (các mối quan hệ, các hoạt động
giải trí và xã hội), nghề nghiệp (công việc có lương hoặc không lương), và thể chất (vận
động, nỗi đau, giấc ngủ và khẩu vị).



Tạo ra một khung khái niệm
Trước vấn đề định nghĩa chất lượng sống, gần đây các nhà nghiên cứu đã thử tạo ra
một khung khái niệm rõ ràng hơn. Cụ thể, họ đã chia các tiêu chuẩn của chất lượng sống
dựa trên người đề ra tiêu chuẩn hoặc trên sự chủ quan hoặc khách quan của tiêu chuẩn.

Ai là người đề ra tiêu chuẩn?
Browne và cộng sự (1997) đã phân biệt tiếp cận nhu cầu cơ bản với quan điểm quá
trình tâm lý. Cái đầu được mô tả là dựa trên giả định rằng “có tồn tại – hoặc ít nhất là có
thể tìm ra – một sự đồng thuận về điều làm nên chất lượng cao hay thấp của cuộc sống”
(Browne và cộng sự 1997: 738). Ngoài ra, tiếp cận nhu cầu cơ bản giả định rằng nhu cầu
chứ không phải ham muốn mới là hạt nhân của chất lượng sống, và những nhu cầu này là
phổ biến ở tất cả mọi người, kể cả các nhà nghiên cứu. Ngược lại, tiếp cận quá trình tâm
lý cho rằng chất lượng cuộc sống “được tạo nên từ sự đánh giá riêng biệt của mỗi cá nhân
về những khía cạnh chính trong cuộc sống” (Browne và cộng sự 1997: 737). Do vậy,
Browne và cộng sự (1997) khái niệm hoá các tiêu chuẩn về chất lượng sống thành điều
được tạo nên bởi các nhà nghiên cứu và bởi tự mỗi cá nhân.

Tiêu chuẩn khách quan hay là chủ quan?
Muldoon và cộng sự (1998) cung cấp một khung khái niệm khác cho chất lượng sống
dựa trên mức độ khách quan mà các bình diện đang đánh giá được công nhận. Họ lập
luận rằng tiêu chuẩn chất lượng sống nên được chia thành nhóm đánh giá chức năng
khách quan và nhóm đánh giá tình trạng chủ quan. Nhóm đầu phản ánh những tiêu chuẩn
về khả năng vận hành của cá nhân, mà theo họ là phải được đối chiếu với những quan sát
trực tiếp về khả năng thực hiện hành vi, còn nhóm sau mô tả sự tự đánh giá của cá nhân
về tình trạng của họ.
Do vậy, người ta đã cố gắng làm rõ những vấn đề xoay quanh tiêu chuẩn về chất
lượng sống. Tuy nhiên, cho tới khi có được một sự đồng thuận trong giới nghiên cứu và



lâm sàng thì việc chất lượng sống là gì và liệu nó có khác với tình trạng sức khoẻ chủ
quan hay chất lượng sống về mặt sức khoẻ hay không vẫn còn là câu hỏi mở. Trên thực
tế, Annas (1990) đã cho rằng chúng ta cần ngưng sử dụng song song những khái niệm
này. Tuy nhiên, “chất lượng sống”, “tình trạng sức khoẻ chủ quan” và “chất lượng sống
về mặt sức khoẻ” vẫn được sử dụng và việc đo đạc các tiêu chuẩn của chúng vẫn được
tiến hành. Từ giờ những tiêu chuẩn đã phát triển sẽ được xem là (1) tiêu chuẩn đơn
phương diện hoặc (2) tiêu chuẩn đa phương diện.

Nó được đo như thế nào?
Các phương pháp một chiều
Có nhiều phương pháp chỉ tập trung vào một khía cạnh riêng biệt của sức khỏe. Ví
dụ, Goldberg (1978) đã phát triển bảng câu hỏi chung về sức khỏe (GHQ), được dùng
đánh giá tâm trạng sức khỏe con người bằng những câu hỏi như là: “Gần đây bạn: Có thể
tập trung vào bất kỳ việc gì bạn đang làm/ Dành nhiều thời để nói chuyện với mọi người/
Cảm thấy hạnh phúc hay buồn bã?”. Bảng câu hỏi GHQ có cấu trúc dài, bao gồm 30, 28
hoặc 20 mục khác nhau, và cấu trúc ngắn khoảng 12 mục. Trong khi bảng câu hỏi dạng
ngắn chủ yếu được sử dụng để tìm hiểu trạng thái cảm xúc nói chung và cung cấp kết quả
tương đối cho từng cá nhân. ( tức là cá nhân tốt hơn hoặc tệ hơn thường lệ? ), bảng câu
hỏi dạng dài thường được dùng để phát hiện “caseness” ( tức là cá nhân có suy sụp hay
không?).Các biện pháp một chiều khác bao gồm: bệnh viện lo âu và trầm cảm qui
mô( HAD) (Zigmond and Snaith 1983) và thang đánh giá trầm cảm Beck (BDI) (Beck et
al. 1961), cả hai thang đánh giá này đều tập trung vào cảm xúc; bảng đánh giá sự đau
McGill, đánh giá các mức độ đau (Melzack 1975); các phương pháp đo lường sự tự tin,
như là thang đo lòng tự trọng (Rosenberg 1965) và sự kiểm soát lòng tự trọng
(Coopersmith 1967); các biện pháp hỗ trợ xã hội (e.g. Sarason et al. 1983, 1987); các
biện pháp hài lòng với cuộc sống (e.g. Diner et al. 1985); và các thang đo của triệu
chứng (e.g. deHaes et al. 1990). Do đó, các biện pháp đơn giản này đánh giá sức khoẻ



theo một khía cạnh cụ thể của y tế và có thể dùng riêng lẻ hoặc kết hợp với các biện pháp
khác.
Các phương pháp đa chiều
Các phương pháp đa chiều đánh giá sức khỏe theo hướng rộng nhất. Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là các phương pháp này luôn dài và phức tạp. Ví dụ như, nhà nghiên
cứu thường dùng các mục đơn lẻ như, “ bạn nói sức khỏe của bạn : tuyệt vời/ tốt/ khá tốt/
kém ?” hoặc “đánh giá tình trạng sức khỏe hiện tại của bạn” trên các mức độ khác nhau
từ “kém” đến “ hoàn hảo”. Xa hơn, một số nhà nghiên cứu chỉ yêu cầu người trả lời để
đưa ra một đánh giá tương đối về sức khỏe của họ trên các mức độ từ “ Tốt nhất có thể”
đến “ tệ nhất có thể”. Mặc dù các phương pháp đơn giản này không cung cấp nhiều khía
cạnh như các phương pháp dài hơi hơn, chúng được thể hiện sự tương quan cao với các
biện pháp phức tạp khác và hữu ích nhiw một thang đo kết quả (Idler and Kasl 1995). Về
cơ bản, các nhà nghiên cứu có xu hướng sử dụng các thang đo tích hợp. Do nhiều các xác
định chất lượng cuộc sống, nhiều phương pháp khác đã được phát triển. Một số tập trung
vào các nhóm cụ thể, như là người già (Lawton 1972, 1975; McKee et al. 2002), trẻ em
(Maylath 1990), hoặc những người đang ở những năm cuối cùng của cuộc đời (Lawton
et al. 1990). Một số khác tập trung vào các bệnh cụ thể, như là bệnh tiểu đường (Brook
et al. 1981; Bradley 1996; Bradley et al. 1999), viêm khớp (Meenan et al. 1980), bệnh tim
(Rector et al. 1993) và bệnh thận (Bradley 1997). Thêm vào đó, các biện pháp chung về
chất lượng cuộc sống cũng đã và đang được phát triển, các biện pháp mà có thể áp dụng
chung cho tất cả mọi người. Chúng bao gồm: Hồ sơ y tế Nottingham(NHP), (Hunt et al.
1986), cấu trúc ngắn 36 (SF36) (Ware and Sherbourne 1992), và hồ sơ tác động bệnh tật
(SIP) (Bergner et al. 1981). Tất cả các biện pháp này đều bị phê bình vì quá rộng và do
đó kết quả đánh giá về chất lượng cuộc sống đều bao quát, mơ hồ và không tập trung.
Tất cả các biện pháp này đều bị chỉ trích vì quá rộng, dẫn đến việc khái niệm chất
lượng cuộc sống bao gồm tất cả mọi thứ, mơ hồ và không tập trung. Ngược lại, chúng
cũng bị chỉ trích vì quá tập trung và có thể bỏ lỡ các khía cạnh quan trọng khác mà các cá


nhân quan tâm về chất lượng cuộc sống. Cụ thể, khi yêu cầu các cá nhân trả lời bộ câu

hỏi đã được xác định trước và đánh giá những phát biểu mà các nhà nghiên cứu đã xây
dựng thì mối quan tâm riêng của những người trả lời có thể bị bỏ qua. Điều này đã dẫn
đến sự phát triển của các biện pháp đo lường chất lượng cuộc sống cá nhân.
Các biện pháp đo lường chất lượng cuộc sống cá nhân
Các biện pháp đo lường tình trạng sức khoẻ chủ quan yêu cầu cá nhân đánh giá sức
khoẻ của họ. Điều này hoàn toàn trái ngược với các đánh giá của người chăm sóc, các
nhà nghiên cứu hoặc một người quan sát về khả năng tử vong, bệnh tật và hoạt động của
các cơ quan bên trong cơ thể. Tuy các biện pháp trên cho phép các cá nhân đánh giá tình
trạng sức khoẻ của mình, nhưng chúng lại không đưa ra một tiêu chuẩn để họ đánh giá
mức độ đó. Ví dụ, có một biện pháp đó là hỏi các cá nhân về công việc được giả định là
quan trọng với họ nhưng có thể họ lại không muốn làm. Thêm một biện pháp khác nữa là
hỏi về cuộc sống gia đình, mà đối tượng hướng đến là những người không thường xuyên
gặp gia đình thì sẽ thấy vui. Làm sao mà một nhóm cá nhân (chính là các nhà nghiên cứu)
lại biết được điều gì là quan trọng đối với chất lượng cuộc sống của một nhóm cá nhân
khác? Để phù hợp với quan điểm này, các nhà nghiên cứu đã phát triển các biện pháp
đanh giá chất lượng cuộc sống cá nhân, trong đó các đối tượng sẽ đánh giá tình trạng sức
khoẻ của mình theo một tiêu chuẩn mà các nhà nghiên cứu đã định sẵn. Một biện pháp
như vậy, là lịch trình đánh giá chất lượng cá nhân của cuộc sống (SEIQoL) (McGee et al
1991. O'Boyle et al 1992) yêu cầu các chủ thể lựa chọn 5 lĩnh vực trong cuộc sống quan
trọng đối với họ, rồi đánh giá mức độ hài long hiện tại của họ theo các tiêu chuẩn đã định
sẵn (xem Tiêu điểm nghiên cứu 16.1 dưới đây).

TẬP TRUNG VÀO NGHIÊN CỨU 16.1: ĐƯA LÝ
THUYẾT VÀO THỰC HÀNH - ĐÁNH GIÁ PHẪU
THUẬT ĐIỀU CHỈNH HÔNG


Chất lượng cuộc sống cá nhân ở bệnh nhân điều chỉnh hông (O'Boyle et al.1992):
Đây là một tài liệu thú vị vì nó minh họa cách thức một công cụ đo lường, được phát
triển theo khuôn khổ tâm lý học, có thể được sử dụng để đánh giá tác động của can thiệp

phẫu thuật. Thêm vào đó, nó so sánh việc sử dụng cách đánh giá phức hợp với cách đánh
giá chất lượng cuộc sống cá nhân.
Bối cảnh:
Đã có rất nhiều các biện pháp đo lường chất lượng cuộc sống, hầu hết trong số đó
đều yêu cầu bệnh nhân đánh giá một bộ quan điểm được đưa ra bởi các nhà nghiên cứu
để nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, liệu cách tiếp cận này đã thực sự đánh
trúng những gì bệnh nhân nghĩ chưa là không rõ ràng. Vì vậy, O'Boyle et al. (1992) đã
đưa ra cách đo lường chất lượng cuộc sống của họ và điều này yêu cầu bệnh nhân tự
quyết định điều gì là quan trọng đối với họ. Nó được gọi là lịch trình đánh giá chất lượng
cá nhân của cuộc sống (SEIQoL). Ngoài ra, các tác giả muốn so sánh kết quả khi sử dụng
SEIQoL với khi sử dụng các công cụ đánh giá truyền thống hơn: "Chúng tôi muốn biết
liệu SEIQoL có thể trả lời câu hỏi" Bệnh nhân nghĩ gì? "

Phương pháp luận
Đối tượng: các bệnh nhân viêm khớp hông đến bệnh viện ở Dublin được yêu cầu tham
gia. Chúng được kết hợp để kiểm soát đối tượng từ địa phương về tuổi, giới tính và trình
độ học vấn. Nghiên cứu gồm 20 đối tượng bao gồm người đã trải qua phẫu thuật thay thế
hông và 20 kiểm soát.
Thiết kế: nghiên cứu sử dụng một thiết kế đo lặp lại với các biện pháp đã hoàn thành
trước và sau (sau 6 tháng theo dõi) phẫu thuật thay thế toàn bộ hông.
Các biện pháp: các đối tượng đã hoàn thành các biện pháp sau đây ở giai đoạn đầu và
theo dõi:
■ Chất lượng cuộc sống cá nhân: điều này liên quan đến các giai đoạn sau. Thứ nhất, các


đối tượng được yêu cầu liệt kê các khu vực sống mà họ coi là quan trọng nhất đối với
chất lượng cuộc sống của họ. Thứ hai, các đối tượng sau đó được yêu cầu đánh giá từng
khu vực về tình trạng của họ trong thời điểm hiện tại, từ 'tốt nhất có thể là’ đến 'xấu nhất
có thể là'. Cuối cùng, để cân nặng từng khu vực của cuộc sống, các đối tượng được trình
bày với 30 tiểu sử giả ngẫu nhiên được dán nhãn với các khu vực đã chọn và được yêu

cầu đánh giá chất lượng cuộc sống của mỗi người. Ba xếp hạng này sau đó được sử dụng
để tính tổng số điểm chất lượng cuộc sống (tức là thêm mỗi xếp hạng hiện tại và nhân với
trọng số cho mỗi khu vực).
■ Tình trạng sức khoẻ toàn cầu: các đối tượng đã hoàn thành bảng câu hỏi điều tra
McMaster về chỉ số sức khoẻ, đánh giá chức năng thể chất, xã hội và tình cảm (Chambers
et al 1982).
■ Tình trạng sức khỏe đặc trưng của bệnh tật: Đối tượng đã hoàn thành quy mô tác động
của viêm khớp để đánh giá 9 khía cạnh của chức năng: Vận động, hoạt động thể chất, sự
khéo léo, các hoạt động gia đình, hoạt động xã hội, các hoạt động sinh hoạt hàng ngày,
đau đớn, lo lắng và trầm cảm (Meenan et al., 980)
Các kết quả: được phân tích dựa trên các lĩnh vực cuộc sống được lựa chọn như là một
phần của thang điểm chất lượng cuộc sống và đánh giá tác động của hoạt động thay thế
hông bằng những sự thay đổi trong tất cả các biện pháp từ ban đầu đến quá trình theo dõi
và sự khác biệt trong những thay đổi này giữa các bệnh nhân và các kiểm soát.
■ Các khu vực được lựa chọn: Các hoạt động xã hội/ giải trí và gia đình được cả hai
nhóm lựa chon. Hạnh phúc, chức năng trí tuệ và điều kiện sống ít nhận được sự lựa chọn.
Sức khoẻ được lựa chọn nhiều hơn bởi người kiểm soát so với những bệnh nhân đánh giá
độc lập và tài chính thì thường xuyên hơn.
■ Tác động của phẫu thuật thay thế hông: Kết quả cho thấy rằng tất cả các biện pháp đã
cải thiện chất lượng cuộc sống sau khi phẫu thuật thay thế không.

PHẦN KẾT LUẬN


Các tác giả kết luận rằng những biện pháp đo lường chất lượng cuộc sống cá nhân
của họ có thể được sử dụng để tìm ra quan điểm của bệnh nhân, đồng thời có thể dùng để
phát hiện sự thay đổi chất lượng cuộc sống theo thời gian. Thêm vào đó, họ cho rằng "lợi
thế lớn nhất của biện pháp ưu tiên tiêu chí đánh giá của bệnh nhân, tiêu biểu là SEIQoL
với việc tìm ra các gợi ý của cá nhân người bệnh, là nó áp dụng cho tất cả các bệnh nhân,
các chứng bệnh thân thể và tâm bệnh (diseases); không đặc trưng cho bất kỳ một nền văn

hoá nào". Để minh chứng cho điều này, nghiên cứu đã chỉ ra tính hữu ích của biện pháp
đo lường chất lượng cuộc sống cá nhân, dựa trên đánh giá sự hiệu quả của thủ tục phẫu
thuật. Theo đó, tình trạng sức khoẻ có thể được đánh giá qua tỷ lệ tử vong, bệnh suất,
mức độ hoạt động và các tiêu chí đánh giá sức khoẻ chủ quan. Các tiêu chí này trùng lặp
đáng kể với những tiêu chí đo lường chất lượng cuộc sống và chất lượng sức khỏe của
cuộc sống. Còn điểm khác biệt của những tiêu chí này đã làm rõ sự thay đổi giữa một số
quan điểm đánh giá (xem hình 16.1).

BIẾN ĐỔI MỚI
Giá trị
Việc chuyển từ đánh giá tỷ lệ tử vong sang các biện pháp đánh giá sức khoẻ chủ quan thể
hiện sự nỗ lực chuyển đổi các giá trị tiềm ẩn thành các thước đo chính xác hơn. Ví dụ,
các biện pháp đánh giá tỉ lệ tử vong và bệnh tật giả định rằng những gì họ đo được là một
chỉ số tuyệt đối về sức khoẻ. Các đối tượng được nghiên cứu không được hỏi, "Đây có
phải là điều tồi tệ khiến bạn cảm thấy sức khỏ không thể tốt lên?" hay người thân hỏi:
"Họ có muốn chết không?". Trong khi đó, các biện pháp đánh giá sức khoẻ chủ quan cố
gắng làm cho giá trị trong các cấu trúc được nghiên cứu rõ ràng bằng cách hỏi, 'Điều gì
luôn ngăn cản bạn làm những gì mình muốn?'
Tính chủ quan của chủ thể


Các biện pháp đánh giá tỉ lệ tử vong và bệnh tật được giả định là các biện pháp khoa
học khách quan, không bị ảnh hưởng các yếu tố chủ quan xung quanh Ngược lại, các
biện pháp đánh giá sức khỏe cá nhân chủ quan

Giá trị
tiềm ẩn

Nhà nghiên cứu
khách quan


Hướng nghiên cứu
khách quan

Y sinh

Giá trị
thực tế

Nhà nghiên cứu
chủ quan

Hướng nghiên cứu
chủ quan

Khoa học
xã hội

Tỉ lệ tử vong
Tỉ lệ mắc bệnh
Biện pháp chức năng
Chất lượng sống
Chât lượng sống cá
nhân

Hình 16.1. Sự thay đổi quan điểm trong việc đánh giá sức khoẻ

Tính chủ quan của chủ thể
Đo tỷ lệ tử vong và tỷ lệ bệnh được coi cho là các tiêu chuẩn đánh giá khoa học
khách quan thực tế, không bị ảnh hưởng bởi thành kiến. Ngược lại, các tiêu chuẩn đánh

giá chủ quan có xu hướng thiên vị bản chất của những gì họ quan tâm. Ví dụ, dữ liệu về
tử vong được lấy từ hồ sơ bệnh viện hoặc giấy chứng tử, và tỷ lệ bệnh thường do các
chuyên gia y tế thực hiện hơn là các cá nhân đang được nghiên cứu. Tuy nhiên, các tiêu
chuẩn đánh giá sức khoẻ chủ quan đòi hỏi mỗi cá nhân về những kinh nghiệm và niềm tin


của họ theo "Làm thế nào để bạn đánh giá sức khoẻ của bạn?" hoặc "Bạn cảm thấy thế
nào?". Họ không giả vờ là khách quan và hơn là cố gắng loại trừ các niềm tin cá nhân họ
làm họ tập trung hơn.

Tính chủ quan của nhà nghiên cứu
Ngoài ra, cũng có sự thay đổi trong cách thức đánh giá tình trạng sức khoẻ của nhà
nghiên cứu. Ví dụ, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ bệnh được cho là phù hợp bất kể ai thu thập
chúng; giả định nhà nghiên cứu là một người khách quan. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn đánh
giá chủ quan cố gắng giải quyết vấn đề chủ quan nhà nghiên cứu. Ví dụ, các bản câu hỏi
tự báo cáo và sử dụng các câu hỏi đóng nhằm giảm thiểu đầu vào của nhà nghiên cứu.
Tuy nhiên, những câu hỏi được hỏi và khung trả lời được đưa ra vẫn do nhà nghiên cứu
lựa chọn. Ngược lại, thang đo chất lượng cuộc sống cá nhân (O'Boyle và cộng sự 1992)
trình bày vấn đề với một tờ giấy trắng và yêu cầu họ tạo ra thang đo của riêng mình.

Định nghĩa sức khoẻ
Cuối cùng, những thay đổi như vậy thể hiện rõ những quan điểm khác nhau của y
sinh học và tâm lý sức khoẻ. Vì vậy, nếu tình trạng sức khoẻ được coi là có hoặc không
có sự hiện diện cái chết, thì tỷ lệ tử vong cung cấp một công cụ đánh giá thích hợp. Cái
chết là một biến kết quả đáng tin cậy và tỷ lệ tử vong thì đơn giản hợp lý. Tuy nhiên, nếu
tình trạng sức khoẻ được coi là phức tạp hơn điều này thì cần phải có những biện pháp
phức tạp hơn. Tỷ lệ bệnh là một mô hình liên tục về sức khoẻ và bệnh tật và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đánh giá các vấn đề không rõ ràng và thậm chí một số tiêu chuẩn đánh
giá sức khoẻ chấp nhận bản chất chủ quan của sức khoẻ. Tuy nhiên, nếu tâm lý học sức
khoẻ quan tâm đến tình trạng sức khoẻ gồm một loạt yếu tố phức tạp mà chỉ có thể lựa

chọn tất cả và đánh giá bởi chính cá nhân, thì có thể lập luận rằng đó là cách đánh giá duy


nhất mà yêu cầu các cá nhân đánh giá sức khoẻ của chính mình hoàn toàn phù hợp với
mô hình tâm lý sức khoẻ về ý nghĩa của sức khoẻ.

Sử dụng chất lượng cuộc sống trong nghiên cứu.
Đánh giá chất lượng cuộc sống, dưới hình thức của đánh giá sức khoẻ chủ quan và
các thang đo đơn giản hay phức hợp đóng một vai trò chính trong nhiều cuộc tranh luận
trong tâm lý sức khoẻ, xã hội học y tế, chăm sóc ban đầu và y học lâm sàng. Hầu hết các
thử nghiệm được tài trợ hiện nay đòi hỏi phải bao gồm một tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng cuộc sống trong số các biến kết quả của họ và các can thiệp chỉ tập trung vào tử
vong nói chung bị coi là hẹp và lỗi thời. Tuy nhiên, một phân tích các tài liệu gần đây cho
thấy phần lớn các thử nghiệm đã được công bố vẫn không báo cáo số liệu về chất lượng
cuộc sống (Sanders et al.1998).
Chẳng hạn, theo đánh giá của Danh bạ Trung tâm các Thử nghiệm có Đối chứng
Cochrane từ năm 1980 đến năm 1997, Sanders et al. (1998) báo cáo rằng mặc dù tần số
báo cáo dữ liệu chất lượng cuộc sống đã tăng từ 0,63% lên 4,2% cho các thử nghiệm từ
tất cả các ngành, từ 1,5% đến 8,2% cho các thử nghiệm ung thư và từ 0,34% đến 3,6%
Đối với các thử nghiệm tim mạch, dưới 5% của tất cả các thử nghiệm báo cáo dữ liệu về
chất lượng cuộc sống. Hơn nữa, họ cho thấy rằng tỷ lệ này là dưới 10% ngay cả đối với
thử nghiệm ung thư. Thêm vào đó, họ chỉ ra rằng trong khi 72% các thử nghiệm được sử
dụng để xác định chất lượng cuộc sống, 22% sử dụng các biện pháp do các tác giả tự phát
triển. Do đó, có vẻ như mặc dù chất lượng cuộc sống đang được chú trọng và là một phần
bắt buộc của nghiên cứu kết quả, nhưng nó vẫn còn chưa được sử dụng. Đối với những
thử nghiệm bao gồm dụng cụ đo lường chất lượng cuộc sống, nó được sử dụng chủ yếu
như là một biến kết quả và dữ liệu được phân tích để đánh giá liệu can thiệp có ảnh
hưởng đến tình trạng sức khoẻ của cá nhân, bao gồm chất lượng cuộc sống của họ.



Chất lượng cuộc sống là thước đo kết quả
Nghiên cứu đã xem xét một loạt các can thiệp ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống
của một cá nhân bằng cách sử dụng một thiết kế các biện pháp lặp đi lặp lại. Ví dụ, một
thử nghiệm phẫu thuật giảm vú so với chất lượng cuộc sống của phụ nữ trước và sau khi
phẫu thuật (Klassen và cộng sự, 1996). Nghiên cứu bao gồm 166 phụ nữ được giới thiệu
cho phẫu thuật thẩm mỹ, chủ yếu vì các lý do thể chất và tình trạng sức khoẻ của họ đã
được đánh giá bằng cách sử dụng SF36 để đánh giá chất lượng cuộc sống chung, GHQ
28 mục để đánh giá tâm trạng và thang đo lòng tự trọng của Rosenberg
Kết quả chỉ ra rằng chất lượng cuộc sống của những người phụ nữ này thấp hơn rõ rệt
trước và sau phẫu thuật so với nhóm đối chứng của phụ nữ trong dân số nói chung và
điều đó làm giảm chức năng thể chất, xã hội và tâm lý của phụ nữ bao gồm cả mức độ
Của 'caseness' cho bệnh tâm thần. Theo đó, các tác giả kết luận rằng phẫu thuật giảm
ngực có lợi cho chất lượng cuộc sống và nên được đưa vào hợp đồng mua NHS. Chất
lượng cuộc sống cũng đã được đưa vào như là một biến kết quả cho những nghiên cứu
ngẫu nhiên có đối chứng cụ thể Ví dụ, Grunfeld et al. (1996) đã kiểm tra tác động tương
đối của việc cung cấp chăm sóc bệnh viện (chăm sóc thường quy) hoặc chăm sóc ban đầu
cho phụ nữ bị ung thư vú. Nghiên cứu bao gồm 296 phụ nữ mắc bệnh ung thư vú đã có
tình hình thuyên giảm và phân phối ngẫu nhiên họ để tiếp nhận chăm sóc tiếp theo ở
bệnh viện hoặc bác sĩ đa khoa của họ Chất lượng cuộc sống được đánh giá bằng cách sử
dụng một số mức độ từ mô hình SF36 và thang đo HAD. Kết quả cho thấy chăm sóc thực
hành chung không liên quan đến bất kỳ tình hình xấu đi nào trong chất lượng cuộc sống.
Ngoài ra, nó không liên quan đến thời gian tăng lên để chẩn đoán bất kỳ sự tái phát của
ung thư. Do đó, các tác giả kết luận rằng chăm sóc thực hành chung của phụ nữ trong
việc thuyên giảm bệnh ung thư vú cũng tốt như chăm sóc tại bệnh viện. Các nghiên cứu
khác đã khảo sát tác động của một can thiệp đối với một loạt bệnh tật. Ví dụ, nhóm
nghiên cứu của DAFNE (2002) đã khảo sát tác động của việc điều trị chuyên sâu cho
bệnh nhân tiểu đường bằng cách kết hợp chế độ ăn uống tự do và điều chỉnh insulin (điều
chỉnh liều cho ăn bình thường - DAFNE). Kết quả cho thấy cách tiếp cận này đối với việc



tự quản lý đã cải thiện cả kiểm soát đường huyết của bệnh nhân và chất lượng cuộc sống
của họ khi theo dõi. Shepperd và cộng sự (1998) cũng đã sử dụng chất lượng cuộc sống
như là một
Họ đã tiến hành đánh giá sự tương đối của chăm sóc tại nhà so với tại bệnh viện cho
bệnh nhân với nhiều vấn đề khác nhau, như: phẫu thuật hông, phẫu thuật đầu gối và cắt
bỏ tử cung. Chất lượng cuộc sống được đánh giá bằng các công cụ như SF36 và các biện
pháp phòng bênh, kết quả cho thấy không có sự khác biệt giữa 2 nhóm trong suốt 3 tháng
theo dõi. Do đó, các tác giả kết luận rằng chi phí của các hình thức chăm sóc khác nhau
trở thành yếu tố quan trọng nếu không có ý nghĩa quan trọng về chất lượng cuộc sống
giữa chăm sóc tại gia và tại bệnh viện.

Các vấn đề về sử dụng chất lượng cuộc sống như
một tiêu chí
Như vậy, nghiên cứu sử dụng chất lượng cuộc sống như một thước đo cho các thử
nghiệm khác nhau và tập trung vào các chứng bệnh cụ thể hoặc một loạt các vấn đề liên
quan. Tuy nhiên có các vấn đề đáng chú ý sau đây:


Các nghiên cứu khác nhau sử dụng các cách khác nhau để đo lường chất lượng
cuộc sống. khái quát hóa qua các nghiên cứu là vấn đề khó khăn.



Một số nghiê cứu sử dụng thuật ngữ “chất lượng cuộc sống” trong khi một số khác
sử dụng thuật ngữ “tình trạng sức khỏe chủ quan”. Khái quát hóa qua các nghiên
cứu là vấn đề khó khăn



Các cách nghiên cứu về chất lượng cuộc sống khác nhau đôi khi cho kết quả trái

ngược nhau. Rút ra kết luận là vấn đề khó khăn



Một số nghiên cứu báo cáo kết quả từ các biện pháp nghiên cứu theo hướng ngược
lại đối với số liệu thực về người bệnh hoặc tử vong. Kết luận một nghiên cứu là tốt
hay xấu là vấn đề khó khăn.


Chất lượng cuộc sống là một yếu tố để
dự tính tuổi thọ người
Hầu hết các nghiên cứu sử dụng chất lượng cuộc sống như một biến để nghiên cứu và
dự đoán nó và do đó đặt biến này như một điểm kết thúc. Tuy nhiên chất lượng cuộc sống
cũng có thể là dự báo cho các sự kiện trong tương lai. Đặc biệt chất lượng cuộc sống
cũng được xem như một yếu tố để dự đoán tuổi thọ. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu
nào trực tiếp giải quyết được vấn đề này, mặc dù đã có một số nghiên cứu gián tiếp gợi ý
mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống và tuổi thọ người. Ví dụ có một nghiên cứu chỉ
rằng trong 6 tháng đầu sau khi vợ hoặc chồng chết, thì tỷ lệ tử vong của người còn lại cao
hơn đặc biệt là do bệnh tim hoặc tự tử (Kaprio 1987; Schaefer 1995; Martikainen và
Valkonen 1996). Có thể điều này liên quan đến việc suy giảm chất lượng cuộc sống của
người còn lại. Hơn nữa, một số nghiên cứu gợi ý mối liên hệ giữa các sự kiện trong cuộc
sống và tuổi thọ (xem Chương 14). Có lẽ nhưng liên kết này cũng được giải thích bởi
chất lượng cuộc sống. Do đó, chất lượng cuộc sống không chỉ là một biến số kết quả mà
còn là một yếu tố tiến quyết ảnh hưởng tới các kết quả khác trong tương lai.

KẾT LUẬN
Chương này đã khám phá những cách khác nhau về đo lường tình trạng sức khoẻ.
Đặc biệt, nó đã kiểm tra việc sử dụng tỷ lệ tử vong, tỷ lệ bệnh tật, các biện pháp hoạt
động, các biện pháp về tình trạng sức khoẻ chủ quan và chất lượng cuộc sống. Sau đó nó
đã mô tả cách chuyển từ tỷ lệ tử vong sang chất lượng cuộc sống sẽ làm thay đổi từ giá trị

tiềm ẩn sang giá trị rõ ràng, tính chủ quan ngày càng tăng lên thay mặt cho cả đối tượng
nghiên cứu lẫn nhà nghiên cứu, và sự thay đổi trong định nghĩa về sức khoẻ từ một mô
hình lưỡng phân y sinh sang mô hình tâm lý phức tạp hơn. Thêm nữa, nó đã khám phá
các khái niệm về chất lượng cuộc sống và phạm vi rộng lớn của các quy mô đã được phát
triển để đánh giá cấu trúc phức tạp này và sử dụng chúng trong nghiên cứu.


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tỷ lệ tử vong là thước đo chính xác nhất về tình trạng sức khoẻ (bàn luận)
2. Các quan điểm của chủ đề trong cách đo lường sức khoẻ (bàn luận)
3. Quan điểm của nhà nghiên cứu trong cách đo lường sức khoẻ (bàn luận)
4. Chất lượng cuộc sống ở mức độ nào là một cấu trúc hữu ích?
5. Nghiên cứu kết quả có nên bao gồm đánh giá chất lượng cuộc sống?
THẢO LUẬN: hãy xem xét lần cuối cùng bạn cảm thấy rằng chất lượng cuộc sống của
bạn bị suy giảm. Điều này có ý nghĩa gì đối với bạn và điều này sẽ được giải quyết bằng
các biện pháp có sẵn nào?

CÁC GIẢ ĐỊNH TRONG TÂM LÝ HỌC SỨC KHỎE
Đo lường tình trạng sức khoẻ làm nổi bật một số giả định về tâm lý học sức khoẻ:
1. Vấn đề về phương pháp luận. Giả định rằng phương pháp luận là riêng biệt với các dữ

liệu đang được thu thập. Theo đó, giả định rằng các đối tượng kinh nghiệm cũng quan
trọng đối với chất lượng cuộc sống của họ ngay cả trước khi họ đã được hỏi về họ. Có
thể các mục liên quan đến cuộc sống gia đình, tình trạng vật chất và công việc chỉ có
thể trở nên quan trọng khi cá nhân được yêu cầu xếp hạng chúng.
2. Vấn đề chia tách tâm-thân. Mặc dù nhiều kết quả nghiên cứu xem xét cả tỷ lệ tử vong
lẫn chất lượng cuộc sống, nhưng thường giả định rằng hai yếu tố này là riêng biệt. Vì
vậy, nghiên cứu khám phá tác động của một can thiệp hoặc về chất lượng cuộc sống của
một cá nhân hoặc về tuổi thọ của họ. Có rất ít mối quan hệ đánh giá tác động của chất
lượng cuộc sống đến tuổi thọ. Do đó, các yếu tố ảnh hưởng đến tâm trí được coi là tách

biệt với những yếu tố ảnh hưởng đến cơ thể.
3. Vấn đề tiến bộ. Tỷ lệ tử vong rất nhiều vào đầu thế kỷ trước, trong khi các biện pháp

về chất lượng cuộc sống đang thịnh hành vào cuối thế kỷ này. Sự thay đổi này chủ yếu
được coi là một sự cải tiến trong cách chúng ta hiểu được tình trạng sức khoẻ. Tuy


nhiên, thay vì cải thiện, có lẽ nó đơn giản chỉ phản ánh một thay đổi trong cách chúng
ta hiểu ý nghĩa của sức khoẻ.



×