Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tài liệu ôn tập kiến trúc truyền thống việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.8 KB, 25 trang )

TÀI LIỆU ÔN TẬP HP: KIẾN TRÚC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
1. Lược sử kiến trúc Việt Nam và những ảnh hưởng từ các nền kiến trúc bên ngoài
Khi tìm hiểu một nền kiến trúc nào đó, bao giờ cũng cần phải xác định được chủ thể đích thực
của nền kiến trúc đó. Chủ thể của nền kiến trúc truyền thống Việt Nam chính là tất cả các dân tộc
anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Nói đến kiến trúc truyền thống Việt Nam là nói đến:
kiến trúc truyền thống của người Việt, kiến trúc truyền thống của các dân tộc thiểu số; trong đó đặc
biệt là kiến trúc của người Chăm, người Khơ me Nam Bộ, của các dân tộc miền núi phía bắc và các
dân tộc ở Tây Nguyên…
Quá trình phát triển nền kiến trúc truyền thống Việt Nam gắn liền với môi trường thiên nhiên
và hoàn cảnh kinh tế - xã hội. Những công trình kiến trúc cổ hầu hết được xây dựng trong thời kỳ
phong kiến - chủ yếu là trước thế kỷ XIX. Dù là công trình nhỏ bé như kiến trúc dân gian hoặc đồ
sộ, phức tạp như kiến trúc cung đình, vật liệu xây dựng sẵn có ở địa phương đã được khai thác và sử
dụng phổ biến và rộng khắp như: tranh, tre, nứa, lá, gỗ, đá..., về sau có thêm các vật liệu khác như
gạch, ngói, sành, sứ... Hệ thống kết cấu khung cột, vì kèo và các loại xà đều có quy định thống nhất
về kích thước, tương quan về tỷ lệ và qua đó, những nghệ nhân trước đây đã sáng tạo ra một thức
kiến trúc riêng biệt trong kiến trúc cổ và dân gian Việt Nam.
Trải qua nhiều triều đại, nhiều thế kỷ với bao thăng trầm lịch sử, đến ngày nay các công trình
đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa để tồn tại, một số còn giữ được cốt cách nguyên sơ song cũng
có nhiều công trình bị pha tạp do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Tuy nhiên, những công
trình này vẫn là dấu tích cụ thể ghi lại chặng đường sáng tạo và lao động nghệ thuật, mang dấu ấn
lịch sử dân tộc rất rõ nét. Đặc điểm của kỹ thuật kiến trúc truyền thống Việt Nam gắn liền với điều
kiện, hoàn cảnh của tiến trình lịch sử dân tộc. Đó là kiến trúc trong các thời kỳ: thời kỳ Tiền sử, thời
kỳ dựng nước, thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ, thời kỳ thuộc Pháp và thời kỳ
từ nửa sau thế kỷ XX đến nay.
Kiến trúc Việt Nam ra đời gắn liền với quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của lịch sử
dân tộc. Những di tích kiến trúc cổ truyền còn rải rác trên khắp đất nước, chúng chỉ bắt đầu là đối
tượng nghiên cứu kể từ những năm cuối cùng của thế kỷ XIX và được khai thác dưới dạng khảo cổ
học.
Những tên tuổi quen thuộc như G.Dumoutier, L.Cadiere, M.Beranose, H.Gourdon, L.Bezacier
và nhiều tác giả khác đã để lại những công trình nghiên cứu có giá trị. Họ đã mang đến một cách
tiếp cận và nghiên cứu lịch sử kiến trúc theo kiểu châu Âu mà từ trước đó người Việt chúng ta chưa


1


làm như thế bao giờ. Nhiều công trình di tích thời đó được họ vẽ ghi, nghiên cứu, nay không còn
nữa. Hàng trăm bản vẽ, ảnh chụp trong suốt quá trình khảo cứu đã chứng minh cho nền văn hóa của
cha ông chúng ta khá phong phú. Trong suốt hơn 50 năm qua, các nhà khoa học Việt Nam đã tiếp
tục hoàn thiện đi sâu nghiên cứu về kiến trúc truyền thống và tiến hành phân kỳ, đánh giá, hoàn
thiện dần làm giàu thêm tư liệu về kiến trúc cổ Việt Nam.
Ở các giai đoạn tiền kỳ, trung kỳ và hậu kỳ đều có những nét kiến trúc chứa đựng quá trình
biến đổi khá rõ rệt. Các triều đại kế thừa tinh hoa nghệ thuật kiến trúc của nhau để đẩy lên trong quá
trình phát triển thông qua kỹ thuật, tập quán, phương pháp làm nhà để định hình về tỷ lệ, cấu trúc.
Những gì quý giá nhất mà ông cha chúng ta đã làm được từ hàng ngàn năm bằng công sức, mồ hôi,
xương máu thì thời gian, chiến tranh và cả chính con người lại tàn phá nó. Để đến hôm nay, khó có
thể đánh giá chính xác về hình hài của các công trình kiến trúc Lý, Trần, Lê sơ… Nhưng may mắn
thay, những di tích còn tồn tại trong các làng xóm, thôn quê Việt Nam đã phản ánh phần nào gương
mặt kiến trúc, nghệ thuật qua các triều đại từ Hậu Lê đến Mạc, Nguyễn.
Từ thời tiền sử và sơ sử với Đông Sơn nổi tiếng rồi tàn lụi, chuyển sang kiến trúc-mỹ thuật
thời Lý mẫu mực cổ điển là cả một ngàn năm gián cách. Kiến trúc thời Lý thể hiện rõ sự lớn mạnh
về ý thức dân tộc, về khả năng xây dựng một đất nước độc lập, tự chủ hùng mạnh của nhân dân ta.
Nghệ thuật kiến trúc cung đình lớn mạnh thể hiện vai trò của Nhà nước phong kiến tự chủ và yêu
cầu phát triển văn hóa tinh thần, vươn lên thoát khỏi sự ràng buộc của phong kiến Trung Quốc.
Nhà Trần thời kỳ đầu đã tiếp thu và thừa hưởng những tinh hoa của nhà Lý. Nhưng do ba lần
bị quân Nguyên-Mông xâm lược, đất nước bị tàn phá, kiến trúc bị ảnh hưởng. Cho đến khi triều Lê
lên ngôi, nền kiến trúc phát triển trở lại với những hình thức chắc, khỏe, kỹ thuật điêu luyện song có
pha trộn kiến trúc của các vùng lân bang để tạo uy thế và quyền lực cho nhà nước phong kiến.
Đầu thế kỷ XIX, nhiều công trình đã được xây dựng dưới thời nhà Nguyễn với quy mô rộng
khắp cả nước. Những di sản kiến trúc gỗ còn lại cho đến ngày nay phần lớn mang nhiều dấu tích của
thời Nguyễn.
Việt Nam là đất nước có vị trí địa lí gần kề Trung Quốc, hơn nữa lại trải qua gần một nghìn
năm dưới chế độ đô hộ của phong kiến Trung Quốc. Vì vậy nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của VN

phần nào chịu ảnh hưởng của kiến trúc Trung Quốc, nhất là các kiến trúc tôn giáo và kiến trúc cung
đình, thành cổ. Có thể thấy điều đó qua các dấu tích kiến trúc còn lại như: kiến trúc đền miếu, am
quán liên quan đến Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo… hay các kiến trúc cung điện từ thời Lý – Trần
– Lê đến thời Nguyễn (Hoàng thành Thăng Long, Thành nội Huế…); các thành lũy (Cổ Loa, Đại La,
Thăng Long, Tây An [thành Nhà Hồ] và các thành được xậy dựng thời Nguyễn… (Lấy ví dụ cụ thể
để phân tích)
Các kiến truc tôn giáo của người Chăm trên dải đất miền Trung lại mang đậm kỹ thuật, nghệ
thuật kiến trúc điêu khắc của Ấn Độ (các đền tháp Bà la môn), (Lấy ví dụ cụ thể để phân tích)
2


Từ cuối thế kỷ XVI, đặc biệt từ thế kỷ XIX, sự bành trướng của CNTB châu Âu kéo theo sự
du nhập của kiến trúc Phương Tây vào VN. Kể từ sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nền kiến
trúc VN đã có những bước ngoặt lớn. Các đô thị cổ được hình thành từ thời nhà Nguyễn đã cải tạo
lại theo kiểu đô thị phương Tây. Các đường phố được nắn thẳng, đường phố có dạng ô bàn cờ, hạ
tầng kỹ thuật đường phố được hoàn thiện (đường phos rộng hơn, có vỉa hè, hành lang cho người đi
bộ, đường phố có cây xanh, đèn đường, cống rãnh that nước và cấp nước…). Trên các đường phố
xuất hiện các loại kiến trúc như: nhà ở, nhà hàng, cửa hiệu, công sở, nhà máy và các các công trình
công cộng (quảng trường, công viên, nhà hát…). Bên cạnh các kiến trúc một tầng theo kết cấu cột,
kèo truyền thống đã xuấ hiện những kiến trúc cao tầng, có kết cấu bê-tông cốt thép; cửa chính, cửa
sổ theo lối trong kính ngoài chớp… [lấy ví dụ từ các kiến trúc tiêu biểu ở 2 thành phố lớn: Hà Nội,
Sài Gòn để chứng minh (phủ toàn quyền, nhà hát lớn, nhà thờ công giáo…)].
Từ năm 1887 người Pháp bắt đầu tiến hành chương trình khai thác thuộc địa Đông Dương lần
thứ nhất. Đây cũng là thời gian mà nhiều đô thị lớn nước ta bắt đầu được mở rộng và qui hoạch lại
theo những nguyên tắc và quan niệm về đô thị thịnh hành ở Pháp lúc bấy giờ. Các công trình kiến
trúc chủ đạo được xây dựng ở Hà Nội, Hải Phòng hay Sài Gòn đều mang tinh thần của chủ nghĩa cổ
điển Pháp thế kỷ 19. Có lẽ vì vậy mà nhiều người nhận xét Hà Nội giống như một Paris thu nhỏ. Có
thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu theo xu hướng này, ở Hà Nội như Phủ Toàn quyền, Dinh
Thống sứ, Toà án Hà Nội, Viện Radium, Nhà hát lớn... ở Sài Gòn có toà Đốc lý, Nhà hát lớn, Toà
Pháp đình...

Trong mỗi thời đại lịch sử, kiến trúc truyền thống Việt Nam bao gồm nhiều lĩnh vực kiến trúc
xây dựng khác nhau:
Kiến trúc nhà ở dân gian
Kiến trúc cung điện, dinh thự, thành luỹ
Kiến trúc làng (bản, mường, buôn, phum, sóc...) và đô thị
Kiến trúc các công trình công cộng, kiến trúc công sở
Kiến trúc tôn giáo...
Trong lịch sử, các kiến trúc Việt Nam vừa có tính kế thừa, vừa chịu ảnh hưởng và tiếp thu
nhiều yếu tố của các nền kiến trúc từ nhiều quốc gia khác nhau như: kiến trúc Trung Hoa, kiến trúc
Ấn Độ, kiến trúc phương Tây… Do đó, kiến trúc truyền thống Việt Nam có nhiều biến thiên phức
3


tạp qua thời gian và không gian; nó không chỉ ảnh hưởng cách thức kiến trúc của các nền văn hoá
khác mà còn chịu ảnh hưởng cả về mặt tư tưởng triết học và tín ngưỡng.

2. Việt Nam là nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa; mùa Đông có gió mùa
Đông Bắc mang theo hơi lạnh từ phương bắc xuống, mùa hè có gió Đông Nam mát mẻ thổi
từ biển vào. Địa hình da dạng: núi cao, trung du, đồng bằng châu thổ và đồng bằng ven biển.
Rừng núi chiếm tỷ lệ khá lớn diện tích tự nhiên; hệ thống sông, suối, ao hồ dày đặc; có
đường bờ biển dài… Là nước nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương, phía Tây là núi cao,
phía đông là biển. Điều kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn cho
cuộc sống của con người. Là vùng đất năng lắm, mưa nhiều nhưng phân bố không đều trong
năm, do vậy hạn hán, lũ lụt, bão tố là hiện tượng tự nhiên thường xuyên xỷ ra gây nhiều thiệt
hại cho con người. Hình thể đất nước kéo dài từ Bắc xuống Nam, tạo nên sự khác biệt về
thời tiết, khí hậu giữa các vùng miền (miền Bắc, miền Trung, miền Nam; miền núi, trung du,
đồng bằng…).
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên như vậy nên các kiến trúc về nhà ở truyền thống của
người Việt Nam rất đa dạng và lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên, tận dụng và thích ứng với tự
nhiên. Mặt khác, là cư dân nông nghiệp, cuộc sống gắn liền với môi trường tự nhiên, nhìn

chung nhà ở truyền thống của đồng bào các dân tộc Việt Nam thường đơn giản nhưng tiện
ích, phù hợp với môi trường, với hoạt động sản xuất và phong tục, tập quán, tín ngưỡng. Nhà
ở dân gian truyền thống Việt Nam đã trải qua một quá trình chuyển biến, thay đổi về vật liệu
xây dựng (từ tre, nứa, gỗ, lá… đến gạch, đá, ngói...), về kiểu cách (từ nhà sàn đến nhà nền
đất). Dân gian có câu “nhà tranh, vách đất; nhà ngói, tường xây” là vậy.
Đặc điểm nhà ở truyền thống của người Việt
Trước hết do đặc điểm khu vực cư trú của người Việt Nam là vùng sông nước cho nên
ngôi nhà của người Việt Nam gắn liền với môi trường sông nước. Những người sống bằng
nghề sông nước (chài lưới, chở đò,...) thường lấy ngay thuyền, bè làm nhà ở: đó là các nhà
thuyền, nhà bè; nhiều gia đình quần tụ lập nên các xóm chài, làng chài. Đây là lời của JB
Tavernier viết năm 1909 : "Họ (người Việt Nam) rất thích ở nước, thích ở trên nước hơn là

4


trên cạn. Cho nên phần nhiều sông ngòi thì đầy thuyền. Những thuyền đó thay cho nhà cửa
của họ. Thuyền rất sạch sẽ ngay cả khi họ nuôi gia súc ở trong đó"
Nhiều người tuy không sinh kế trực tiếp bằng nghề sông nước nhưng cũng thích làm
nhà sàn trên mặt nước để đối phó với ngập lụt quanh năm. Dưới con mất của Finlayson, một
nhà ngoại giao người Anh thì Sài Gòn đầu TK XIX có "nhiều nhà cao cẳng, sàn bằng ván,
xếp hàng dọc theo bờ kênh, bờ sông hay dọc theo đường cái rộng thoáng đãng. Phố xá
ngang hàng thẳng lối hơn ở nhiều kinh thành châu Âu". Nhà sàn chính là kiểu nhà rất phổ
biến ở Việt Nam từ thời Đông Sơn, nó thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền núi. Nó
không chỉ có tác dụng đối phó với:
(a) môi trường sông nước ngập lụt quanh năm.
(b) thời tiết mưa nhiều gây lũ rừng ở miền núi và ngập lụt định kỳ ở vùng thấp,
(c) khí hậu nhiệt đới có độ ẩm cao,
(d) hạn chế và ngăn cản côn trùng, thú dữ (ruồi muỗi, sâu bọ, rắn rết, cá sấu, hổ báo....)
Ngày nay, nhà ở những vùng hay ngập nước (như đồng bằng sông Cửu Long) và các
nhà kho (nơi phải đối phó với độ ẩm) vẫn duy trì kiến trúc nhà sàn. Vào TK XVII, nhiều

ngôi đình như đình Đình Bảng (Hà Bắc), đình Chu Quyến (Hà Tây), v.v. vẫn làm theo lối
nhà sàn.
Kỷ niệm về cuộc sống gắn bó với thiên nhiên sông nước mạnh đến mức những ngôi
nhà của người Việt Nam đã được làm với chiếc mái cong mô phỏng theo hình thuyền. Người
ta quen cho rằng đặc điểm này là vay mượn của kiến trúc Trung Hoa trong khi thực ra là
ngược lại. Nhà sàn Việt Nam từ thời Đông Sơn (chưa hề giao lưu với Trung Hoa) đã có mái
cong rồi. Các dấu tích còn lưu lại qua hình khắc trên trống đồng và trong lòng đất cho thấy
rõ điều này. Nhà rông Tây Nguyên đến giờ vẫn làm theo kiểu mái cong tuy rằng cũng không
hề có giao lưu với Trung Hoa. Tháp Chàm cũng có loại mái cong trong khi đó, nhà Trung
Hoa thời Hán mái vẫn thằng đến cuối đời Đường, lối làm nhà mái cong mới thâm nhập dần
từ Nam lên Bắc. Thậm chí Cố Cung ở Bắc Kinh được xây dựng vào thời Minh mà mái mới
chỉ hơi cong nhẹ.
Chiếc mái cong bắt nguồn từ phương Nam, ngoài ý nghĩa là hình ảnh của con thuyền,
không có tác dụng thực tế gì. Chính vì vậy mà vào thời Đông Sơn, khi mà một chiếc cán
dao, một chiếc môi (vá) múc canh cũng có thể được trang trí một cách cầu kì, thì nhà nhà
đều làm mái cong; còn về sau này thì mái nhà bình dân thường làm duỗi thẳng cho giản tiện.
Chỉ còn những công trình kiến trúc lớn (như đình chùa, miếu mạo, dinh thự, cung điện) mới
5


được làm mái cong cầu kì. Ngoài ra các đầu dao ở bốn góc nhà, đặc biệt là đình chùa cung
điện, cũng được làm cong vút lên tạo nên một dáng vẻ thanh thoát đặc biệt cho ngôi nhà vốn
được trải rộng trên mặt bằng để hòa mình vào thiên nhiên.
Ở trên vừa nói rằng nhà sàn có tác dụng đối phó với môi trường tự nhiên. Nó nằm
trong một biện pháp rộng hơn được người Việt Nam đúc kết là nhà cao cửa rộng. Đó cũng là
tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam Về mặt cấu trúc; nó khác hẳn ngôi nhà ở phương Tây xứ lạnh
phải làm nhỏ, trần thấp, tường dầy, cửa ít và nhỏ để giữ hơi ấm.
Cái cao của ngôi nhà Việt Nam bao gồm hai yêu cầu : nơi con người đặt chân cao so
với mặt đất, và mái cao so với nơi con người đặt chân. Nhà sàn đáp ứng yêu cầu "cao" thứ
nhất (nơi con người đặt chân cao so với mặt đất) và có tác dụng đối phó với lụt lội, ẩm ướt,

côn trùng... Ngày nay, nhà Việt Nam phần nhiều đã chuyển sang dạng nhà đất. Nhưng nhà
đất lý tưởng vẫn là nhà phải có nền cao: nhà những người có của. nhà địa chủ, dinh thự quan
lại.... đều làm nền cao; nhiều nơi hay ngập lụt, nền nhà cứ phải nâng cao dần. Còn yêu cầu
"cao" thứ hai - mái cao so với nơi con người đặt chân (sàn hoặc nền) - là nhằm tạo ra một
khoảng không gian rộng, thoáng mát trong nhà để đối phó với nắng nóng. Mái cao còn tạo ra
một độ dốc lớn để đối phó với lượng mưa nhiều, khiến cho nước thoát nhanh, tránh dột,
tránh hư mục mái. Hình nhà Đông Sơn cho ta thấy mái đều được làm khá cao so với sàn nhà.
Tuy nhiên cái cao của mái nói đến ở đây không phải là cao tùy ý mà là cao vừa phải (tỉ lệ
hợp lí giữa chiều ngang và chiều đứng đảm bảo độ dốc cần thiết là nằm ba ngồi hai). Ở vùng
ven biển mái nhà lại phải làm thấp để tránh bão (do nhiều gió nên thấp ở đây cũng đủ mát
rồi).
Một câu hỏi tất yếu đặt ra là tại sao cùng với nhà cao, người ta không làm cửa cao mà
lại làm cửa rộng? Cửa không làm cao là để tránh cái nắng xiên khoai và tránh bị mưa hắt. Để
tránh nắng, ngơi ta còn đan những tấm dại lớn bằng tre nứa để cản bức xạ nhiệt từ mặt trời
và bức xạ nhiệt thứ cấp từ sân hắt vào. Cũng để tránh nắng, tạo ra một vành đai bóng mát
quanh nhà và hắt ma ra xa chân các cột gỗ, đầu dói mái nhà Việt Nam (giọt gianh) thường
được đưa ra khá xa so với hàng hiên; mái nhà sàn ở vùng núi thậm chí có giọt gianh gần
ngang với mặt sàn.
Còn phải làm cửa rộng là để đón gió cho thoáng mát, tránh nóng. Đầu hồi nhà thường
để trống một khoảng hình tam giác để cho hơi nóng và khói đun bếp trong nhà bốc lên có
chỗ thoát ra, đây cũng là một thứ cửa - cửa sổ trên cao - nó cùng với các cửa ở dưới tạo
thành một hệ thống thông gió hoàn chỉnh. Cửa rộng để đón gió mát, nhưng đồng thời mặt
6


khác lại phải tránh gió độc, gió mạnh; bởi vậy, dân gian có kinh nghiệm không làm cổng và
cửa thẳng hàng (cửa chính thường ở giữa nhà, còn cổng thường lệch về bên trái), tuyệt đối
tránh không để con đường trước mặt đâm thẳng vào nhà. Trường hợp bất khả kháng, phải
làm một tấm bình phong bằng cây xanh hoặc bằng gạch để ngăn bớt gió và phân tán chúng
sang hai bên.

Biện pháp quan trọng thứ hai để đối phó với môi trường tự nhiên là chọn hướng nhà,
chọn đất. Đó là cách tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự nhiên để đối phó với nó.
Đơn giản hơn cả là chọn hướng nhà. Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam: lấy vợ đàn
bà, làm nhà hướng nam. Câu tục ngữ tưởng chừng vô lí đó thực ra rất dễ hiểu : Đối với
người Việt Nam đã làm nhà thì phải là nhà hướng Nam - điều đó cũng hiển nhiên như việc
lấy vợ phải là đàn bà vậy! Sở dĩ như thế là vì Việt Nam ở gần biển, trong khu vực gió mùa.
Trong bốn hướng thì duy nhất chỉ có hướng Nam (hoặc đông Nam) là hướng tối ưu: Buổi
sáng và buổi chiều không bị nắng chiều xiên khoai; và tránh được cái nóng từ phương Tây,
cái bão từ phương Đông, và gió lạnh từ phương Bắc (gió bấc) thổi về vào mùa rét, lại vừa
tận dụng được gió mát từ phương Nam (gió nồm) thổi đến vào mùa nóng. Muốn mát thì
không gì cho bằng gió tự nhiên, gió Nam; tục ngữ có câu: Một trăm người hầu không bằng
ở đầu ngọn gió và Gió Nam chưa nằm đã ngáy.
Quan sát thực địa cho thấy rằng, từ thời nguyên thủy, người xưa đã biết tận dụng
hướng Nam này để chống nóng và chống rét : phần lớn hang động Hòa Bình có người ở đều
quay về hướng Nam hoặc Đông Nam. Không một hang có người ở nào lại có cửa quay về
hướng bắc. Các tòa thành có nhiều cửa mở ra bốn phía thì cửa chính bao giờ cũng là cửa
phía Nam (Ngọ Môn của kinh thành Huế có nghĩa là cửa phía Nam, "ngọ" là phương Nam
theo trục tứ ngọ trên la bàn của thầy địa lý).
Nhà nhìn về hướng Nam cho nên cây đòn nóc nằm theo hướng đông-tây. Theo truyền
thống văn hóa nông nghiệp trọng bên trái, người ta quy ước đặt gốc cây đòn nóc ở phía
Đông (phía Đông bên trái ) cho nên đòn nóc còn có tên gọi là đòn đông, nhiều nơi dọc chệch
thành đòn dông. Cũng do truyền thống trọng bên trái, bàn thờ Thổ công (ông Táo) - vị thần
quan trọng nhất, cai quản cái bếp, cái nhà - được đặt ở gian bên trái; bài vị của ông vì thế
được ghi là Đông Trù tư mệnh Táo phủ thần quân.
Cả cái bếp cũng được đặt bên trái (phía Đông), biệt lập và vuông góc với nhà chính,
nhìn về hướng Tây. Tại sao bếp lại nhìn về hướng Tây? Kinh nghiệm dân gian cho rằng nếu
bếp làm không đúng hướng thì gia đình sẽ lục đục và hay sinh hỏa hoạn. Đó là do chức năng
7



đặc biệt của bếp là nấu nướng: bếp nhìn về hướng Tây sẽ tránh được ngọn gió thường xuyên
thổi từ phía biển (hướng Nam và Đông); trong trường hợp ngược lại, ngọn lửa sẽ bị gió tạt
về phía vách gây cháy nhà, chí ít là cơm chẳng lành canh chẳng ngọt (như thế thì làm gì mà
gia đình không sinh lục đục!).
Nhưng nếu chỉ chọn hướng một cách giản đơn thì nhiều khi không giải quyết được vấn
đề. Bởi lẽ tùy thuộc vào địa hình địa vật xung quanh, vào sự có mặt của núi, của sông, của
con đường.v.v. mà ảnh hưởng của gió, nắng.... sẽ khác nhau, cho nên ngoài việc chọn hướng,
còn phải chọn nơi, chọn chỗ: chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở.
Để giải quyết vấn đề một cách triệt để hơn, ở một mức độ cao hơn, truyền thông văn
hóa phương Nam đã hình thành nên cả một nghề Chọn đất để làm nhà, đặt mộ, gọi là nghề
phong thủy. Nghề phong thuỷ bắt nguồn từ những nhu cầu tinh tế trong quá trình sống định
cư và những kinh nghiệm lao động phong phú của người nông nghiệp. Đất làm nhà gọi là
dương cơ, đất đặt mộ gọi là âm phần; dương cơ được coi trọng hơn âm phần (nhất dương
thắng thập âm), song trên thực tế thì người ta chỉ chú trọng đến đất dương cơ khi lập đình
chùa, đặt đô thị, còn nhà thường dân thì chủ yếu chỉ chọn hướng mà thôi; nhưng âm phần thì
thường nhờ thầy địa lí đi tìm đất rất cẩn thận. Trong "Vân Đài loại ngữ", Lê Quý Đôn kể
rằng Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng đã nói : "Người phương Nam... thử đất
huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm. rồi đào lên
xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại lấy đồ đựng
nước đem thả con cá vào nuôi.rồi chôn xuống đất vài năm, hễ cá sống là đất tốt, cá chết là
đất xấu. Vì vậy, xem cây cỏ tươi hay hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu".
Thuật phong thủy hình thành ở nền văn hóa nông nghiệp Nam-Á nên khởi đầu hoàn
toàn được xây dựng trên căn bản âm dương Ngũ hành. "Phong" và "Thủy" là hai yếu tố quan
trọng nhất, tạo thành vi khí hậu cho một ngôi nhà. Nhà xứ nóng rất cần có gió và nước.
phong là gió, động hơn thuộc dương; không có gió thì hỏng, nhưng gió nhiều quá cũng
không tốt; gió có thể bị núi đồi, mô đất hay cây to lái di, do vậy nhà phong thủy cần nắm
vững hướng gió, biết sử dụng các bình phong để lái gió theo ý mình. Thuỷ là nước, tĩnh hơn,
thuộc âm; mặt nước trước nhà sẽ tạo nên sự cân bằng sinh thái trong khuôn khổ của một vi
khí hậu; dòng nước ngoằn ngoèo, càng dài thì càng tụ, nếu phình ra thành hồ ao thì càng tụ
thêm; nước đọng (bất cập) thì tù, không tốt, nhưng nước chảy mạnh (thái quá) cũng hỏng,

chỉ có nước chảy từ từ (âm dương điều hòa) là tốt nhất.
8


Theo Ngũ hành, các thế đất được phân thành hình thủy (ngoằn ngoèo như dòng nước),
hình hỏa (nhọn như ngọn lửa). Hình mộc (dài như cái cây), hình kim (tròn), hình thổ
(vuông). Đúng theo mối tương quan giữa các phương đông- tây của Ngũ hành với hai loại
hình văn hóa, thế đất hình Kim (ứng với phương Tây du mục) được coi là sẽ phù trợ cho con
cháu phát theo đường võ, còn thế đất hình Mộc (ứng với phương Đông nông nghiệp) sẽ phù
trợ cho con cháu phát theo đường văn, nếu một thế đất có đủ cả Ngũ hành thì được coi là sẽ
phát đế vương. Người nổi tiếng hơn cả về nghề phong thủy trong lịch sử việt Nam là ông
Nguyễn Đức Huyên đời Lê, người làng Tả Ao (Nghi Xuân, Nghệ An), tục gọi là cụ Tả Ao,
để lại nhiều sách dạy nghề này.
Lực âm dương vận động trong lòng đất, chạy thành mạch. Truyền thống văn hóa nông
nghiệp Nam-Á coi trọng bên trái (phương Đông) hơn bên phải (phương Tây), nên mạch đất
được gọi là long mạch (long = Rồng = phương Đông theo Ngũ hành), việc tìm đất gọi là tầm
long, công cụ để tìm đất là cái tróc long và la bàn (la bàn lớn hơn cái tróc long, đầy đủ thông
tin hơn, dùng để phân kim điểm huyệt).
Phép tầm long, trước hết phải tìm tổ sơn, rồi dò theo long mạch mà tìm đến huyệt.
Huyệt trường là thế đất có án che phía trước (gọi là tiền án. có khi là một quả đồi), chẩm làm
chỗ dựa phía sau (gọi là hậu Chẩm, có khi là một trái núi), bên trái có tay Long và bên phải
là tay Hổ (gọi là tả Thanh Long, hữu Bạch Hồ). Tay Long và tay Hổ có thể là đồi núi, bờ
ruộng, dưới dạng hai vành móng ngựa lồng vào nhau: tay Long (= bên trái, phương Đông)
phải lồng ra ngoài tay Hổ (= bên phải, phương Tây). Huyệt còn phải có chỗ trũng nước tụ lại
ở phía trước (Minh đường) và chỗ trũng ở phía sau (Não đường). Long mạch có thể lớn hoặc
nhỏ: lớn nó có thề gồm cả một vùng lãnh thổ, với những dãy nhiều ngọn núi trên một tay
Long có thể có nhiều điểm kết, điểm kết nhất gọi là Hàm Rồng.
Các kinh đô khi xưa đều là những địa điểm được chọn theo con mắt phong thủy. Trong
Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn miêu tả vị trí thành Đại La - mà rồi sẽ được đổi tên là Thăng
Long như sau "Thành Đại La ở vào nơi trung tâm Trời Đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi;

đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng,
đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực
phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa". Thành Huế ở trung tâm
đất nước, nhìn rộng thì có biển đằng trước, núi đằng sau; nhìn hẹp thì có núi Ngự Bình ở
phía trước làm án, sông Hương chảy lững lờ bao quanh, trên sông ở hai đầu có hai cồn đất
như hai hòn đảo chầu vào - cồn Dã Viên ở bên phải là Bạch Hổ, cồn Hến ở bên trái lớn hơn
9


là Thanh Long, đoạn sông nằm giữa hai cồn đất ấy chính là Minh Đường. Con mắt phong
thủy đã giúp tìm cho các đô thị những địa thế có núi có sông, có âm dương hòa hợp, tạo nên
một môi trường thiên nhiên trong sạch và lành mạnh: Thăng Long có sông Nhị núi Nùng;
Huế có sông Hương núi Ngự; Vinh có sông Lam núi Hồng Lĩnh; Đà Nẵng có sông Hàn núi
Sơn Trà...
Ngoài ra, trong việc "chọn nơi mà ở", người Việt, với tính cộng đồng nông nghiệp của
mình, rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng xung quanh. Đến thời kì kinh tế hàng
hóa đã phát triển, người Việt còn rất coi trọng việc chọn vị trí giao thông thuận tiện: nhất
cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ. Những đô thị có tốc độ phát triển nhanh đều là đô thị gần
biển, sông, có giao thông thuận tiện. Các thôn ấp miền Nam và các khu dân cư mới hình
thành đã từ bỏ cách tổ chức theo xóm làng với lũy tre khép kín cổ truyền mà chuyển sang
quy tụ theo trục đường sông, đường bộ. Trong đô thị, vị trí nhà mặt tiền được đánh giá cao.
Tuy nhiên các yếu tố phong thủy và cộng đồng vẫn không bị lãng quên; khi xét đến nhiều
tiêu chuẩn thì yếu tố hàng xóm (lân) vẫn được xếp vào thứ hai: nhất cận thị, nhị cận lân,
tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền.
Biện pháp thứ ba để đối phó với môi trường tự nhiên là tận dụng tối đa thế mạnh của
môi trường tự nhiên trong việc chọn và sử dụng vật liệu xây dựng.
Vật liệu xây dựng tự nhiên sẵn có nhất là tre. Cây tre có mặt ở khắp nơi. Tre có tác
dụng cải thiện môi sinh, làm cho không khí mát mẻ, che chắn gió bão, được dùng làm vật
liệu quan trọng cho việc làm nhà. Họ hàng nhà tre theo đặc tính của mình mà được phân
công mỗi loại một việc: bương, vầu thân to dầy, đốt ngắn chịu sức nén khỏe có thể làm cột

nhà; tre đằng ngà thân gần như đặc lại dẻo nên chịu sức kéo tốt có thể dùng làm đòn tay;
mai thẳng và dày đều được bổ ra thành lá làm sàn nhà cho bà con miền núi; nứa mỏng có thể
đập dập lợp mái hoặc đan vách; rồi còn hóp, luồng, trúc, giang, mây, song.... Để chống mối
mọt, lạt mây tre phải luộc trước khi chẻ, chẻ rồi phải gác bếp cho khói xông; tre ngâm
khoảng một năm dưới bùn ao khi vừa vớt lên mềm như sợi bún rất dễ uốn, còn khi để khô
thì có khả năng chống mối mọt rất hiệu nghiệm. Tổng hợp và linh hoạt như thế, tre xứng
đáng là hình ảnh biểu trưng cho tính cách Việt Nam, cho cái đẹp Việt Nam: Trúc xinh trúc
mọc đầu đình, em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Sau tre thì đến gỗ. Gỗ quý và lí tưởng để làm nhà, để xây dựng đình chùa, cung điện là
gỗ tứ thiết: đinh, lim, sến, táu. Còn để làm nhà dân gian thì phổ thông hơn cả là xoan, mít.
Người nông thôn khi lập gia đình và làm nhà thường bao giờ cũng trồng một bụi tre ở góc
10


vườn, một hàng xoan, vài gốc mít - đó là do tinh thần cộng đồng, thói quen lo xa: lối sống vì
tương lai của người Việt Nam: tre, xoan, mít, đó là chuẩn bị cho 20 năm sau con mình có vật
liệu làm nhà. Thân xoan cao, thẳng, phần gốc dể tròn làm cột, phần trên đẽo gọt làm xà,
kèo....; gỗ xoan đắng (do chất nhựa) có tác dụng chống mối mọt lí tưởng: Nhà gỗ xoan, quan
ông nghè.
Lợp mái thì phổ biến là các vật liệu thực vật: rơm rạ, lá cọ (lá gồi), lá dừa nước, cỏ
tranh, nứa đan thành tấm. Ở một số địa phương miền Nam trên rui mè người ta đổ một lớp
đất sét rồi mới lợp lá gồi lá dừa nước lên trên - đất sét có tác dụng cách nhiệt (chống nóng)
và chống cháy rất tốt.
Nung đất làm gạch xây tường và ngói lợp mái là một nghề thủ công rất phổ thông và
cổ truyền có từ ngàn xưa. Ngói có nhiều loại với các chức năng khác nhau: ngói ống, ngói
chiếu, ngói âm dương, ngói vảy rồng, ngói mũi hài, ngói lưu li (tráng men),... Gạch thì ngoài
gạch chữ nhật, gạch vuông thông thường còn có các loại gạch chuyên dụng như gạch hộp
(có kích thước lớn), gạch múi bưởi (xây cửa vòm), gạch có mộng, gạch thước thợ, gạch tròn,
gạch đa giác....
Để xây tường thì hỗn hợp vỏ ốc vặn đốt thành than, vôi vỏ sò nghiền nát, trộn với cát

giấy hàn hay rơm nếp vò nát luyện với vỏ xây dè đặt (hoặc các loại cây khác tùy địa phương)
và mật mía tạo nên một chất kết dính lí tưởng; nó được dùng để đắp những con rồng,
phượng, nghê, sấu.... trên nóc đình đắp những đầu đao cong vút rất bền vững với thời gian.
Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà Việt Nam truyền thống là rất động và
linh hoạt. Toàn bộ ngôi nhà được hình thành trên cơ sở một bộ khung chịu lực hình hộp với
sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận trong một không gian ba chiều:
- Chiều đứng, trọng lực của ngôi nhà phân bố đều vào các cột (cột cái, cột con, cột
hiên) và dồn xuống các viên đá tảng kê chân cột;
- Chiều ngang, các cột được liên kết bằng các kẻ (bẩy, câu đầu) tạo nên các vì kèo;
- Chiều dọc ngôi nhà, các vì kèo được liên kết lại với nhau bằng các (xà nóc, xà
thượng, xà trung, xà hạ, xà chân).
Để tăng thêm sự vững chắc cho ngôi nhà. các cột phải được đẽo theo hình đầu cán cân,
chân quân cờ (ngọn cột nhỏ, gần gốc phình to và chân cột thắt lại theo tỉ lệ 6-10-8), khi
dựng vì kèo thì các cột phải đứng theo thế choãi chân gọi là thượng thu hạ thách (thách 2
phân cho mỗi thước cao của cột). Không cần đến móng, tường, tường đất, vách nứa, hoặc
ván bưng xung quanh chỉ có tác dụng che nắng mưa chứ không chịu lực.
11


Tất cả các bộ phận của ngôi nhà được lắp ghép lại bằng dây buộc, néo. con xỏ (đối với
nhà tre) hoặc mộng (đối với nhà gỗ). Mộng là phần gờ lồi ra của một bộ phận này lắp khít
vào chỗ lõm có hình dáng và kích thước tương ứng ở một bộ phận khác (theo nguyên lí âm
dương). Kĩ thuật ghép mộng áp dụng cho toàn bộ đồ mộc truyền thống, từ nhà đến giường
tủ, bàn ghế.... tạo nên sự liên kết chắc chắn nhưng lại rất động và linh hoạt. Khi di chuyển
chỉ cần làm ngược lại là có thế tháo dỡ ra rất dễ dàng.
Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi biết rằng vua Gia Long đã cho dỡ một số cung
điện của thành Hà Nội chở theo đường thủy vào dựng ở Huế; ngược lại, một nhà thờ họ ở
Huế đã được chở ra Hà Nội dựng ở làng Vẽ; đền Hai Bà Trưng và chùa Trấn Quốc ở Hà Nội
đã được di chuyển từ ngoài bờ sông vào trong đồng để tránh lụt. Cũng để tránh lụt mà vào
năm 1903, đình Chèm ở bờ sông phía bắc Hà Nội đã được nâng cao hơn so với mặt nền cũ là

6 thước ta. Với kiều nhà này, việc mua bán nhà và đất là hai việc khác hẳn nhau.
Để thống nhất kích thước, trong khi phương Tây dùng bản vẽ kĩ thuật phức tạp, chi li
và cứng nhắc thì người Việt Nam dùng cái thước tầm (còn gọi là rui mực sào mực). Đó là
một thân tre bổ đôi dài hơn chiều cao của cột cái, trong lòng máng vạch những kí hiệu cho
phép xác định các khoảng ngang, khoảng đứng và khoảng chảy, từ đó mà ấn định được kích
thước của các bộ phận như chiều cao của cột hiên, cột con, cột cái...Cấu tạo của thước tầm là
chung cho mọi nhà, nhưng mỗi thước lại được tính theo một đơn vị gốc mang tính rất cá biệt
là đốt gốc ngón tay út hoặc gang tay của người chủ nhà (truyền thống coi con người là trung
tâm, lấy kích cỡ con người làm chuẩn để đo đạc tự nhiên và vũ trụ). Thành ra nhà nào thước
ấy, không thể mượn thước người khác mà làm nhà cho mình được. Thước tầm trở thành vật
xác định quyền sở hữu ngôi nhà của chủ nhân. Khi hoàn thành nhà, phải làm lễ cài sào để
báo cáo với thần linh thổ địa và long trọng đưa cây thước tầm lên gác ở vị trí cao nhất dưới
nóc giữa hai vì kèo. chỉ khi nào cần sửa chữa thì thợ cả mới lấy xuống để đo cắt các chi tiết
thay thế.
Về hình thức kiến trúc thì ngôi nhà Việt Nam là tấm gương phản ánh đặc điểm của
truyền thống văn hóa dân tộc.
Hình thức kiến trúc của ngôi nhà Việt Nam phản ánh truyền thống coi trọng bên Trái
(phía Đông) của văn hóa nông nghiệp. Ngoài những điều đã nói về chiếc đòn đông có đầu
gốc ở phía trái (phía Đông), về cái bếp luôn đặt phía trái (phía Đông),... ta còn có thể gặp
hàng loạt sự kiện thú vị khác. Một tòa thành có nhiều cửa thì cửa chính nằm phía Nam; còn
nếu có hai cửa nhìn về phía Nam thì cửa chính là cửa tả (bên trái, phía Đông). Ở Nam Bộ,
12


nếu trong nhà có thờ tổ tiên của cả hai họ thì bàn thờ họ nội đặt bên trái (phía gốc của cây
đòn dông, phía đông) và họ ngoại đặt bên phải; cha mẹ đã qua đời thì bàn thờ cha mẹ đặt
bên trái (vì gần gũi hơn), bàn thờ ông bà đặt bên phải.
Hình thức kiến trúc ngôi nhà Việt Nam còn tuân thủ nguyên tắc coi trọng các con số
ước lệ, nhất là số lẻ theo truyền thống văn hóa nông nghiệp. Bước vào cổng là cổng tam
quan; bước lên bậc là bậc tam cấp; các kiến trúc lớn đều dựng theo lối nhà tam tòa. Các tòa

thành như thành Cổ Loa, thành Huế đều có kiến trúc 3 lớp vòng thành. Ngọ Môn ở Huế nhìn
chính diện có ba cửa (số 3) dành cho Vua và quan lại, thêm hai cửa phụ hai bên cho lính và
súc vật (số 5), trên nóc có 9 nhóm mái (ca dao Huế : Ngọ Môn 5 cửa 9 lầu - Cột cờ 3 cấp,
Phú Văn Lâu 2 tầng). Số gian của một ngôi nhà, số bậc của cầu thang trong nhà bao giờ
cũng lẻ. Nói chung, khi có khả năng lựa chọn thì kiến trúc nhà cửa cho người sống đều chọn
các sô lẻ vì số lẻ là dương (dương = động; động là sự sống và động còn phù hợp với tư duy
linh hoạt của văn hóa nông nghiệp). Trong khi đó thì nhà cho người chết- nhà mồ - của các
dân tộc (ở Việt Bắc, Tây Nguyên) lại chọn các số chẵn (ví dụ, số bậc cầu thang), vì số chẵn
là số âm (âm = tĩnh, chết).
3. . Một số kiểu nhà truyền thống tiêu biểu
a. Loại nhà sàn:
Nhà sàn là kiểu nhà truyền thống lâu đời của cư dân Đông Nam Á, kiểu nhà này hoàn
toàn thích ứng với điều kiện tự nhiên của phương Nam nóng ẩm. Nhà sàn đáp ứng được
những nhu cầu cấp thiết như: chống ẩm thấp, chống thú dữ, khắc phục được điều kiện địa
hình không bằng phẳng của vùng đồi núi. Đại bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam từ xưa đến nay vẫn duy trì cuộc sống trong những căn nhà sàn. Tuy nhiên, nhà sản của
mỗi dân tộc đều có kiểu dáng riêng của mình; đồng thời tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của
từng gia đình mà quy mô, chất liệu của các ngôi nhà sàn cũng khác nhau. Nhưng đặc điểm
chung của một ngôi nhà sàn bao giờ cũng phải có bộ khung nhà bằng gỗ, bao gồm bộ cột,
các đường xà, hạ, kèo. Sàn nhà có thể lát bằng nhiều loại vật liệu khác nhau như: sàn gỗ, sàn
tre nứa; mái nhà lợp bằng tranh cỏ, rạ hoặc bằng nứa; khi đời sống kinh tế phát triển thì lợp
bằng ngói. Vách nhà sàn có thể được che bằng ván gỗ, nhưng thường là bằng phên nứa. Hai
đầu nhà sàn thường có hai chái hồi khá rộng, một đầu làm chỗ nghỉ của cầu thang vào nhà,
một đầu dùng làm nơi rửa, chuẩn bị bữa ăn. Gầm nhà sàn là một phần không gian quan
13


trọng, độ cao của gầm sàn không thống nhất, nhưng thường bằng tầm chiều cao của người đi
lọt. Gầm sàn là nơi để các dụng cụ lao động sản xuất và là nuôi nhốt gia súc, gia cầm. Hiện
nay, ở nhiều nơi người dân đã di dời chuồng trại gia súc ra khỏi gầm nhà sàn. Cầu thang là

một bộ phận không thể thiếu của nhà sàn, song vị trí đặt cầu thang cũng như kiểu dáng của
cầu thang của các dân tộc cũng rất khác nhau; cầu thang có thể đặt ở đầu hồi nhà, có thể đặt
ở gian giữa nhà; có những dân tộc cầu thang được làm bằng một thân cây, các bậc lên xuống
được khoét vào thân cây. Nhà sàn có thể chỉ có một cầu thang, những cũng có thể có hai cầu
thang chính và phụ hoặc cầu thang dành riêng cho phụ nữ, cho nam giới… Cùng với sự biến
đổi của xã hội, ngôi nhà sàn truyền thống cũng thường xuyên có nhiều thay đổi về quy mô,
kiểu dáng và chất liệu xây dựng.
- Nhà sàn của người Thái

Nhà ở phổ biến của người Thái từ xưa đến nay là nhà sàn. Nhà sàn của người Thái
Trắng có nhiều điểm giống với nhà sàn của người Tày, người Nùng; còn nhà sàn của
người Thái Đen lại giống với kiểu nhà của người Môn - Khme. Tuy vậy, nhà người Thái
Đen có những đặc trưng mà nhà của cư dân Môn-Khme không có, như: nhà người Thái
Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi
để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang
trí khác nhau.
Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là kiểu vì khứ kháng và kiểu vì khay điêng. Vì
khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa thì thành kiểu vì khay điêng - Kiểu
vì này gần giống với kiểu vì nhà của người Tày-Nùng.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc đáo: các gian đều có
tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành làm nơi ngủ của các
thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp, đồng thời cũng là nơi dùng để tiếp
khách nam giới. Nhà được dựng trên một khoảng đất rộng, bằng phẳng, trước nhà thường
phải có song hoặc khe suối, đầm nước; xung quanh nhà là vườn cây ăn quả...
Cấu trúc nhà sàn thường làm 3 hoặc 5 gian, gian ngoài để tiếp khách, ăn cơm, uống
rượu cần. Nếu khách ở xa nghỉ lại, thì chủ nhà sắp xếp gối, chăn, nệm, màn ở gian ngoài.
14


Nệm và gối được làm bằng bông lau và chất vải thổ cẩm do bàn tay khéo léo của người

phụ nữ Thái dệt nên. Nhà sàn của người Thái làm bằng gỗ các loại như: săng lẻ, lim, chò
chỉ… mái lợp có thể bằng gỗ, lá cọ, ngói hoặc tôn…. tùy vào hoàn cảnh kinh tế của từng
gia đình mà định liệu cách làm nhà 3 hay 5 gian, lợp tranh hay ngói, gỗ xẻ hay gỗ tròn.
Từ xưa, đồng bào Thái chuẩn bị gỗ làm nhà rất kỳ công, có khi hàng chục năm trời. Hàng
ngày vào rừng, thấy cây gỗ nào ưng ý là họ đánh dấu vào đó. Mỗi ngày một ít, khi thì cây
cột, lúc khúc xà, lúc kèo, lúc văng, đòn tay, tấm ván,… Khi có gỗ đầy đủ, họ mới bắt tay
vào làm nhà. Điều đáng nói, dụng cụ làm nhà sàn của bà con cũng rất đơn giản. Tất cả
chỉ có một cây rìu và một con dao. Rìu dùng để đẽo cột tròn, xà dọc, xà ngang… Những
nhát rìu sắc lẻm trơn tru, ngọt xớt. Đương nhiên là không thể bằng dụng cụ bào trơn,
đóng bén của cánh thợ mộc lành nghề. Kèo, xà được lắp vào cột, cũng chỉ dùng một cái
rìu đục lỗ, nếu không khít thì đẽo thêm một cái nêm để chêm vào cho chắc. Đòn tay,
chọn cây gỗ nhỏ, bóc vỏ, buộc dây thừng. Nhà dựng lên, được kê bằng những phiến đá
lớn. Đá kê nhà thường lấy ở suối hoặc tìm trong núi đá. Nhà được thưng bằng phên nứa
hoặc tấm ván đẽo mỏng. Đa số sàn nhà của người Thái được làm bằng cây tre, cây mét
hoặc cây luồng. Tre, mét, luồng, được chẻ đôi, đập mắt rồi ép xuống sàn nhà. Nhà nào có
điều kiện khá giả thì lát sàn bằng ván gỗ. Cầu thang nhà sàn của đồng bào thường làm 9
bậc. Theo cách tính dân gian gọi đó là: “ sinh-lão-Bệnh-tử”. Bậc thứ 9 trùng với chữ:
sinh, như thế gia cảnh mới an sinh, thịnh vượng. Cầu thang thường lát bằng ván mỏng và
chắc. Sàn nhà phía ngoài cầu thang là nơi để con gái ngồi thêu thùa, hóng mát hoặc trẻ
con ngồi chơi...
Thành ngữ của người Thái có câu: "Nhà có gác, sàn có cột" (Hươn mi hạn quản mí
xau). Nhà sàn của người Thái mang một nét đẹp riêng biệt, đơn sơ nhưng cũng không kém
phần bề thế, sang trọng. Ngôi nhà sàn được cấu trúc bởi các loại cây thân gỗ và các loại cây
như tre, vầu, nứa... lợp bằng cỏ gianh. Nếu ai đó đã quen với nếp sống thủ công nghiệp mà
chưa một lần được nhìn ngắm ngôi nhà của người dân tộc Thái thì khi được tận mắt ngắm
nhìn sẽ không sao tránh khỏi ngạc nhiên, vì đó là một ngôi nhà sàn khá đồ sộ như nhà của
các gia đình quý tộc ngày xưa mà "không phải dùng đến một mẩu sắt nhỏ nào trong thiết kế
xây dựng". Thay vào những cái đinh là cả một hệ thống dây chằng, buộc thắt khá công phu
và tinh xảo bằng lạt, tre, giang và mây, hoặc vỏ những cây chuyên dùng như năng hu, năng
xa, năng xiểu. Khi làm nhà, để nối cái cột kèo, người Kinh thường lắp mộng thắt, còn nhà

15


sàn người Thái sử dụng những đòn dầm xuyên suốt qua các lỗ đục của các cột. Kiểu kiến
trúc có vẻ đơn sơ nhưng lại rất chắc chắn, nó đủ lực để chống nắng, mưa, gió, bão và đặc
biệt là động đất như hiện nay. Thậm chí có những nếp nhà sàn tồn tại tới hàng trăm năm.
Chính vẻ đẹp khác biệt của ngôi nhà mang đậm nét văn hóa truyền thống ấy đã đem đến
nguồn cảm hứng sáng tác cho một số thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ...
Nhìn vào cấu trúc mái của nhà sàn, ta có thể phân biệt kiểu nhà của từng nhóm địa
phương khác nhau:
Nhà sàn của người Thái đen và người Thái trắng ở Tuần Giáo (Ðiện Biên) thì có mái
"vòm khum mui rùa" (tụp cống) và thường đặt ở hai đầu hồi, biểu tượng tạc bằng gỗ quét vôi
trắng tựa như hai đôi sừng gọi là khâu cút. Khâu cút có nhiều loại như: khâu cút bẻ, khâu cút
méo và khâu cút pụa là một hình thức trang trí hoa văn của dân tộc Thái đen.
Nhà sàn của người Thái trắng ở Mường Lay, Phong Thổ và Mường Tè (Lai Châu) do
có mặt phẳng cắt hình chữ nhật gần vuông nên có bốn mái thẳng và gấp góc (gọi là tụp lặn).
Một nếp nhà sàn là một đơn vị không gian chứa đựng một tế bào của xã hội nên người
Thái mới gọi là "Cộng đồng nhà" (chúa hướn). Ðó có thể là một gia đình nhỏ gồm một cặp
vợ chồng và con cái chưa đến tuổi trưởng thành để lấy vợ, lấy chồng rời ra ở riêng. Hoặc đó
cũng có thể là một gia đình lớn gồm ba, bốn thế hệ cùng chung sống hòa thuận bên nhau.
Hiện nay, trước sự phát triển và không ngừng đi lên của xã hội, người Thái đã áp dụng
những khoa học kỹ thuật để tự cải tiến và thay đổi kiến trúc nhà ở của mình. Sự cải tiến và
thay đổi ấy phần lớn do ảnh hưởng bởi cách làm nhà của người Kinh. Nhà sàn được kê và
lắp ghép theo phương pháp nối dầm vào cột bằng mộng thắt. Sự giao thoa văn hóa giữa hai
dân tộc đã tạo ra các kiểu nhà sàn đẹp đẽ và bề thế. Ngày nay, ở nhiều nơi, đặc biệt là dọc
theo đường quốc lộ và ven thị trấn, thành phố, đã có nhiều nhà sàn lắp cầu phong litô lợp
ngói (vì cỏ gianh ngày càng hiếm). Mọi người đang đua nhau xây dựng nhà ngói hai, ba,...
tầng hoặc các kiểu nhà có mái bằng xi-măng cốt thép. Bởi vậy, bước tới các bản Thái, nhất là
vùng dọc quốc lộ và ven thị trấn, thành phố, ta khó có thể tìm ra được một nếp nhà sàn cổ có
cấu trúc theo cung cách truyền thống một cách rõ rệt.

Ngày nay người Thái đang lựa chọn nhà ở hợp với không gian văn hóa truyền thống
của dân tộc mình.
- Nhà sàn của người Mường

16


Nói đến nhà ở của người Mường, ta hình dung ra ngay những nếp nhà sàn đơn sơ, mộc
mạc, nằm yên bình trong thung lũng đá vôi.
Truyền thuyết xưa kể rằng: Rùa thần vì trả ơn tha mạng của người Mường nên đã dạy
cho họ cách làm nhà: “ Bốn chân tôi là bốn cái cột. Hai vỉa sườn là hai mái nhà. Xương sống
nên đòn nóc …”. Từ đó rùa là vật linh, họ kiêng không ăn thịt rùa nữa. Một phần do địa hình
miền núi dốc, ẩm thấp, mưa lũ nhiều, làm nhà sàn vừa có thể tránh lũ, tránh thú dữ vừa cao
ráo, thoáng mát, cuộc sống an toàn hơn. Về mặt tâm linh, người Mường quan niệm có ba
mường: Mường trời trên cao dành cho các vị thần linh. Mường đất dành cho những người đã
mất, thuộc về thế giới âm. Chính vì thế họ làm nhà ở giữa hay còn gọi là Mường người, nơi
con người sinh sống. Như vậy, nhà sàn Mường không chỉ là một giá trị vật chất hiện hữu của
mấy ngàn năm lịch sử, thể hiện quá trình tiếp nối, cải biên, sáng tạo lối kiến trúc của người
Việt cổ, để mô phỏng, khai thác, thích ứng với tự nhiên, mà còn là một không gian tinh thần
chứa đựng những giá trị nhân sinh, tín ngưỡng, phong tục, tập quán lâu đời của người
Mường.
Kiến trúc truyền thống của nhà sàn Mường cơ bản dựa trên nguyên vật liệu như: gỗ,
tre, nứa, lá, kết hợp với một chút đất đá. Khung nhà sàn được hình thành trên cơ sở các vì
trung gian. Đây là loại vì bốn cột: hai cột cái bên trong, đầu cột đấu vào quá giang và đôi
đòn tay cái; hai cột cái bên ngoài khớp với chân kèo, cả bốn cột được gia cố liên kết nhau
bởi dầm sàn nên càng thêm chắc chắn. Nhà có bốn mái dốc hình mu rùa. Mái được nâng đỡ
bằng một bộ xương các vì kèo, được gá lỏng lẻo vào các vì cột bằng cách sử dụng các
ngoãm và dây buộc. Sàn nhà được làm bằng gỗ hoặc bằng tre, vừa để ở, vừa đặt bếp, để thóc
lúa, gầm sàn cất giữ công cụ lao động, củi đun, nhốt trâu bò, lợn gà, đặt máng vò lúa, cối
xay, giã gạo. Cầu thang chính đặt ở đầu hồi nhà, nối lên gian nhà ngoài – nơi đặt bàn thờ tổ

tiên và tiếp khách nam giới. Cầu thang phụ dành cho phụ nữ, nối lên gian nhà trong, gần sàn
phơi và bếp. Khi xếp chỗ ngồi,quan Lang, người cao tuổi, đàn ông trong gia đình luôn được
ngồi phía nhà trên.
Có thể khẳng định, nhà sàn Mường mang tính đa năng, hữu dụng nhưng cũng thể hiện
được những nét văn hoá đáng được trân trọng, lưu giữ và phát huy của dân tộc này.
- Nhà dài của người Ê Đê
17


Nhà dài là một nét đặc sắc của cư dân Tây Nguyên, trong đó có người Ê Đê, nó tiêu
biểu cho chế độ mẫu hệ của người Ê Đê. Nó còn là biểu tượng cho sự gắn bó giữa con người
với cộng đồng, giữa con người với thiên nhiên. Trước đây, tất cả mọi sinh hoạt của đại gia
đình đều diễn ra trên mặt nhà sàn. Đây là nơi sinh sống của nhiều thế hệ người và của nhiều
gia đình có cùng dòng máu, có nhà dài là nơi sinh sống của hơn một chục gia đình ghép lại,
đứng đầu là một bà chủ. Nhưng do sự thay đổi về nhận thức xă hội, nên cấu trúc đại gia đình
nhiều thế hệ sinh sống dưới cùng một mái nhà bị phá vỡ, thay vào đó là những gia đình hạt
nhân, gia đình nhỏ từ 2 đến 3 thế hệ sinh sống. Vì vậy, những ngôi nhà dài của dân tộc Ê Đê
trở nên không phù hợp với nhu cầu sinh hoạt hiện nay và thay vào đó là những ngôi nhà đơn
giản, dễ xây dựng và tiện dụng. Cho nên, kiểu nhà dài sống nhiều gia đình dần biến mất trên
vùng cao nguyên lộng gió này.
Người Ê Đê có truyền thống sống thành từng làng, mỗi làng là một điểm cư trú: dân
làng ở quây quần bên nhau một chỗ, không hình thành các chòm xóm nhỏ cách xa nhau
trong làng, và cũng không tản mạn núi này đồi nọ như ở nhiều nơi khác. Làng của người Ê
Đê bao giờ cũng được định vị hợp lý theo tập quán cổ truyền. Quan sát nơi cư trú của các
làng người Ê Đê đều thấy nó đáp ứng một số yêu cầu chung: Trước hết, phải tiện nguồn
nước, đặc biệt là nguồn nước sạch. Đồng thời làng phải cao ráo, thoáng đăng. Quan trọng
nữa là, chỗ ở và vùng canh tác không quá xa nhau, có lợi thế để dân làng có thể khai thác
rừng và đất rừng xung quanh được lâu năm. Trong làng, nhà cửa dựng san sát, khoảng cách
giữa hai nhà cạnh nhau thường chỉ dăm mười mét. Quan sát riêng rẽ từng nhà có thể thấy sự
phong quang khoáng đăng. Thậm chí, có cảm giác đơn điệu về sự sắp xếp giữa các nhà. Nhà

dài có thể dài từ trên 30m cho đến 200m, giờ nó chỉ còn là hình ảnh hay lời kể của những
người nhiều tuổi, đây là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy Viện bảo tàng Dân tộc học tái tạo
lại một mô hình ngôi nhà dài Ê Đê với kích thước thật dài 60m để giữ lại phần nào tinh hoa
văn hoá của người Ê đê nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung.
Trước khi đi vào ngôi nhà dài phải hiểu được người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ, vì vậy
trong gia đình cũng như ngoài xã hội, người phụ nữ có quyền trong gia đình. Một trong
những quyền đó là quyền cưới chồng, con gái lấy họ mẹ và có vị trí đặc biệt trong gia đình.
Nên tính mẫu hệ chính là nét tiêu biểu trong cấu trúc toàn bộ ngôi nhà dài. Có thể nói nhà cổ
truyền của người Tây Nguyên phổ biến là loại nhà dài. Cách đây chừng 40 - 50 năm về
trước, nhà dài vẫn hiện diện rộng khắp chiếm đa số ở Tây Nguyên. Có những ngôi nhà dài
tới hàng trăm mét, cho nên được ví von bằng những hình tượng mang âm thanh như: dài như
18


tiếng chiêng ngân. Nhà dài là nơi cư trú của nhiều gia đình "hạt nhân", tức cặp vợ chồng
cùng các con của họ. Các gia đình thành viên sống dưới một nóc nhà dài có quan hệ huyết
thống với nhau và nếu trong gia đình có người sắp chuẩn bị lập gia đình ngôi nhà lại được
kéo dài ra thêm, cứ thế ngôi nhà ngày càng được dài ra. Ngôi nhà mà càng dài thể hiện được
sự giàu có và sự trường tồn của một gia đình.
Do đó, vật liệu để dựng nên một ngôi nhà dài phải là một thứ nguyên vật liệu giản đơn
dễ tìm kiếm, nên nhà dài Ê Đê ở được làm bằng các vật liệu thảo mộc kiếm trong rừng, chủ
yếu là gỗ, tre nứa các loại, dây buộc, cỏ gianh (hoặc một số loại lá rừng khác để lợp nhà).
Nhà dài chính là nhà sàn được dựng lên từ những cột gỗ to, khác với nhà sàn các đồng
bào dân tộc phía Bắc, sàn của nhà dài cách mặt đất chỉ trên 1 mét, phía dưới đơn thuần để
thoáng mát chứ không làm chỗ chăn nuôi. Nhà đa số có 2 mái, ít thấy nhà 4 mái. Cũng
không có truyền thống kết cấu khung nhà trên cơ sở các vỉ kèo như kiểu nhà người Kinh.
Nét đặc sắc của ngôi nhà dài Ê Đê kiểu cổ truyền là tính mẫu hệ nổi lên rất rõ. Ngay từ chiếc
cầu thang ván khi bước lên sàn là thấy ngay đôi bầu sữa và vành trăng khuyết là những biểu
tượng sống động của nữ tính, của chế độ mẫu hệ trong đời sống văn hóa của người Ê Đê.
Nếu như trang trí nghệ thuật ở ngôi nhà dài Ê Đê là những hình khắc gỗ trên thân cột, quá

giang, cầu thang ván, phản ánh tính chất mẫu hệ của xă hội thường. Ta gặp rất nhiều hình
ảnh nồi bung được tạc trên đầu các cột, đây là biểu trưng gắn với vị thế của người phụ nữ.
Được bắt nguồn từ những công việc hàng ngày trong lao động sản xuất, trong săn bắt bên
ngoài, qua việc tiếp xúc với môi trường thiên nhiên, hay qua tình cảm, tâm niệm của mình,
người Ê Đê đă đưa vào trong không gian sống của mình những hình ảnh quen thuộc có thể
thấy trên xà ngang của ngôi nhà có hình những con voi đang bước những bước nặng nề,
những con thằn lằn, hay những chú rùa. Rồi những hình tượng cặp sừng, bầu sữa của người
phụ nữ, hay trăng khuyết tất cả đều là biểu tượng đặc sắc và rơ nét của sinh hoạt văn hóa cư
dân mẫu hệ.
Nhà dài được cấu trúc thành hai phần, người Ê Đê gọi là 2 tum, một phần để sinh hoạt
cộng đồng, để tiếp khách được gọi là gar, phần này chiếm một 1/3 ngôi nhà. Phần còn lại
người ta gọi là ốp nơi sinh hoạt cho các gia đình nhỏ. Gian khách chính là nơi thể hiện được
niềm tự hào về sự sung túc giàu có của từng gia đình, do đó nó thể hiện được nét văn hóa nổi
bật nhất của người Ê Đê, nơi đây lưu giữ những nhạc cụ cồng chiêng, chiếc trống lớn và cả
những chiếc ghế to được làm ra bằng cả một thân cây. Đây là nơi sinh hoạt cộng đồng, là nơi
hội họp, nơi tiếp khách. Tất cả mọi sinh hoạt lễ nghi đều được diễn ra ở chính phòng khách
19


này từ cuới xin, ma chay, cúng lễ, những cuộc uống rượu cần. Đây là điểm nổi bật mà ít ngôi
nhà nào của các dân tộc khác có được.
Ngôi nhà dài của người Ê Đê chính là biểu tượng cho sự gắn bó của con người với
cộng động, với sông núi, với mảnh đất bazan đầy nắng và gió. Nên tất cả những sinh hoạt
hàng ngày được sắp xếp cho phù hợp với những yêu cầu khách quan của môi trường sống,
của các mối quan hệ... Ngược lại với phòng khách được trang trí hết sức cầu kỳ, phòng ngủ
lại mang dáng vẻ khiêm nhường, giản dị hơn rất nhiều. Nó được chia ra thành nhiều ô nhỏ
ngăn bằng những tấm nan tre tuỳ thuộc và số hộ sinh sống trong căn nhà dài, tương đương
với nó là những bếp ăn nhỏ được kê đối diện. Do tính chất mẫu hệ nên những buồng nhỏ này
thường để cho các cô con gái lấy chồng về ở rể, con trai khi đi lấy vợ lại phải ở nhà vợ.
Cũng như ngôi nhà, mọi vật dụng cũng đều được làm bằng những nguyên vật liệu sẵn

có trong thiên nhiên, những chiếc ghế dài được làm ra từ nguyên một cây gỗ trong rừng,
chiếc trống đánh trong ngày hội được làm từ da con voi già nhất. Mọi thứ từ vật bé nhất, đến
lớn nhất đều được người Ê Đê làm ra từ mọi nguyên liệu sẵn có trên mảnh đất này. Chúng đã
giúp họ từ hàng trăm năm nay sống và sinh tồn. Người Ê Đê yêu ngôi nhà, yêu mảnh xứ sở
Tây Nguyên.
Trên vùng đất Tây Nguyên, vùng đất văn hoá truyền thống với những nét độc đáo riêng
biệt: từ ngôi nhà dài của người Ê Đê, nhà Rông của người Bana, Xê Đăng, Gia Rai, Giẻ
Chiêng... đã thực sự đóng góp vào kho tàng văn hoá Việt Nam những tri thức văn hoá lịch sử
qúy giá. Tìm hiểu những giá trị văn hoá truyền thống của các đồng bào Tây Nguyên chính là
để chúng ta càng yêu quý và trân trọng hơn về cuộc sống của những người dân sống trên
vùng đất bazan tạo thêm sự đồng cảm, đoàn kết, gắn bó các dân tộc anh em trên đất nước
Việt Nam tươi đẹp.
- Nhà dài của người Stiêng
Đến một buôn của người Stiêng ở Bù Đăng, Sông Bé, những người may mắn cuối cùng
sẽ được chứng kiến những ngôi nhà dài, chứng tích văn hóa đặc thù của các dân tộc ít người
Nam Tây Nguyên, mà ngày nay đang "tuyệt chủng" dần trước làn sóng mới của sự đổi thay.
Chiều dài mỗi căn nhà dài khoảng chừng 20m, cao chừng 3-4m, ngang 4-5m, tất cả đều
dựng bằng cây rừng, tre, lồ ô. Mái tranh lợp phủ trùm xuống các vách nhà, cách mặt đất
chừng một mét, phải lom khom mới chui được vào cửa trước ở đầu hồi.
Đối với du khách đến thăm nhà dài, có lẽ ấn tượng đầu tiên đập vào mắt là những bếp
lửa (nak) đơn sơ, xếp hàng dọc, làm bởi những viên đá đối diện với các giường giúp người ta
20


hình dung ngay số hộ gia đình (yau) tồn tại trong ngôi nhà (cứ đếm số bếp là biết có bao
nhiêu gia đình). Bếp cũng được coi là biểu tượng cuộc sống của mỗi gia đình, là nơi nấu
nướng, là "ngọn đèn" thắp sáng, là ngọn lửa để sưởi ấm cơ thể lúc giá lạnh, hay khi bệnh tật.
Giống như cái bếp của người Hoa, kho thóc của người Stiêng chính là thứ được chú trọng
trước tiên khi cất nhà mới hay cơi thêm nhà cũ. Chỗ ngủ là những sàn làm bằng tre nứa, cách
mặt đất từ 30-40cm, đồng thời cũng là chỗ sinh hoạt của mỗi gia đình. Người Stiêng đựng

nước sinh hoạt trong những trái bầu khô, nhỏ lớn khác nhau. Rượu thì đựng trong những ché
xếp hàng dài, từ vài cái đến vài chục cái, Hàng ché này nói lên sự giàu có của gia đình, dòng
họ. Người Stiêng còn có nhiều cách khác nhau để chứng tỏ địa vị của mình: Những bộ
chiêng lớn nhỏ treo trên vách nhà đơn sơ, những bộ đồ cúng, những chiếc sừng trâu giắt trên
mái nhà (vật chứng của dòng họ hay gia đình), và những cột cờ bằng tre dựng sau nhà (mỗi
cột tre biểu tượng cho một lễ đâm trâu vốn tốn kém mà gia đình đã từng tổ chức)...
Người Stiêng có tục lệ con trai lấy vợ phải về ở rể. Tuy chen chúc nhau trong một chiếc
nhà (thường từ ba đến năm hộ), nhưng cũng chẳng mấy khi có cảnh xào xáo, lục đục ở trong
nhà. Mọi người đều tuân thủ nghiêm ngặt những luật tục đã định. Sinh hoạt kinh tế của gia
đình nào thì gia đình đó tự quyết định. Nhưng nếu người bên gia đình này muốn mượn
lương thực hay đồ của gia đình khác thì nhất thiết không được lấy khi gia đình bên kia vắng
nhà. Mỗi lần có thêm gia đình riêng, người ta lại cơi mái dài thêm và lập chỗ ở mới, và cứ
thế mà ngôi nhà dài dài lại dài ra thêm mãi.
Một trường hợp đặc biệt là tổ chức nhà dài của một người đàn ông có của, có đến ba bà
vợ. Điều khá lý thú là trong ngôi nhà đó có một không khí rất chan hòa và "cơm lành, canh
ngọt" giữa ba "gia đình" với nhau. Các "gia đình" vẫn giữ trật tự sinh hoạt như trong một
nhà dài bình thường (bếp riêng, đồ dùng sinh hoạt, sản xuất riêng), nhưng duy chỉ có kho
thóc là chung. Phân công lao động khá rạch ròi: bà vợ thứ hai (cỡ tuổi "sồn sồn") phụ trách
quản lý kho thóc, bà vợ cả (đã lớn tuổi) phụ trách các nghi lễ gia đình, bà vợ thứ ba (chỉ trạc
trên 20) là người nấu nướng, coi sóc con cái; còn là thứ tư nữa thì... chưa biết sẽ được phân
làm gì vì nghe đâu ông chủ gia đình (trạc trên 50) mới đang chuẩn bị rước về. Con cái của cả
ba gia đình đều được coi là cùng một mẹ, được chăm sóc như nhau....
Giống như một viện bảo tàng cuộc sống đă qua của người Stiêng, những ngôi nhà dài
là biểu tượng cho một cuộc sống đơn sơ gắn liền với thiên nhiên và rừng núi. Và bên những
chiếc bếp lửa xếp thành hàng, là những tâm hồn mộc mạc, chân chất, những luật tục đặc
trưng không biết đă tồn tại từ bao nhiêu năm qua. Nhưng nhà dài cũng đang thay đổi. Nạn
21


phá rừng đang đẩy người Stiêng rời khỏi những truyền thống của họ. Trong nhà dài đã bắt

đầu xuất hiện những chiếc xe Cub và trên nóc của nó bắt đầu thấy những cần ăngten vô
tuyến. Và người Stiêng cũng bắt đầu sống trong những ngôi "nhà cụt", với một chiếc bếp lửa
duy nhất.
4. Đình làng
Đình là một công trình kiến trúc cổ truyền ở làng quê VN. Ban đầu đình chỉ là ngôi nhà chung
của công xã, dung vào mục đích sinh hoạt văn hóa cộng đồng, kiến trúc của đình đơn giản, được xây
dựng bằng vật liệu tranh tre, gỗ. Từ thế kỷ XV trở đi kiến trúc và chức năng của ngôi đình làng của
người Việt bắt đầu có sự thay đổi đáng kể. Từ chỗ là nơi sinh hoạt văn hóa cho tất cả mọi thành viên
trong cộng đồng, giờ đây ngôi đình làng thực hiện 3 chức năng quan trọng:
- Chức năng tôn giáo: là nơi thờ vị Phúc thần bảo hộ cho cộng đồng làng, được gọi là thần
Thành hoàng.
- Chức năng hành chính: là nơi làm việc của bộ máy chức sắc làng xã.
- Chức năng văn hóa: là nơi tổ chức các sinh hoạt lễ hội hàng năm của cộng đồng làng…
Các chức năng này bắt đầu có từ thời nhà Lê và được định hình vào thời nhà Mạc, khi mà Nho
giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà nước quân chủ. Tuy nhiên do nhiều lý do khác nhau
mà hiện nay chúng ta không còn tìm thấy những ngôi đình của thế kỷ XV, mà chỉ thấy các ngôi đình
từ thế kỷ XVI trở đi, trong đó nhiều nhất là các ngôi đình có niên đại thế kỷ XVIII, XIX thậm chí
đầu thế kỷ XX.
Trước đây đình thường chỉ có 3 gian và 2 chái. Gian giữa không có sạp, trong gian thờ Thành
hoàng. Cuối TK XVII từ gian giữa và kéo dài về sau gọi là chuôi vồ, tạo cho đình làng mang kiểu
chữ Đinh. Cuối thế kỷ 17, nhất là TK XIX, đình làng được bổ sung tòa tiền tế.
Kiến trúc truyền thống được xây dựng dựa trên những nguyên tắc của thuật phong thủy. Địa
điểm của đình khác đền chùa. Trong khi chùa và đền chuộng địa điểm tĩnh mịch, có khi u tịch, khuất
lối thì đình làng chủ yếu lấy địa điểm trung tâm. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thoáng đãng nhìn
ra sông nước. Nếu không có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng có khi đào giếng khơi để có mặt
nước phía trước đình cho đúng thế "tụ thủy" vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho làng. Kiểu xây
dựng bằng gỗ bao gồm các yếu tố nghiêng về trang trí và chạm khắc.

22



Phía trước đình làng thường có sân rộng, hồ nước cây xanh tạo cảnh quan. Kiến trúc đình làng
có thể chỉ 5-7 gian, hoặc có thể có tới 7 gian hai chái như ở đình làng Đình Bảng. Đây cũng là số
gian lớn nhất mà kiến trúc cổ Việt nam có được. Đình làng thường phổ biến loại bốn mái, có khi
cũng phát triển thêm loại tám mái (kiểu chồng diêm) do những ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa
về sau này. Mặt bằng đình có thể là kiểu chữ Nhất (一 ) (kiểu này thường thấy ở các đình cổ, thế kỷ
XVI); hoặc quy mô, phức tạp hơn với những bố cục mặt bằng có tên gọi theo dạng chữ Hán: chữ
Đinh (一), chữ Nhị (一), chữ Công (一), chữ Môn (一)... Đây là các dạng mặt bằng xuất hiện về sau, bổ
sung cho sự phong phú của đình làng Việt Nam, đi liền với quá trình phát triển thêm về mặt chức
năng của đình làng. Không gian cảnh quan, kiến trúc đình làng thường phát triển cả phía sau, phía
trước và hai bên, với nhiều hạng mục: hậu cung, ống muỗng (ống muống), tường cánh gà, tiền tế,
các dãy tả vu, hữu vu, tam quan, trụ biểu, hồ nước, thủy đình... Trong bố cục đó, không gian chủ yếu
vẫn là tòa đại đình (đại bái), là nơi diễn ra các hoạt động hội họp, ăn khao, khao vọng, phạt vạ... của
dân làng. Đại đình bao giờ cũng là tòa nhà lớn nhất trong quần thể, bề thế, trang trọng. Đại đình ở
các đình cổ thường có sàn lát ván, cao từ 60 đến 80 cm, chia làm ba cốt cao độ, là sự phân chia thứ
bậc cho những người ngồi ở Đại đình. Ở những tòa Đại đình của các ngôi đình chưa có hậu cung,
bàn thờ Thành hoàng được đặt ở chính gian giữa đại đình; gian này không lát ván sàn và có tên là
"Lòng thuyền".
Hậu cung là nơi đặt bàn thờ Thành hoàng. Trong hậu cung có cung cấm, là nơi đặt bài vị, sắc
phong của vị thần làng. Xung quanh hậu cung thường được bít kín bằng ván gỗ, không trổ cửa sổ,
tạo không khí uy nghiêm và linh thiêng.
Đình làng không những có giá trị về mặt kiến trúc cao, là kiến túc thuần Việt nhất của dân tộc,
mà còn là kho tàng hết sức giá trị về mặt điêu khắc dân gian. Đây là thế giới cho nền nghệ thuật điêu
khắc dân gian phát triển mạnh mẽ. Trên các vì kèo, tất cả các đầu bẩy, đầu dư, đố, xà kẻ, ván gió,
ván nong (dong)... là nơi các nghệ sĩ điêu khắc dân gian chạm khắc các đề tài tái hiện cuộc sống và
lao động của con người, cảnh sắc thiên nhiên giàu tính dân gian và phong phú, sinh động. Chính vì
vậy, các điêu khắc đình làng còn có giá trị to lớn trong việc nghiên cứu về cuộc sống vật chất, tinh
thần của người Việt Nam trước đây. Nó có giá trị lịch sử sâu sắc.
Đình làng thường là một ngôi nhà to, rộng được dựng bằng những cột lim tròn to thẳng tắp đặt
trên những hòn đá tảng lớn. Vì, kèo, xà ngang, xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim. Tường

đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, hai đầu hồi xây bít đốc hoặc làm bốn góc đầu đao
cong. Trên nóc đình là hai con rồng chầu mặt nguyệt, tục gọi là "lưỡng long triều nguyệt" hay
"lưỡng long tranh châu".
23


Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con nghê.
Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành hoàng. Một chiếc
trống cái cũng được để trong đình để hiệu triệu dân làng khi có việc cần…
Một số đình làng tiêu biểu:
Đình Tây Đằng, đình Bát Tràng, đình Chu Quyến (Hà Nội),
Đình Thổ Tang (Vĩnh Phúc)
Đình Thổ Hà, đình Phù Lão (Bắc Giang)
Đình Hoành Sơn, đình Võ Liệt (Nghệ An)
Đình Hoa Vân Hải (Hà Tĩnh)…

CÂU HỎI ÔN TẬP HP KIẾN TRÚC TRUYỀN THỐNG VN

24


1. Trình bày lược sử kiến trúc truyền thống Việt Nam.
2. Những tác động của điều kiện tự nhiên đến kiến trúc truyền thống Việt Nam. Lấy ví dụ minh họa.
3. Ảnh hưởng của văn hóa kiến trúc thế giới (kiến trúc Trung Hoa, Ấn Độ, kiến trúc phương Tây) đến kiến
trúc truyền thống Việt Nam. Lấy ví dụ minh họa.
4. Những đặc điểm kiến trúc nhà ở truyền thống của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc bộ.
5. Các loại hình nhà sàn tiêu biểu của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam (nhà ở của: người Thái, người
Mường, người Ê đê, người Stiêng).
6. Đặc điểm kiến trúc đình làng của người Việt. Hãy kể tên một số đình làng tiêu biểu.
7. Phân loại kiến trúc truyền thống Việt Nam.

8. Các loại hình kiến trúc cổ tiêu biểu liên quan đến tín ngường, tôn giáo ở Việt Nam.
9. Diễn biến của kiến trúc ngôi chùa Phật giáo ở Việt Nam (qua thời gian và không gian).

25


×