Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á 1997 và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.25 KB, 28 trang )

Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế
trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Dấu hiệu của
Khủng hoảng tài chính là:
+ Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
+ Các khách hàng vay vốn , gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn
trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
+ Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở CHÂU Á 1997 VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm
1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn,
và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi
như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là
Khủng hoảng tiền tệ Đông Á.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc
khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự
sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam
không bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng,
song nền kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản
thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á,


nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính
trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và
Hoa Kỳ.
1. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
1.1 Những nguyên nhân chủ quan
a. Thâm hụt tài khoản vãng lai(THTKVL), nền kinh tế phát triển mất cân đối, nền
tảng kinh tế vĩ mô yếu kém.


Xét về mức độ, tuy có khác nhau nhưng nhìn chung kinh tế Thái Lan và một số nước
Đông Nam Á, tăng trưởng nóng tạo nên tốc độ phát triển kinh tế cao trung bình từ
7,5-8% trong những năm qua đã ngấm ngầm báo hiệu những sự mất cân đối dẫn đến
khủng hoảng tài chính.
Trước hết thể hiện sự mất cân đối bên trong đó là mâu thuẩn giữa tốc độ tăng trưởng
quá nhanh tạo nên sức ép đối với giá cả do chi phí sản xuất kinh doanh ngày một
tăng. Đối với Thái Lan chỉ số giá tiêu dùng tăng nhanh, đạt mức 5,6% năm 1996 so
với 3,4% năm 1993. Chính phủ vì thế phải tăng mức lương tối thiểu, trung bình
8,5%/năm, trong khi đố năng suất lao động chỉ tăng trung bình 3%. Đặc điểm này
diển ra tương tự như ở Malaysia, Indonesia và Philippines. Mặt khác các nước phải
tăng vốn vay từ bên ngoài để bù đắp cho việc thiếu hụt trong nước nhằm đẩy nhanh
tốc độ hiện đại hóa sản xuất, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng.
Bên cạnh đó trừ Indonesia phần nào dựa vào nguồn dầu mỏ xuất khẩu, còn Thái Lan,
Malaysia rơi vào tình trạng THTKVL ở mức báo động. Theo phân tích của IMF, nếu


thâm hụt trên mức 5% so với GDP sẻ đẩy nước này vào tình trạng khủng hoảng.
THTKVL còn có nghĩa là kinh tế đông Nam Á đã mất cân đối nghiêm trọng đối với
bên ngoài. Từ năm 1995 trở lại đây, THTKVL ở Thái Lan là 8,1%GDP năm1995 và
8,2%GDP năm1996. Tương tự, ở Malaysia là 9,7%GDP năm 1996. Đây là mức độ
thâm hụt bằng với mức mà Mexico gặp phải khi bùng nổ khủng hoảng 1994. Trong
khi đó thâm hụt ở Indonesia là 4% và Philippin là 3,2% GDP năm 1996. Các nguyên
nhân chủ yếu gây nên tình trạng thâm hụt đó là:
+ Do kim ngạch xuất khẩu của các nước từ năm 1995 đến nay giảm mạnh.
+ Do THTKVL và thâm hụt cán cân thanh toán ngày càng nghiêm trọng đã buộc các
nước trong khu vực phải vay nóng từ các khoản vay ngắn hạn của nước ngoài để bù
đắp cho những khoản chi tiêu trong nước.
*Các dòng vốn nước ngoài kéo vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản
cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các

nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài
sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước
châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á
cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào
các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ
cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm
để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài
mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông
tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.)


b. Tỷ giá hối đoái dồn nén một cách khiên cưỡng.
Nếu vấn đề nêu trên là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng thì các chính
sách “neo giá” giữa các đồng tiền khu vực với đồng USD, tạo nên một hệ thống tỷ giá
khiên cưỡng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc phá giá hàng loạt các đồng tiền khu
vực. Mặc dù khởi phát từ việc thả nổi đồng baht Thái Lan dấn đến hiệu ứng lan tỏa
sang các đồng Peso, Ringgit và Rupiah, nhưng trong thực tế trong chừng mực nào
đó,các đồng nội tệ này đã bị giảm giá trước xu hướng ngày càng tăng của đồng USD.
Xét về phương diện lý thuyết, chế độ tỷ giá hối đoái cố định theo hệ thống Bretton
Woods, có ý nghĩa tích cực trong việc ổn định hóa đòng tiền nội tệ và hỗ trợ cho quá
trình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá nhiều vào tỷ giá cố định trong
điều kiện đồng nội tệ trên thực tế bị giảm giá so với đồng tiền mạnh khác cũng như
cơ cấu kinh tế mất cân đối lớn dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. Đáng nhẽ ngay từ năm
1996, khi những triệu chứng thâm hụt tài khoản vảng lai xuất hiện, Thái Lan và các
nước Đông Nam Á khác phải thực hiện chính sách thả nổi đồng nội tệ, trả lại giá đích
thực của nó, kết hợp với chính sách thắt chặt tài chính, chác chắn nguy cơ khủng
hoảng bị dập tắp. Thay vì chính chính sách kìm giữ một cách giả tạo đồng nội tệ để
thu hút vốn nước ngoài nhằm bù đắp lỗ hỏng của tài khoản vảng lai và kiềm chế lạm
phát.

Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế
gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của
mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn).
Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên
1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung


ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng
gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng
để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ
việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau
năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng
xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó,
Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do
hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các
ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ
không tự bảo hiểm rủi ro.[1]
c. Hệ thống tài chính yếu kém và vấn đề niềm tin bị tổn thương
Bài học đắt giá nhất cho kinh tế mỗi nước là nếu chỉ quan tâm đến tăng trưởng nóng
mà không chú ý kiện toàn hệ thống tài chính, hệ ủa tất yếu là ngân sách nhà nước bị
thâm hụt, lạm phát tăng, nền kinh tế sớm muộn gì củng lâm vào khủng hoảng. Hệ
thống ngân hàng tài chính là một lĩnh vực hết sức nhậy cảm và chứa đựng nhiều rủi
ro, chỉ cần một tổn thương cũng gây nên những xáo trộn lớn trong quá trình điieù tiết
kinh tế. Việc duy trì quá lâu tỷ gia hối đoái cố định đã tạo nên kẻ hở trong hệ thống
ngân hàng của các nước này. Hệ thống ngân hàng hoạt động yếu kém dấn đến kẻ hở
cho nhà đấu cơ tiền tệ vay vốn để mua ngoại tệ kiếm lời. Sự tăng giá của đồng Yên
Nhật so với USD khiến cho các ngân hàng đổ xô mua nhau mua sau đó bán lại để
mua USD hưởng chênh lệch giá.
Hiện tượng thất thoát vốn do đầu cơ tiền tệ ngày càng trở nên nghiêm trọng. Để duy



trì tốc độ tăng trưởng và tỷ giá hối đoái cố định ngân hàng tiếp tục vay nóng ngân
hàng nước ngoài dẫn đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ nợ vượt xa dự trữ ngoại tệ
trong nước. Các chuyên gia IMF cho biết tỷ lệ nợ /dự trữ ngoại hối ở Thái Lan,
Indonêsia xấp xỉ 3 lần, Philippin gấp 4 lần, hấp nhất là Malaysia là 10 tỷ USD. Nguy
hiểm hơn khi nhà đầu tư nước ngoài khẩn trương rút vốn khi thấy có sự bất ổn.
Do thất thoát và khê đọng vốn ở thị trường bất động sản dấn đến hàng loạt ngân hàng
trong khu vực tuyên bố vỡ nợ. Điển hình như ở Thái Lan, 10 ngân hàng lớn nhất
đứng trước nguy cơ phá sản. Các Nhà đầu tư trong và ngoài nước bắt đầu có hội
chứng mất dần niềm tin, hàng loạt khách hàng rút vốn ra khỏi ngân hàng-tài chính đã
làm suy giảm thị trường chứng khoán ở các nước này.
Sau lời tuyên bố từ chức của Bộ trưởng Tài chính A. Vinavan vào cuối tháng 6/1997
khi khủng hoảng xảy ra, giới kinh doanh đầu tư mất niềm tin làm thị trường chứng
khoán Băngkok giảm xuống ở mức thấp nhất với chỉ số 482,97 điểm, giảm 14,75
điểm so với giữa tháng 6/1997. Các nhà đầu cơ bán hạ giá các cổ phiếu và chuyển
tiền ra nước ngoài để mua USD.
1.2 Những nguyên nhân khách quan
a. Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút, những thay đổi bất lợi của kinh tế thế
giới.
Từ năm 1995 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp phát
triển giảm sút dẫn đến lượng cầu cũng suy giảm. Đặc biệt, những nước này là bạn
hàng chủ yếu, là đối tác kích thích quá trình tăng trưởng nóng hướng về xuất khẩu
của các nước Đông Nam Á. Những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của khu vực (điện tử,


sợi, dệt) đang đứng trước nguy cơ bảo hòa của thị trường thế giới. Năm 1996, thị
trường bán dẫn quốc tế suy thoái mạnh, giá vi mạch giảm hơn 80%. Các mặt hàng
điện tử dân dụng của Nhật, các nước NICs Đông Nam Á giảm lượng bán hơn 40%
trên thị trường thế giới. Mặt khác tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam Á trước các

đối tác Mỹ và Tây Âu đã giảm sút trước thị trường Trung Quốc, SNG-Đông Âu và
Mỹ Litinh. Nhật Bản củng đang lúng túng về những đồng vốn cho vay quá lớn trước
những biến động xấu của thị trường tài chính khu vực. Theo báo cáo của ngân hàng
D. M. Green Fell thì hơn một nửa số 70 tỷ USD Thái Lan nợ ngân hàng là của Nhật
Bản và chủ yếu là do vay nóng. Do vậy, khi lãi suất tăng thì không chỉ chi phí vay nợ
tăng mà đồng vốn vào Thái Lan cũng sẻ giảm đi hoặc đổi chiều và dẫn đến khủng
hoảng về thanh khoản của Thái Lan đồng thời gây áp lực với đồng Peso và Rupiah.
Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì
trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm
1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với
hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang
được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên
bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên
để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư
hơn so với các nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn
thông qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của
các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở
nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông
Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ.
b. Hoạt động tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt


Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc
tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Khi phát hiện những
dấu hiệu suy thoái của hệ thống ngân hàng- tài chính khu vực, nhiều nhà đầu cơ nước
ngoài đã tăng cường hợt động đầu cơ tiền tệ. Theo nguồn tin nước ngoài thì rất nhiều
nhà đầu cơ trong tổng số 2300 quỹ tín dụng tư nhân ở Mỹ, với tài sản trên 100 tỷ
USD đã nhảy vào thị trường khu vực này trong 2 tháng 7-8/1997. Ngoài các quỹ do
Soros kiểm soát còn có các quỹ tín dụng lớn như Tiger, Orbis, Pumar, Panther và
Jaguar. Họ mua đồng Baht sau đó Peso, Ringgit, Rupiah kể cả SGD ước tính 10-15 tỷ

USD để đầu cơ, cả dự trữ ngoại hối nhà nước cạn kiệt càng làm cho tấn công đầu cơ
thêm kéo dài.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái
Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính
phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu
chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã
tiến hành tấn công tiền tệ châu Á.[4] Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống tiền tệ chặt
chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN. Hội
nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông
quan một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu
sắc và kêu goi các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng
cường lợi ích của ASEAN trong giai đoạn này.[6] Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này,
các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác động của khủng hoảng đã
gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình dương EMEAP,
và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho vay mới. Trước đó một năm,
Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chính


APEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như
Tuyên bố chung, các bên đã không thể nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp
định chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc
khủng hoảng có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp
thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng ở
các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.
2. Diễn biến cuộc khủng hoảng ở một số quốc gia
2.1 Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng
năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh

báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không
giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều
chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ
quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ
không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập
tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi
được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối
năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn
giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn
nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói
cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một


gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
2.2 Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương
Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng
cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso
vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và
còn 40 vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các
vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001,
Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn
khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc
đồng peso thêm mất giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm
tổng thống.
2.3 Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được

neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong
lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ
hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1
hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ
USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ
đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày


15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành
23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt
đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm
giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau
này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới
đầu cơ.
Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ
Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số
chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar
Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của
nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại
bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp
đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và
Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.
2.4 Hàn Quốc
Hàn Quốc được xếp hạng thứ 11 trong số những nền kinh tế lớn trên thế giới. Khi
khủng hoảng xảy ra, với tình trạng kém cỏi sẵn có của hệ thống ngân hàng bắt nguồn
từ những khoản nợ kém hiệu quả rất lớn, Moody's đã hạ bậc tín dụng của Hàn Quốc
từ A1 xuống A3 vào tháng 11/1997 và tiếp tục hạ xuống B2 vào tháng 12.
Sự kiện này góp phần làm thị TTCK Hàn Quốc sụt giảm mạnh hơn, giảm 4% vào
7/11/1997, giảm tiếp 7% vào ngày 8/11 và 7.2% vào ngày 24/11/2997 khi có tin IMF



yêu cầu Hàn Quốc thực hiện cải tổ hệ thống tài chính.
Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ
USD của Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp
đó Daewoo Motors phải bán lại cho General Motors.
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ
nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong
nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á
bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở
quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ
hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống
B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng
trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt
7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000
KRW/USD.
2.5 Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit
của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá
mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20
Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng
tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy
trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về
sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của
Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra


đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%. Malaysia là quốc

gia nhận được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều này phản ánh qua việc KLSE
(sàn giao dịch chứng khoán chính thức của Malaysia) được coi là sàn giao dịch có
hoạt động mạnh nhất trên thế giới (tổng giá trị giao dịch thậm chí vượt qua cả NYSE
mặc dù có mức vốn hóa thị trường thấp hơn rất nhiều). Ở thời điểm đó, mọi người
đều kỳ vọng quốc gia này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng và trở thành nước phát
triển vào năm 2020.
Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng, KLSE Index đang ở mức 1.200, đồng
ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2.5:1 so với USD, lãi suất qua đêm dưới 7%. Lãi suất
qua đêm tăng từ dưới 8% lên 40%, làm cho mức đánh giá tín dụng tụt xuống và xảy
ra làn sóng bán chứng khoán và tiền tệ ồ ạt.
Cuối năm 1997, mức đánh giá tín dụng tụt xuống dưới mức bình quân cho các khoản
đầu tư không đảm bảo, KLSE mất 50% điểm, tụt xuống dưới 600, đồng ringgit cũng
mất 50% giá trị, còn 3.8 đồng đổi 1 USD. Năm 1998, GDP giảm 6,2%, đồng ringgit
mất thêm 4,7% giá trị và KLSE tụt xuống dưới 270 điểm.
2.6 Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã
nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên
12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá
hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng
Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho


Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán
ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ
số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt
là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình
đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội
tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF

khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này
tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta
đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội
đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng
thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa đồng Rupiah và đồng Dollar vào khoảng
2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của
Indonesia đã giảm đi.
2.7 Nước Mỹ và Nhật Bản
Dịch cúm Châu Á cũng có ảnh hưởng đến nước Mỹ và Nhật Bản. Nền kinh tế tuy
không sụp đổ nhưng cũng bị tác động nặng nề. Ngày 27/11/1997, chỉ số DJ công
nghiệp giảm 554 điểm, tương đương 7,2%, NYSE tạm ngừng giao dịch trong thời


gian ngắn.
Nhật Bản cũng chịu nhiều ảnh hưởng do là nền kinh tế lớn trong khu vực. Nhiều
nước Châu Á khác ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương mại với Nhật Bản. Vào
cuộc khủng hoảng, đồng yen Nhật giảm còn 147:1 với USD khi có những đợt bán ra
ồ ạt. Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật giảm từ 5% xuống còn 1,6%. Cuộc khủng
hoảng Châu Á cũng làm một số doanh nghiệp ở Nhật phá sản.
3. Những tác động của cuộc khủng hoảng
3.1 Tiêu cực
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền
tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều
doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo
trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn
Quốc và Thái Lan. Nó đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn tăng trưởng nhanh, kéo dài
và chủ yếu dựa vào nguồn vốn nước ngoài của các nước trong khu vực, giờ đây sẻ
chuyển sang giai đoạn ôn hòa, thận trọng và dựa cvào sức mình là chính. Cuộc khủng

hoảng gây thiệt hại cho các nước Châu Á ít nhất 300 tỷ USD, bằng khoảng 20% GDP
của các nước bị khủng hoảng và làm thiệt hại chung cho toàn thế giới 500tỷ USD.
Khủng hoảng kinh tế làm giảm mức sống của người lao động (do lạm phát gia tăng)
còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia và Chavalit
Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán
gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng trào Hồi giáo và
ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy


yếu. Các nhà đầu tư nước ngoài giảm sút niềm tin, vốn FDI đổ vào Châu Á giảm dần,
họ đầu tư rụt rè và thận trọng hơn khi đầu tư ở nơi khác. Sự phá giá bản tệ đã làm
tăng chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần của các công ty dẫn đến phá
sản hàng loạt. tình hình bong bóng bất đọng sản vở tung, các ngân hàng rơi vào tình
trạng gánh chịu một đống nợ khó đòi phải giữ một lượng tài sản lớn mất giá và khó
bán.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính
bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân
trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân
đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD
vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia
giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD. Khủng hoảng không chỉ làm gia tăng lượng
người thất nghiệp ở các nước khu vực (tăng gấp đôi vào năm1998 ở Thái Lan, Hàn
Quốc và Indonesia…) mà còn ở các nước bạn hàng của họ do thu hẹp quy mô nhập
khẩu vì khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn tới
khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước không bị
khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI
vào giảm.
3.2 Tích cực
“Trong cái rủi có cái may”, cuộc khủng hoảng Châu Á 1997 không chỉ hoàn toàn gây

tác hại mà ở một chừng mực nào đó, nó là điểm dừng để mở đầu giai đoạn mới đầy
triển vọng.


Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẻ giúp các chính phủ giảm
thiểu được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp
tăng dự trữ quốc gia và về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẻ khuyến khích và tăng khả
năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.
Thứ hai, nhiều nước như Thái lan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippin…sẻ nhận được
lượng tín dụng quốc tế chính thức với khối lượng lớn để phục vụ các mục tiêu cải
cách và phát triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu
đầu tư, lành mạnh hóa hơn nền tài chính quốc gia, tạo sức ép buộc các chủ đầu tư
kinh doanh phải thay đổi thích ứng với tình hình mới, thúc đẩy sản xuất những sản
phẩm mới có sức cạnh tranh xuất khẩu cao hơn. Các khoản chi kém hiệu quả sẻ bị cắt
giảm, các dự án cá nhân được khuyến khích, quá trình tư nhân hóa, giảm thiểu khu
vực Nhà nước, giảm bớt sự độc quyền và bao cấp của chính phủ được xúc tiến rộng
rãi, tích cực hơn.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều gáp phần và là dịp để xhính phủ và nhân dân cũng
như các tổ chức tài chính-tiền tệ bổ khuyết những thiếu sót về chính sách thể chế lẫn
những yếu tố thuộc con người…từ đó tạo ra những xung lực tích cực mới cho sự phát
triển kinh tế-xã hội bền vững ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế với tư cách là một
chỉnh thể hữu cơ. Quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa sẻ được đẩy lên một nấc mới,
một phần nhờ các chương trình điều chỉnh kinh tế rộng rải theo hướng này ở các nước
khu vực sau khi đã “uống thuốc của IMF”; phần nhờ sự chuẩn bị chu đáo thận trọng
hơn và thích hợp hơn của mởi nước; phần nữa nhờ sự xuất hiện những cơ chế thúc
đẩy và giám sát mới mang tính khu vực, sự bổ sung ccủa IMF và các tổ chức tài
chính khu vực, đồng thời cũng là kết quả của sự hợp tác giữa các nước khu vực trong
nổ lực vượt qua khủng hoảng.



Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng còn thể hiện trong cả việc làm dịch chuyển
nhất định vai trò và vị thế kinh tế-chính trị truyền thống của các cường quốc tại khu
vực như Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu cũng như bản thân các nước ASEAN với tư cách là
một cộng đồng.
4. Giải pháp thoát khỏi khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á:
4.1 Ở cấp độ quốc tế:
• Sự hỗ trợ tài chính khẩn cấp và to lớn của cộng đồng quốc tế thông qua vai trò tổ
chức, điều phối và giám sát của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là vô cùng quan trọng và
có hiệu lực nhanh chóng, mạnh mẽ nhất để chế ngự cuộc khủng hoảng, tránh sự đổ vỡ
lan rộng và hậu quả kéo dài ở cả trong và ngoài mỗi nước. Cụ thể là những “Chương
trình cứu trợ khẩn cấp trọn gói” mà IMF đã liên tiếp triển khai cho Thái Lan,
Phillippines, Indonesia và Hàn Quốc đã có tổng giá trị hàng trăm tỷ USD.
• Sự hỗ trợ quốc tế còn được thể hiện ở những thỏa thuận giữa những con nợ và chủ
nợ trong việc hoãn nợ, đảo nợ, bảo đảm nợ nhằm cải thiện tình trạng nợ nần của các
nước đang lâm vào khủng hoảng. Sự hỗ trợ quốc tế còn là lời kêu gọi các thị trường
lớn như Mỹ, EU… mở rộng cửa cho hàng xuất khẩu của các nước đang trong khu
vực khủng hoảng để giúp làm tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân thương
mại và thu nhập ngoại hối của họ.
• Các tổ chức quốc tế như IMF, OECD (Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển)…còn
kêu gọi và triển khai các kế hoạch tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, thông tin, tư vấn nhằm
nâng cao năng lực thể chế của các nước trong khu vực khủng hoảng. Ngoài ra, IMF


còn bổ sung thêm chức năng của mình thông qua việc hình thành trong nó một cơ cấu
giám sát khu vực mới, thích hợp hơn dành cho châu Á
4.2 Ở cấp độ khu vực:
“Tự cứu mình trước khi trời cứu” là phương châm hành động của các nước trong khu
vực.Các giải pháp được sử dụng tùy thuộc vào đặc điểm của mỗi nước, nhưng cũng
tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
• Tăng cường hợp tác khu vực: Ngay từ những tháng đầu xảy ra khủng hoảng, các

nước trong khu vực đã đề xuất những ý tưởng phối hợp những cố gắng với nhau để
tạo ra sức mạnh tổng hợp vượt qua cuộc khủng hoảng. Những ý tưởng này đã được
cụ thể hóa bằng việc thành lập những thể chế tài chính - tiền tệ cho khu vực như
“Quỹ tín dụng châu Á”, “Ngân hàng thanh toán bù trừ đa biên ASEAN”, hay các thỏa
thuận giữa các Bộ trưởng Tài chính ASEAN về việc khuyến khích sử dụng đồng bản
tệ trong thanh toán các giao dịch thương mại nội bộ ASEAN trên cơ sở các thỏa thuận
song phương nhung vẫn lấy giá trị USD để tham khảo tỷ giá chuyển đổi giữa các
đồng tiền với nhau. Ngoài ra, còn có những cố gắng khác nhằm đẩy mạnh hợp tác
kinh tế nội khối để giảm bớt các khó khăn do khủng hoảng gây ra như: trao đổi trực
tiếp hàng lấy hàng, hoàn thiện nhanh khu vực đầu tư ASEAN…
• Thành lập cơ chế giám sát tài chính ASEAN: Một trong những nguyên nhân dẫn đến
khủng hoảng là sự yếu kém của hệ thống tài chính – ngân hàng và việc điều hành
quản lý nền kinh tế chưa theo kịp tốc độ tự do hóa, toàn cầu hóa. Do đó, để khắc phục
khủng hoảng, các nước ASEAN cần phải phối hợp hành động mới đạt được hiệu quả
cao và nhanh chóng đưa kinh tế khu vực phục hồi trở lại. Vì vậy, cơ chế giám sát
ASEAN đã được hình thành với mục tiêu trao đổi thông tin và thảo luận tình hình


kinh tế - tài chính của các nước thành viên , từ đó đưa ra một hệ thống cảnh báo sớm
nhằm tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính khu vực. Ngoài ra, cơ
chế giám sát ASEAN còn giúp đề xuất các chính sách và khuyến khích các hành động
đơn phương hoặc tập thể để ngăn ngừa khủng hoảng, giám sát và thảo luận về tình
hình kinh tế - tài chính toàn cầu có thể ảnh hưởng tới khu vực và các biện pháp đối
phó của từng nước, khu vực.
• Nới lỏng dần chính sách tài chính - tiền tệ: Vào những ngày đầu khủng hoảng bùng
phát, các nước khu vực đã khẩn trương áp dụng các giải pháp tình thế để chống đầu
cơ và giữ ổn định tiền tệ, giảm bớt sức ép đáo hạn nợ nước ngoài và sự rút vốn nước
ngoài bằng các biện pháp chủ yếu như: tăng lãi suất, xiết chặt tín dụng, xiết chặt kỷ
kuật tài chính, kiểm soát ngoại hối, đóng cửa hàng loạt các tổ chức tín dụng hoạt
động không có hiệu quả…Thế nhưng, các giải pháp này lại làm phản tác dụng, khiến

các doanh nghiệp khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, càng làm tăng “cơn khát vốn”
của họ, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng duy trì hoạt động, khả năng cạnh tranh và
khả năng trả nợ của họ. Trong khi đó, làn sóng giảm lãi suất, chống giảm phát, kích
thích tăng trưởng chung do Mỹ phát động đã được các nước G7 hỗ trợ và hưỡng ứng
rộng rãi trên toàn cầu đã khiách lệ các nước trong khu vực chuyển mạnh sang các giải
pháp khuyến khích phục hồi và tăng trưởng. Lãi suất đã được giảm, tín dụng đã được
nới lỏng, thuế cũng được cắt giảm và trợ giúp tài chính từ Nhà nước cho các doanh
nghiệp được gia tăng một cách thích đáng.
• Từ bỏ thái độ cực đoan đối với vấn đề tỷ giá: Hầu hết các nước đang từ bỏ dần thái
độ cực đoan trong đối xử với vấn đề tỷ giá.Việc cố định cứng nhắc cũng như thả nổi
hoàn toàn bản tệ đều không thể đưa đến mục tiêu mong muốn là ổn định vững chắc
cơ sở tiền tệ của mỗi nước. Ngoài ra, hành động phá giá cạnh tranh tiền tệ không thể
không gây tổn thương đến các khu vực khác và tạo vòng xoáy phá giá đồng tiền cực


kỳ nguy hiểm giữa các nước. Do đó, vấn đề này cũng đang được xem xét lại một cách
nghiêm túc ở cấp độ toàn khu vực.
• Tăng cường các nguyên tắc thị trường trong kinh doanh: Những nguyên tắc thị
trường ngày càng được các nước ASEAN quán triệt và thực thi đầy đủ hơn cho sự
vận hành nền kinh tế. Bởi vì chính phủ các nước ngày càng nhận thấy rõ sự rủi ro của
việc can thiệp quá sâu vào khu vực kinh doanh gây ra tình trang nguồn tín dụng được
đem cấp thiếu cơ sở kinh tế cho các công ty tham nhũng và được chính phủ che chở
cũng như tình trạng phát triển quá khích một lĩnh vực ngành nghề nào đó gây tổn hại
đến thị trường nội địa.
• Phát huy nội lực trong nước và giảm bớt thái độ vọng ngoại: Các nước ASEAN
ngày càng giảm bớt thái độ đổ lỗi cho bên ngoài, để bình tĩnh và khách quan trong
việc nhìn nhận, sữa chữa những bất cập “nội sinh” trong chính sách và thể chế của
bản thân trước sự biến đổi mau lẹ của hoàn cảnh quốc tế. Hơn nữa, thái độ trông chờ
vào vốn nước ngoài cũng dịu bớt để đánh giá đúng mức hơn vai trò của các nguồn nội
lực.

• Nhận thức về thái độ tự do hóa thị trường: Các nước ASEAN đang điều chỉnh lại
nhận thức về tự do hóa thị trường và tài chính, đặc biệt là việc tách vấn đề thương
mại hàng hóa và dịch vụ ra khỏi lưu thông vốn quốc tế có thể coi là một bước phát
triển mới về nhận thức lẫn thực tiễn. Các nước trong khu vực một mặt đang tiếp tục
đẩy mạnh tự do hóa thương mại, mặt khác chú ý đúng mức hơn về tốc độ tự do hóa
tài chính sao cho phù hợp với sự phát triển của thị trường trong nước và khả năng
kiểm soát của chính phủ.
• Cải tiến và nâng cấp môi trường đầu tư: Việc tìm lại và củng cố lòng tin của giới


doanh nhân trong và ngoài nước vào thị trường khu vực là chiếc chìa khóa cho sự
phục hồi và tiếp tục tăng trưởng của mổi nước ASEAN cung như toàn khu vực.Vì
vậy, các nước này đang tập trung tăng chế độ khuyến khích tài chính dành cho vốn
đầu tư trực tiếp; cải cách các thủ tục đầu tư; bãi bỏ, giảm thiểu các giới hạn sở hữu
hoặc các lĩnh vực độc quyền giành cho đầu tư chính phủ hay đầu tư trong nước; tăng
cường đào tạo nhân lực; phối hợp tạo môi trường đầu tư hấp dẫn chung cho khu vực.
• Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý vĩ mô: Đặt toàn bộ các hoạt động quản lý vĩ
mô Nhà nước trên cơ sở nguyên tắc thị trường và Nhà nước pháp quyền, dẩy mạnh
chống tham nhũng, tăng cường dân chủ hóa đời sống kinh tế xã hội đất nước.
• Dàn xếp các bất đồng vì ổn định và thịnh vượng chung: Cố gắng dàn xếp các bất
đồng song phương và đa phương, vượt lên trên những lợi ích cá nhân, gắn lợi ích
quốc gia với lợi ích khu vực, bảo vệ hình ảnh một cộng đồng ASEAN đoàn kết, ổn
định và thịnh vượng chung.
• Tăng cường giải quyết các vấn đề xã hội: Trong bối cảnh khủng hoảng, bên cạnh
việc giải quyết các vấn đề kinh tế, các vấn đề xã hội cũng đã được các nước ASEAN
quan tâm đúng mức hơn.Các nước ASEAN đã nhận ra rằng sự tồn tại đông đảo tầng
lớp người lao động với đồng lương thấp và sự gia tăng đội quân thất nghiệp trong
điều kiện hệ thống an toàn xã hội chưa phát triển sẽ là hiểm họa cho sự ổn định cơ sở
kinh tế xã hội. Do đó, các khoản chi ngân sách cho mục tiêu xã hội đã được cải thiện
hơn.


4.3 Ở cấp độ quốc gia:


* Thái Lan: xuất phát điểm của cuộc khủng hoảng.
♣ Đề ra “7 biện pháp khẩn trương” để phục hồi kinh tế, đặt trọng tâm vào các yêu
cầu tăng vốn, tăng khả năng thanh toán của khu vực tài chính – ngân hàng, xúc tiến
hỗ trợ đầu tư Nhà nước cho điều chỉnh cơ cấu.
♣ Đóng cửa 56 công ty tài chính có vấn đề về khả năng thanh toán.
♣ Cho phép chứng khoán hóa các khoản nợ ngân hàng nhằm cải thiện khả năng tiền
mặt cho ngân hàng và làm tăng kưu chuyển vốn xã hội.
♣ Các hoạt động bảo hiểm tiền gửi, tiền cho vay, các thủ tục thế chấp, ác giới hạn cho
vay tối đa mỗi ngành và phát triển các trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng
được áp dụng triệt để.
♣ Ngoài các thương lượng gia hạn nợ giữa các chủ nợ và con nợ, chính phủ Thái Lan
còn tăng phát hành chứng khoán nhằm hỗ trợ mua lại các khoản nợ khó đòi của các
ngân hàng theo tỷ lệ chiết khấu 25%; hỗ trợ tín dụng cho người mua để làm tăng cầu
trên thị trường bất động sản, giúp các con nợ tăng khả năng trả nợ.
♣ Thị trường tài chính mở cửa rộng hơn cho nhà đầu tư nước ngoài, xóa bỏ các giới
hạn cổ phần dưới 50% của nhà đầu tư nước ngoài, đơn giản hóa các thủ tục, cho phép
đầu tư nước ngoài tham dự nhanh, rộng và sâu hơn vào các khu vực kinh tế tài chính
của đất nước.


♣ Để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư xã hội, cải thiện khả năng xuất khẩu của mình,
Thái Lan, một mặt tiếp tục tăng đầu tư vào những sản phẩm xuất khẩu truyền thống
để cải thiện công nghệ, nâng cao chất lượng (gạo chất lượng cao, đồ trang sức cao
cấp, vải đặc biệt…) và hạ giá thành sản phẩm; mặt khác, tích cực và mạnh dạn đầu tư
vào các ngành công nghệ cao, tìm kiếm và định hình những mặt hàng xuất khẩu mới
(thép cao cấp, sản phẩm hóa dầu…).

♣ Thái Lan cũng như những nước khủng hoảng khác đều thận trọng và khắt khe hơn
đối với những dự án đầu tư ngân sách lớn, dài hạn, tỷ lệ thu hồi vốn thấp, phụ thuộc
và làm tăng nợ bằng ngoại tệ mạnh.
* Tại các nước khác: Phillippines, Singapore, Malaysia, Indonesia.
• Nhìn chung, những giải pháp tài chính thận trọng hơn nhằm điều chỉnh cơ cấu ngân
sách, tăng cường hiệu quả vốn đầu tư xã hội, tăng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của
nền kinh tế, đề cao năng lực tư nhân và nâng cao năng lực thề chế đã được triển khai
phổ biến và cũng là kế sách lâu dài của các nước khu vực, để không chỉ vượt qua
khủng hoảng mà còn tạo tiền đề tiếp tục phát triển nhanh và bền vững hơn.
• Cuối năm 1998, Malaysia đã triển khai “Kế hoạch phục hồi kinh tế”, trong đó nhấn
mạnh các biện pháp của chính sách tài chính nới lỏng, phục hồi khu vực ngân hàng.
• Singapore chủ trương mở rộng nhu cầu trong nước, để bù vào sự suy giảm dung
lượng thị trường khu vực, giảm tiền thuê nhà, lệ phí thuế đất để giúp giảm chi phí sản
xuất, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
• Chính phủ các nước cắt giảm chi ngân sách, trước hết là các khoản chi cho mua sắm


các trang thiết bị quân sự, xây dựng cơ sở giao thông vận tải và các chi tiêu xã hội
(trừ y tế và giáo dục). Malaysia giảm ngân sách quân sự từ 10% đến 18% so với dự
trù; Phillippines cắt giảm 15%; Indonesia thì hủy bỏ một số hợp đồng mua bán vũ khí
với Nga, cắt giảm 70% biên chế nhân viên quân sự ở nước ngoài và hoãn lại các cuộc
tập trận.
• Chính phủ các nước đều phát động phong trào tiết kiệm, kêu gọi đóng góp của dân
cư và doanh nghiệp; phát hành trái phiếu chính phủ để huy động vốn cho các công
trình quan trọng cần thực hiện; khuyến khích các dự án đầu tư tư nhân hoặc sự tham
gia của tư nhân vào các dự án nhà nước nhằm giảm tỷ lệ đầu tư ngân sách.
• Chính phủ các nước tăng cường kiểm soát để loại bỏ những khoản tín dụng không
hoặc kém hiệu quả giữa người đi vay và người cho vay.
5. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ Châu Á.

Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực (bắt đầu từ Thái Lan, lan sang
Indonesia, Hàn Quốc…). Việt Nam không bị cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc khủng
hoảng này do độ mở cửa chưa rộng và sự chủ động ứng phó "vượt trước ngăn chặn".
Nhưng tác động của cuộc khủng hoảng này cũng không nhỏ về một số mặt. Lượng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký giảm mạnh (nếu năm 1996 đạt 10.164 triệu
USD, thì năm 1997 còn 5.591 triệu USD, năm 1998 còn 5.100 triệu USD, năm 1999
còn 2.565 triệu USD); lượng vốn thực hiện năm 1998 - 1999 cũng bị giảm nhưng ít
hơn. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu bị giảm mạnh. Tốc độ tăng giá
GDP cũng bị sút giảm: năm 1997 còn tăng 8,15%, đến năm 1998 GDP chỉ còn tăng
5,76%, đến năm 1999 chỉ còn tăng 4,77%. Trong thời gian tương ứng, tăng trưởng


×