Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tìm hiểu những vấn đề về tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.12 KB, 18 trang )

ĐỀ TÀI:

I)

-

TÌM HIỂU NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ
TỘI PHẠM

TỘI PHẠM LÀ GÌ? CẤU YẾU TỐ CẤU THÀNH, DẤU HIỆU
TỘI PHẠM:
 Tội phạm:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội,do người có trách
nhiệm, năng lực hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
hại đến chế độ chính trị chế độ kinh tế nền văn hóa quốc phòng, an
ninh trật tự an toàn xã hội quyền lợi ích hợp pháp của Tổ quốc xâm
hại tính mạng, sức khỏi danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền lợi ích hợp pháp của công dân, xâm hại những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.( điều 8 Bộ luật hình sự nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999)
* gồm mặt khách quan, chủ quan, chủ thể, khách thể
- Mặt khách quan : là những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc
tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Những dấu hiệu thuộc về
khách quan của tội phạm gồm những hành vi nguy hiểm cho xã hội
: tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
mối quan hệ của tội phạm còn có các dâu hiệu khác nhau như:
phương tiện, công cụ tội phạm, phương pháp thủ đoạn, thời gian,
địa
điểm,
thực
hiện


phạm
tội.
- Mặt chủ quan : là những diễn biến tâm lý bên trong của tội
phạm bao gồm lỗi, mục đích, và động cơ phạm tội. Bất cư tội
phạm cụ thể nào cũng phải là hành vi được thực hiện một cách có
lỗi. Lỗi có hai loại lỗi : lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.
- Khách thể : là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ đáng
kể.


- Chủ thể: là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của luật hình sự
 Dấu hiệu của tội phạm:
-Dấu hiệu thứ nhất: Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội của hành vi
Ví dụ: vụ án của Lê Văn Luyện là một vụ án giết người cướp của xảy
ra tại tiệm vàng Ngọc Bích( Phương Sơn, Lục Nam) ngày 24/08/2011.
Trong vụ án này, sát thủ Lê Văn Luyện đã giết chết cả vợ chồng tiệm
vàng cùng con 18 tháng tuổi . Không những thế sau vụ việc của Lê
Văn Luyện ảnh hưởng đến các nhóm tội phạm khác, họ coi Lê Văn
Luyện như thần tượng khi thừa nhận mình là đàn em Lê Văn Luyện
khi họ phạm tội, thậm chí giết người khi họ chưa 18 tuổi. Vụ án của
Luyện còn ảnh hưởng đến hệ thống Pháp Luật Việt Nam khi hành vi
của Luyện khiến các nhà làm luật phải xem xét lại có nên giảm tuổi
chịu án tử hình xứng hay không vì ở độ tuổi này đã đủ sự chín chắn và
có thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể thể hiện trong hai hình thức sau :
hành động phạm tội hoặc không hành động phạm tội. Nhưng đối với
vụ án của Lê văn luyện là hành động phạm tội.

-Dấu hiệu thứ hai: tội phạm phải được quy định trong bộ luật hình sự,
tức tội phạm là hành vi trái pháp luật.
Điều 2 của BLHS 2015 của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự như sau: chỉ người
nào phạm một tội đã được bộ luật hình sự quy định thì mới phải chịu
trách nhiệm hình sự. Ví dụ: vụ án của Lê Văn Luyện giết người cướp
tài sản đã được quy định trong Bộ luật hình sự . Luyện đã vi phạm
dùng vũ lực đe dọa ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người
bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm
đoạt tài sản của vợ chồng tiệm vàng. Đồng thời Luyện đã phạm trong
các tội sau đây:


+Sử dụng vũ khí
+Phương tiện hoặc thủ đoạn
+Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
+Chiếm đoạt tài sản có gía trị từ 50 triệu đến 200 triệu, gây hậu quả
nghiêm trọng với mức như trên theo điều 133 BLHS 2015 thì có thể bị
lãnh án tù từ 7 năm đến 15 năm. Ngoài ra Luyện còn phạm tội gây
thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của nguời khác mà tỉ lệ
thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng. Thì có thể bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm, tù chung
hoặc tử hình.
-Dấu hiệu thứ ba: tội phạm là hành vi có lỗi do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện, tức Người có khả năng nhận thức được
hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi ấy, đồng thời đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Đối với việc phạm tội của Luyện, Luyện thực hiện hành vi phạm tội
vào lúc Luyện chưa đủ tuổi vị thành niên 17 tuổi nhưng Luyện vẫn
phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều 12 BLHS 2009 quy định như

sau:
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chiụ trách nhiệm hình sự về mọi tội.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng
tính có lỗi của chủ thể phạm tội được thể hiện dưới 2 dạng: cố ý phạm
và vô ý phạm tội .Trong trường hợp này là Luyện cố ý phạm tội
-Dấu hiệu thứ tư: tội phạm phải được xử lí bằng hình phạm. Tội phạm
gắn liền với hình phạt có nghĩa là đã nói đến tội phạm thì nhất định sẽ
được xử lí bằng hình phạt, ngược lại hình phạt trong luật hình sự chỉ
áp dụng cho tội phạm mà thôi . Bởi vì hình phạt sẽ tước bỏ một số
quyên lợi của con người.


Ví dụ: Đối với trường hớp của Lê Văn Luyện bị phạt tổng cộng 18
năm tù với 3 tội danh giết người, cướp tài sản, và lạm dụng chiếm đoạt
tài sản.
Phân loại tội phạm:
Theo quy định tại điều 9 BLHS năm 2015, căn cứ vào tính chất mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Tội phạm trong luật hình sự
được chia thành 4 loại: từ tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng sẽ có
khung hình phạt từ dưới 1 năm đến 15 năm tù, chung thân hoặc tử
hình
Cấu thành tội phạm: luôn phải có đủ 4 yếu tố
-Thứ nhất, chủ thể của tội phạm: là người có năng lực trách nhiệm
hình sự, đạt độ tuổi luật định và thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra
chủ thể còn có thể là pháp nhân thương mại.
-Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm: Là toàn bộ những biểu hiện
bên ngoài của tội phạm

-Thứ ba, mặt chủ quan của tội phạm: Là tổng hợp những biểu hiện
trong tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi, bao gồm:
+Lỗi cố ý: Trực tiếp hoặc gián tiếp
+Lỗi vô ý: Do cẩu thả hoặc do quá tự tin
+Động cơ
+Mục đích
-Thứ tư, khách thể của tội phạm: Là những quan hệ xã hội được
Luật Hình sự điều chỉnh, bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, đe doạ
xâm hại


II)TÌNH HUỐNG VÀ CẤU THÀNH VI PHẠM PHÁP LUẬT:
A.
Vi
phạm
pháp
luật
hình
sự:
1.
Tình
huống:
- Chị Thanh (40 tuổi, không chồng), có quan hệ với anh Lê Mạnh
H (đã có vợ), và sinh được một đứa con (cháu Minh). Sau khi
chấm dứt quan hệ với anh H, chị luôn bị một người tên Đỗ Thị
Kim Duân (43 tuổi) - vợ của H, gọi điện thoại chửi mắng.
- Ngày 06/11/2009, Duân đến nhà chị Thanh (Đông Anh, Hà Nội).
Tại đây, Duân xin được bế đứa trẻ, chị Thanh đồng ý. Lấy cớ nghe
điện thoại, Duân bế cháu xuống bếp và dùng chiếc kim khâu lốp
dài 7cm mang theo đâm vào đỉnh thóp đầu cháu. Sợ bị phát hiện,

Duân lấy mũ đậy vết đâm lại, nhưng máu chảy quá nhiều, cháu
khóc thét lên nên bị mọi người phát hiện. Sau khi đưa đi cấp cứu,
cháu
Minh
(40
ngày
tuổi)
qua
đời.
- Duân (sinh năm 1974, Đông Anh, Hà Nội) không có bệnh về thần
kinh, chưa có tiền án, là một người làm ruộng.
2.
Cấu
thành
vi
phạm
pháp
luật:
¤ Về
mặt
khách
quan:
- Hành vi: việc làm của Duân (dùng kim khâu lốp đâm xuyên đầu
đứa trẻ sơ sinh 40 ngày tuổi) là hành vi dã man, lấy đi tính mạng
đứa trẻ, gây nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Bộ luật hình
sự.
- Hậu quả: gây nên cái chết của cháu Minh, gây tổn thương tinh
thần gia đình đứa trẻ và bất bình trong xã hội. Thiệt hại được gây
ra
trực

tiếp
bởi
hành
vi
trái
pháp
luật.
- Thời gian: diễn ra vào sáng ngày 06/11/2009
Địa
điểm:
tại
nhà
bếp
của
chị
Thanh.
- Hung khí: là một chiếc kim khâu lốp dài 7cm đã được chuẩn bị từ
trước.


¤ Mặt
khách
thể:
Hành vi của Duân đã xâm phạm tới quyền được bảo đảm về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, vi phạm đến
quan
hệ

hội
được

pháp
luật
bảo
vệ.
¤ Mặt
chủ
quan:
- Lỗi: hành vi của Duân là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi Duân là người có
đủ năng lực trách nhiệm pháp lý, biết rõ việc mình làm là trái pháp
luật gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng vẫn mong muốn hậu quả
xảy ra. Duân có mang theo hung khí và có thủ đoạn tinh vi (lấy cớ
nghe điện thoại, che đậy vết thương của bé Minh).
- Động cơ: Duân thực hiện hành vi này là do ghen tuông với mẹ
đứa
trẻ.
- Mục đích: Duân muốn giết chết đứa trẻ để trả thù mẹ đứa trẻ.
¤ Chủ
thể
vi
phạm:
- Chủ thể của vi phạm pháp luật là Đỗ Thị Kim Duân (43 tuổi) là
một công dân có đủ khả năng nhận thức và điểu khiển hành vi của
mình.
- Như vậy, xét về các mặt cấu thành nên vi phạm pháp luật có thể
kết luận đây là một hành vi vi phạm pháp luật hình sự nghiêm
trọng. Cần được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
B.
Vi
phạm
pháp

luật
hành
chính:
1.
Tình
huống
- Tháng 9/2008, Bộ tài nguyên môi trường đã phát hiện ra vụ việc
sai
phạm
của
công
ty
Bột
ngọt
Vedan.
- Theo đó thì công ty Vedan đã hằng ngày sả nước thải bẩn (chưa
qua xử lý) trực tiếp ra sông Thị Vải (Đồng Nai) suốt 14 năm qua
kể từ khi đi vào hoạt động (1994): khoảng 45000m3/1tháng.
- Hành động này gây ô nhiễm nặng cho dòng sông Thị Vải, gây chết các
sinh vật sống ở sông này và ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe người


dân
ven
song.
2.
Cấu
thành
vi
phạm

pháp
luật
¤ Mặt
khách
quan:
- Hành vi nguy hiểm: sả nước thải bẩn chưa qua xử lý ra sông Thi Vải:
45000m3/1tháng. Đây là hành vi trái pháp luật hành chính.
- Hậu quả: dòng sông bị ô nhiễm nặng, phá hủy môi trường sống và làm
thủy sản chết hàng loạt, gây thiệt hại cho các hộ nuôi thủy sản và ảnh
hưởng trầm trọng đến sức khỏe người dân sống ven sông. Những thiệt
hại đó do hành vi trái pháp luật của công ty Vedan gây ra trực tiếp và
gián
tiếp.
Thời
gian:
14
năm
(từ
năm
1994-2008).
- Địa điểm: sông Thị Vải (thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng
Tàu,
Tp.Hồ
Chí
Minh).
- Phương tiện: sử dụng hệ thống ống sả ngầm.
¤ Mặt
khách
thể:
Việc làm của công ty Vedan đã xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà

nước: vi phạm trật tự quản lý nhà nước, làm tổn hại đến các quan hệ xã
hội
được
pháp
luật
bảo
vệ.
¤ Mặt
chủ
quan:
- Lỗi: là lỗi cố ý gián tiếp. Vì, Công ty Vedan khi thực hiện hành vi này
thì nhận thấy trước hậu quả, tuy không mong muốn nhưng vẫn để hậu
quả
xảy
ra.
- Mục đích: nhằm giảm bớt chi phí xử lý nước thải. Theo quy định thì
công ty Vedan phải đầu tư khoảng 1 chục triệu để xử lý 1m3 dịch thải
đậm đặc. Đáng ra phải chi từ 15%-20% vốn đầu tư cho việc xử lý nước
thải thì Công ty Vedan chỉ dành 1,5% vốn cho việc đó.
¤ Mặt
chủ
thể
vi
phạm:
- Công ty Vedan (thuộc Công ty TNHH Vedan Việt Nam) là một công ty
thực
phẩm
với
100%
vốn

đầu

Đài
Loan.
Được
xây
dựng
từ
năm
1991.



giấy
phép
hoạt
động
từ
năm
1994.
Dẫn đến, là một tổ chức có đầy đủ trách nhiệm pháp lý khi thực hiện
hành
vi
trái
pháp
luật
này.
C.
Vi
phạm

pháp
luật
dân
sự:
1.
Tình
huống
- Nguyễn T Cường (25 tuổi, Bến Tre), là sinh viên năm 2 trường ĐH Tây
Đô.
- Năm 2006, quan Internet, Cường quen với anh Huy (Việt Kiều Úc)
- Năm 2009, anh Huy về thăm quê và trú tại huyện Chợ Lách, Bến Tre.
Đúng lúc này, Cường không có tiền đóng học phí, nhiều lần nhà trường
nhắc
nhở.
-1/2/2009, Cường đến nhà anh Huy chơi và ở lại đêm. 2/2/2009, lợi
dụng lúc anh Huy đi vắng, tủ không khóa, Cường đã lấy đi 1 chiếc lắc 2
lượng
vàng
18K.
- Sau khi bán được hơn 22 triệu đồng, Cường mua một chiếc xe máy và
gởi
tiền
cho
mẹ
trả
nợ.
2.
Cấu
thành
vi

phạm
pháp
luật
¤ Mặt
khách
quan:
- Hành vi: việc làm của anh Cường (lấy cắp 2 lượng vàng 18K, bán lấy
tiền để sử dụng theo mục đích riêng) là hành vi vi phạm pháp luật dân sự
được
quy
định
tại
Bộ
luật
dân
sự.
- Hậu quả: gây thiệt hại về mặt vật chất đối với anh Huy
- Thời gian: nhà anh Huy (huyện Chợ Lách, Bến Tre)
- Thủ đoạn: lợi dụng lúc anh Huy vắng nhà và tủ không khóa.
¤ Mặt
khách
thể:
Anh Cường đã xâm phạm đến quan hệ tài sản được pháp luật bảo vệ.
¤ Mặt
chủ
quan:
- Lỗi: là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi vì Cường nhìn thấy trước hậu quả thiệt
hại do mình gây ra, nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.



- Động cơ: không có tiền nộp học phí, nhận thấy anh Huy là người giàu

nên
Cường
đã
nổi
lòng
tham.
- Mục đích:trả tiền học phí, giúp mẹ trả nợ và sử dụng vào mục đích cá
nhân
(mua
xe
máy)
¤ Mặt
chủ
thể:
Anh Cường (25 tuổi, sinh viên, không mắc phải bệnh về thần kinh) là
người có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi phạm
pháp.
D.
Vi
phạm
kỷ
luật
nhà
nước
1.
Tình
huống:
- Lê Văn An (sinh viên năm 2, trường Đại học X, Cần Thơ) nhiều lần bỏ

học, quay cóp trong giờ kiểm tra nên bị giáo viên nhắc nhở nhiều lần. An
hiện trú ở ký túc xá trường, lại còn thường xuyên uống rượu bia.
- Anh đã liên tục vi phạm từ cuối năm 2006 đến tháng 6/2007 và vượt
quá
giới
hạn
chấp
nhận
của
nhà
trường.
2.
Cấu
thành
vi
phạm
pháp
luật:
¤ Mặt
khách
quan:
- Hành vi: việc làm của An (nhiều lần bỏ học, quay cóp, uống rượu bia)
là hành vi vi phạm kỷ luật nhà trường, ký túc xá.
- Hậu quả: gây ảnh hưởng xấu đến các sinh viên khác, cũng như tương
lại của An và xâm phạm đến quy tắc quản lý của nhà trường.
- Thời gian: từ cuối năm 2006 đến tháng 6/2007.
- Địa điểm: trường ĐH X, Cần Thơ, khu ký túc xá nhà trường.
¤ Mặt
khách
thể:

Lê Văn An đã vi phạm, và xem thường quy tắc quản lý của nhà trường,
ký túc xá. Đó là các quy tắc mà An buộc phải thực hiện khi theo học tại
trường

lưu
trú
tại

túc
xá.
¤ Mặt
chủ
quan:
- Lỗi: là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi vì, An đã nhìn thấy trước hậu quả xã hội
do hành vi của mình gây ra, nhưng vẫn mong muốn hành vi ấy xảy ra.


- Nguyên nhân: tính vô kỷ luật và sự xem thường kỷ luật nhà trường của
An, thiếu tinh thần học tập và sự cầu tiến đáng có của một sinh viên.
¤ Mặt
chủ
thể:
Lê Văn An (sinh viên năm 2 trường ĐH X, Cần Thơ) là người có đủ
năng lực trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi vi phạm này.
III) KHÁI NIỆM , ĐẶC ĐIỂM, MỤC ĐÍCH VÀ CÁC LOẠI HÌNH PHẠT:
 Khái niệm:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhiêm khắc nhất của Nhà
nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế , lợi ích của người phạm tội.
Hình phạt được quy định trong BLHS và do tòa án quyết
định”( Điền 26 BLHS)

 Các đặc điểm của hình phạt:
• Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
• Được qui định trong Luật Hình sự
• Do tòa án áp dụng
• Chỉ áp dụng đối với cá nhân người phạm tội
 Mục đích:
 Phòng ngừa riêng:
• Trừng trị người phạm tội
• Cải tạo, giáo dục người phạm tội
• Ngăn ngừa họ phạm tội mới
 Phòng ngừa chung:
• Ngăn ngừa người không vững vàng phạm tội
• Khuyến khích dân tích cực chống tội phạm
 Hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung:
- Hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.
-Hình phạt bổ sung bao gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề và làm công việc nhất định,cấm cư trú, tước một số quyền


công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền ( khi không áp dụng là hình
phạt chính, trục xuất ( khi không áp dụng là hình phạt chính)
IV) PHÂN BIỆT LỖI CỐ Ý TRỰC TIẾP VÀ LỖI CÓ Ý GIÁN TIẾP:
- Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi mà người phạm tội mong muốn hậu quả
phát sinh. Hậu quả của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã
thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích, phù hợp với mong
muốn của người đó.
Ví dụ: A dùng dao đâm chết B và mong muốn B chết. Hậu quả
xảy là B chết và đúng như mong muốn của A.
- Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi mà người phạm tội không mong muốn hậu

quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội
mà người phạm tội đã thấy trước không phù hợp với mục đích của
họ. Người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là
nhằm mục đích khác. Để đạt được mục đích này mà người phạm
tội đã chấp nhận hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình có thể gây ra.
V) PHÂN BIỆT LỖI CỐ Ý GIÁN TIẾP VÀ LỖI VÔ Ý VÌ QUÁ TỰ TIN:
Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không
mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Lỗi
cố ý gián tiếp có đặc điểm sau:
 Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi
đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
 Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra.
Nghĩa là hậu quả xảy ra không phù hợp với mục đích phạm
tội. Tuy nhiên để thực hiện mục đích này, người phạm tội


chấp nhận hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình
có thể gây ra.
-Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy
ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Lỗi vô ý vì quá tự tin có đặc điểm
sau:
 Về lý trí: Người phạm tội nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thể hiện ở việc họ
thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình

có thể gây ra.
 Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hành vi của
mình sẽ gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Sự không mong
muốn này thể hiện ở việc người thực hiện hành vi phạm tội
cho rằng hậu quả không xảy ra hoặc ngăn ngừa được dựa trên
sự cân nhắc, phán đoán trước khi thực hiện hành vi. Tuy
nhiên hậu quả nguy hại cho xã hội đã xảy ra và nằm ngoài dự
tính của họ.
Điểm giống nhau: Người thực hiện hành vi nguy hại cho xã
hội đều nhận thức được hậu quả nguy hại cho xã hại mà hành
vi của mình có thể gây ra và đều không mong muốn hậu quả
đó xảy ra.

-




Điểm khác nhau:
Ở lỗi cố ý gián tiếp, người thực hiện hành vi chấp nhận khả năng
hậu quả xảy ra khi lựa chọn và thực hiện hành vi.
Ở lỗi vô ý vì quá tự tin, người thực hiện hành vi loại trừ khả năng
hậu quả xảy ra và tin rằng hậu quả không xảy ra.


Quy trình giải quyết một vụ án hình sự có 4 giai đoạn cơ b ản
sau đây:
1. Giai đoạn 1: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự
- Thẩm quyền giải quyết: cơ quan công an
- Căn cứ khởi tố vụ án hình sự: Theo quy định tại Điều 100 Bộ Luật tố

tụng hình sự thì cơ quan công an sẽ dựa vào các căn cứ sau đây để khởi
tố vụ án:







Tố giác của công dân;
Tin báo của cơ quan, tổ chức;
Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của
tội phạm;
Người phạm tội tự thú.

2. Giai đoạn 2: Truy tố
-Thẩm quyền giải quyết: Viện kiểm sát nhân dân
Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và
bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định
sau đây:





Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng;
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

3. Giai đoạn 3: Xét xử


-Thẩm quyền giải quyết: Tòa án nhân dân (theo quy định tại Điều
170,171 Bộ luật tố tụng hình sự).
-Việc xét xử vụ án hình sự sẽ được tiến hành một cách công khai qua 2
cấp : sơ thẩm và phúc thẩm.
4. Giai đoạn 4: Thi hành án
-Thẩm quyền giải quyết: Cơ quan thi hành án
Điều 255 Những bản án và quyết định được thi hành
1. Những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:





Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị
kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

2. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm
quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù
nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn

hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được
thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị, kháng cáo.
BỊ CAN, BỊ CÁO, TỘI PHẠM, NGƯỜI PHẠM TỘI:
 Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì:
- Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự.
- Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử.


Khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 2 – Điều 8 –
BLHS.Đặc điểm:
-

Có hành vi nguy hiểm cho xã hội


Hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy định
trong BLHS
Chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách
nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là
người có lỗi
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị xâm
phạm mà các quan hệ xã hội đó được BLHS bảo vệ.


Phạm tội là việc chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm trong xã hội,
phạm vào các tội được quy định trong BLHS.Khác tội phạm ở chỗ
chủ thể phạm tội không nhất thiết là người có năng lực trách
nhiệm hình sự


ÂN XÁ, ĐẶC XÁ, ĐẠI XÁ:
-Ân xá là đặc ân của nhà nước trong việc miễn giảm trách nhiệm hình sự
hoặc hình phạt với người phạm tội, thể hiện chính sách nhân đạo của
nhà nước ta với những người phạm tội, mở ra cho những người phạm
tội khả năng ăn năn hối cải, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho
xã hội và nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng.
-Ân xá được thực hiện với 2 hình thức là đại xá và đặc xá.
Đại xá

Đặc xá

Căn cứ Chưa có văn bản quy định Luật đặc xá 2007
pháp lý cụ thể.


Khái
niệm

Sự khoan hồng của Nhà
nước do Quốc hội quyết
định nhằm tha tội hoàn
toàn và triệt để cho một
số loại tội phạm nhất định
đối với hàng loạt người
phạm tội nhân sự kiện
quan trọng trong đời sống
chính trị của đất nước.

Sự khoan hồng đặc biệt của Nhà
nước do Chủ tịch nước quyết định

tha tù trước thời hạn cho người bị
kết án phạt tù có thời hạn, tù
chung thân nhân sự kiện trọng đại,
ngày lễ lớn của đất nước hoặc
trong trường hợp đặc biệt

Bản chất Tha, miễn hình phạt hoặc
giảm nhẹ hình phạt cho
một số loại tội phạm hoặc
một loạt người phạm pháp
nhất định đã hoặc chưa bị
truy tố, xét xử, thi hành
án.

Miễn toàn bộ hoặc một phần hình
phạt hoặc giảm nhẹ hình phạt, kể
cả miễn trách nhiệm hình sự hoặc
xóa án đối với một hoặc một số
người nhất định hoặc một số đông
người đang chấp hành hình phạt,
trong trường hợp họ lập được
công lớn hoặc đã quá già yếu hoặc
mắc bệnh hiểm nghèo.

Thời gian Thường vào những dịp Nhân dịp kỷ niệm những ngày lễ
thực hiện quan trọng trong đời sống lớn của dân tộc như ngày 02/9 hay
chính trị của đất nước.
30/4…hàng năm
Thẩm
Quốc hội

quyền
thực hiện

Chủ tịch nước

Đối
Người phạm tội trong giai Người phạm tội trong giai đoạn đã
tượng áp đoạn đã hoặc chưa bị truy


dụng

tố, xét xử, thi hành án.

bị kết án tù hoặc tử hình.

Giai đoạn Từ giai đoạn tố tụng đến Chỉ áp dụng từ giai đoạn thi hành
áp dụng giai đoạn thi hành án hình án hình sự.
sự
Nội dung Thông thường căn cứ vào
tình hình kinh tế chính trị
cũng như diễn biến tội
phạm trong từng thời kỳ
mà Quốc hội quyết định
đại xá cho những hành vi
phạm tội hay loại tội phạm
nào.

Theo yêu cầu (có đơn) của người
bị kết án.


Hậu quả Người được đại xá sẽ là
pháp lý người không có tội và cũng
sẽ không có án tích trong
lý lịch tư pháp của mình.

Người được đặc xá sẽ được miễn
chấp hành phần hình phạt còn lại
nhưng không được xóa án tích
ngay và vẫn có tiền án trong lí lịch
tư pháp.

Việc xét đặc xá bao gồm xét đặc xá
tha tù và xét ân giảm án tử hình.

PHẦN CÂU HỎI ĐẶT CHO NHÓM KHÁC:
Câu 1: Có nên thực thi quyền được chết hay không? Quyền được chết
có thực sự là một quyền có điều kiện không?
Câu 2: Pháp luật có quy định về độ tuổi người đứng quyền sở hữu
không? Nếu có thì từ bao nhiêu đến bao nhiêu tuổi?


Câu 3: Trong trường hợp nếu di sản dành cho việc thờ cúng, di tặng thì
chỉ được sử dụng để thực hiện việc thờ cúng, di tặng đúng không? Tại
sao?
Câu 4: Làm sao để phân biệt hợp đồg dân sự và hợp đồg thươg mại?
Chúng khác nhau ở điểm nào ?;
Câu 5 : Qui trình Ly hôn thuận tình khác li hôn đơn phương chỗ nào?
Câu 6 : Vợ chồng sắp li dị, trước khi li hôn người chồng có nợ một khoản
tiền rất lớn, và nói đó là tiền vay để làm ăn nhưng người vợ lại không hề

biết về số tiền đó.
Vậy người vợ có phải chịu trách nhiệm về khoản nợ kia không?
Câu 8: * Tội giết cả cha lẫn mẹ có nặng hơn tội giết người bình thương
không.?
* Tạm giữ người theo thủ tục hành chính được áp dụng trong những
trường hợp nào? Thời hạn giam giữ tối đa là bao lâu? Cơ quan giữ có
phải thông báo cho người thân nguòi bị giam giữ biết hay không?



×