Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

bài giảng luật tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.16 KB, 77 trang )

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1. Khái niệm Luật tố tụng dân sự Việt Nam
Theo Điều 9 Bộ luật dân sự (BLDS), tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; khi quyền dân sự của
một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật
dân sự hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận quyền dân sự của mình;
buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa
vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hạị.
Theo Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, các Toà án là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiệm vụ xét xử những vụ án hình sự, dân
sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác
theo quy định của pháp luật để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo
vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Do vậy, khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể
khác theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ. Nhận được yêu
cầu bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể theo quy định của pháp luật Toà án phải xem xét
giải

quyết

kịp

thời

để

bảo

vệ



bảo

vệ

quyền

dân

sự

của

họ.

Phân loại vụ việc dân sự.
Các vụ việc được Toà án giải quyết, phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động được gọi là vụ việc dân sự. Trong
đó, đối với những vụ việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên thì được gọi
là vụ án dân sự; đối với những vụ việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên, đương sự chỉ yêu cầu Toà án xác định một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác hay yêu
cầu Toà án công nhận cho mình quyền dân sự thì được gọi là việc dân sự.
1


Để giải quyết được vụ việc dân sự, Toà án phải triệu tập các đương sự - các bên của vụ
việc dân sự đến yêu cầu họ trình bày yêu cầu của mình, cung cấp chứng cứ, tài liệu chứng
minh cho yêu cầu đó; triệu tập người làm chứng đến trình bày về những vấn đề của vụ
việc mà họ đã chứng kiến sự. Ngoài ra, trong một số trường hợp Toà án còn phải triệu tập

cả những người có kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn hoặc những người khác đến yêu
cầu họ cho ý kiến về những vấn đề của vụ việc dân sự. Từ đó, việc giải quyết vụ việc dân
sự làm phát sinh các quan hệ khác giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (Toà án, Viện kiểm
sát) với những người tham gia tố tụng; giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau và
giữa những người tham gia tố tụng với nhau. Để bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng và
đúng đắn vụ việc dân sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể Nhà nước phải
đặt ra các quy phạm pháp luật quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham
gia các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Trong khoa học pháp
lý, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự được gọi là “tố tụng dân sự” và tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự thành một
ngành luật được gọi là luật tố tụng dân sự.
Như vậy, luật tố tụng dân sự Việt Nam là ngành luật trong hệ thống pháp luật của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phát
sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân
sự nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và lợi
ích của Nhà nước.
Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về tố tụng dân sự. ý kiến thứ nhất cho
rằng thi hành án dân sự cũng là một giai đoạn của tố tụng dân sự. Ý kiến khác lại cho
rằng thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp vì thi hành án dân sự là hoạt động
mang tính chất chấp hành nhưng là chấp hành quyết định của Toà án - quyết định của Cơ
quan tư pháp. Tuy nhiên, số đông các luật gia cho rằng thi hành án dân sự là một bộ phận
của tố tụng dân sự do nó chịu sự chi phối bởi những nguyên tắc tố tụng dân sự.

2


2. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
2.1. Đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam
Như vậy, đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự Việt Nam là các quan hệ

giữa Toà án, Viện kiểm sát, những người tham gia tố tụng và cơ quan thi hành án phát
sinh trong tố tụng dân sự.
Căn cứ vào mục đích tham gia tố tụng của các chủ thể có thể chia các quan hệ
thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự thành các loại:
- Các quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát với đương sự, người đại diện của đương
sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự;
- Các quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát với người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch;
- Các quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án với nhau.
Trong mỗi loại quan hệ, yêu cầu đối với các chủ thể có thể khác nhau. Việc xác
định, quy định và thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể có ý nghĩa
rất quan trọng, góp phần bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, đúng
đắn.
2.2. Phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự Việt Nam
Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật phụ thuộc rất lớn vào tính chất của
các nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Xuất phát từ tính chất
các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự chủ yếu là các quan hệ
giữa Toà án, Viện kiểm sát với những người tham gia tố tụng nên luật tố tụng dân sự điều
chỉnh các quan hệ này bằng hai phương pháp bảo đảm mệnh lệnh – phục tùng và bảo
đảm quyền tự định đoạt của đương sự.

3


CHƯƠNGII. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ
1. Khái niệm, ý nghĩa và phân loại các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự
Việt Nam
Theo khái niệm chung nhất, các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự được
hiểu là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng và thi hành pháp luật tố

tụng dân sự đồng thời thể hiện những đặc trưng cơ bản của ngành luật.
Chương II, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định 22 điều luật từ điều 3 đến điều 24.
Tuy nhiên, đại đa số các điều luật là những nguyên tắc chung của cả hệ thống pháp luật
hoặc một số bảo đảm pháp lý chung chứ không phải tất cả đều là những nguyên tắc riêng
có của tố tụng dân sự.
Trong chương trình này, chúng tôi chỉ trình bày những nguyên tắc thể hiện rõ
những đặc trưng của tố tụng dân sự.
2. Nội dung các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự Việt Nam
2.1 Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 Bộ luật
TTDS)
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự bắt nguồn từ
nguyên tắc bảo đảm quyền tự quyết của các bên đối với các vấn đề liên quan đến quyền,
lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ dân sự. Trong tố tụng dân sự, nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự thể hiện ở khả năng những người tham gia tố tụng tự do định
đoạt các quyền dân sự của mình và các quyền, phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Đó cũng là quan niệm chung nhất về nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự được nhiều luật gia trên thế giới chia sẻ. Tuy nhiên, cũng như
mọi quyền tự do khác, người ta chỉ được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và không
ảnh hưởng tới quyền tự do của người khác.
4


Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là một trong những
nguyên tắc cốt lõi, đặc trưng nhất của Luật tố tụng dân sự và được biểu hiện dưới nhiều
nội dung khác nhau:
- Toà án không tự đưa các tranh chấp dân sự ra Toà để giải quyết, việc khởi kiện
hay không khởi kiện là do các bên đương sự tự quyết định. Chính các bên đương sự vừa
là người quyết định việc khởi động tiến trình tố tụng bằng cách đưa vụ án dân sự ra Toà,
đồng thời cũng là người quyết định các hành vi tố tụng tiếp theo, như: nguyên đơn có thể
rút đơn khởi kiện hoặc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình; bị đơn có thể đưa

ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, thừa nhận hoặc không phản đối những tình
tiết, sự kiện mà bên nguyên đơn đưa ra; các bên đương sự có quyền thoả thuận với nhau
về việc giải quyết vụ việc dân sự một cách tự nguyện, không trái pháp luật, trái đạo đức
xã hội; tự mình quyết định việc kháng cáo hay không kháng cáo theo thủ tục phúc
thẩm…;
- Bộ máy xét xử sẽ chỉ hoạt động khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự
và chỉ trong phạm vi mà các bên đương sự có yêu cầu. Toà án thụ lý đơn khởi kiện chỉ
giải quyết trong phạm vi yêu cầu khởi kiện và chỉ trong phạm vi những bị đơn đã được
nêu trong đơn khởi kiện đó (ngoại lệ là đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt
đối do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Toà án có quyền tuyên
bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu mà
không phụ thuộc vào yêu cầu của các bên đương sự);
- Thủ tục xét xử phúc thẩm chỉ được bắt đầu khi và chỉ khi có đơn kháng cáo của
đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện (hoặc quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát) đối
với bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Nếu người
kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo (hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị) thì Toà án
cấp phúc thẩm phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ việc. Bị giới hạn bởi nội
dung kháng cáo, kháng nghị, đối với những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không
5


có kháng cáo, kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo,
kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có thẩm quyền xem xét, quyết định.
2.2. Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (Điều 6 Bộ
luật TTDS)
Hoạt động xét xử các vụ án dân sự là hoạt động phát sinh trên cơ sở có sự tranh
chấp quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên có lợi ích tư đối lập nhau nhưng bình đẳng
về địa vị pháp lý mà trong đó có một quy tắc chung cho cả hai bên đương sự: người nào
đề ra một luận điểm cần có chứng cứ thì phải chứng minh. Quy tắc chung về nghĩa vụ

cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự cũng đã được đề cập đến trong các Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động. Bên cạnh đó, xuất phát từ
nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án trong suốt quá trình tố tụng dân sự, các
Pháp lệnh tố tụng trước đây quy định Toà án phải giữ vai trò tích cực và chủ động trong
việc xác minh, thu thập chứng cứ, theo đó Toà án không chỉ giới hạn ở những tài liệu,
chứng cứ đã được đương sự xuất trình mà còn có thể (nếu xét thấy cần thiết) áp dụng các
biện pháp thu thập chứng cứ do pháp luật quy định để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
được chính xác. Tuy nhiên, quy định này dễ dẫn đến tình trạng Toà án lạm dụng quyền
lực, thiên vị cho một bên hoặc “làm thay” cho các bên đương sự khi giải quyết vụ việc và
hậu quả là quy định về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự trong tố
tụng dân sự chỉ còn mang tính hình thức, không còn mấy ý nghĩa trong thực tiễn. Để khắc
phục một phần những khiếm khuyết trong các Pháp lệnh, đồng thời mở rộng nguyên tắc
tự định đoạt của đương sự cũng như tăng cường yếu tố tranh tụng trong tố tụng dân sự,
Điều 6 Bộ luật TTDS quy định nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự như sau:
1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi
kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
6


2. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do
Bộ luật này quy định”
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này là:
- Mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng minh những tình tiết mà mình đã viện
dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và phản đối của mình. Nghĩa vụ này cũng được áp
dụng trong trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước,
lợi ích công cộng hoặc quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Bên cạnh đó, nguyên tắc
chung về nghĩa vụ chứng minh của các bên đương sự cũng có những ngoại lệ. Những

ngoại lệ này có thể được quy định ngay trong Bộ luật TTDS (ví dụ như quy định tại Điều
80 Bộ luật về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh) hoặc có thể do pháp luật
nội dung quy định. Ví dụ: theo quy định tại khoản 1 Điều 308 và quy định tại khoản 1,
khoản 2 Điều 621 BLDS 2005, trong trường hợp người dưới 15 tuổi, người mất năng lực
hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian học tại trường hoặc trong thời
gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì trường học, bệnh viện, tổ chức khác chỉ
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có lỗi. Điều đó cũng có nghĩa, nếu áp dụng một
cách máy móc quy định tại Điều 6 Bộ luật TTDS thì người có quyền (người bị thiệt hại)
phải chứng minh lỗi của trường học, bệnh viện hoặc tổ chức khác trong việc vi phạm
nghĩa vụ. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc suy đoán lỗi của người vi phạm nghĩa vụ,
nên trong trường hợp này, người có quyền sẽ không phải chứng minh lỗi của trường học,
bệnh viện, tổ chức khác, mà ngược lại, việc chứng minh mình không có lỗi sẽ thuộc trách
nhiệm của trường học, bệnh viện, tổ chức khác đó (khoản 3 Điều 621 BLDS 2005);
- Đương sự có nghĩa vụ chứng minh nên khi không đưa ra được chứng cứ hoặc
không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc
chứng minh không đầy đủ đó (khoản 4 Điều 79 Bộ luật). Hậu quả đó có thể là yêu cầu
hoặc phản đối yêu cầu mà đương sự đưa ra sẽ không được Toà án chấp nhận hoặc chỉ
được Toà án chấp nhận một phần…;

7


- Vai trò của Toà án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ được đổi mới theo
hướng Toà án chỉ áp dụng một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ trong những
trường hợp luật định và việc tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án phải
tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do Bộ luật này quy định (từ Điều 85 đến Điều 94 Bộ
luật); trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc chưa đủ cơ sở để giải quyết thì
Thẩm phán không được tự mình xác minh, thu thập mà phải yêu cầu đương sự giao nộp
bổ sung chứng cứ (khoản 1 Điều 85 Bộ luật).
2.3. Nguyên tắc hoà giải trong tố tụng dân sự (Điều 10 Bộ luật TTDS)

Hoà giải là sự thoả thuận giữa các bên đương sự về việc giải quyết toàn bộ nội
dung yêu cầu khởi kiện và tự nguyện chấm dứt tranh chấp bằng con đường tố tụng. Trong
Bộ luật TTDS Việt Nam, hoà giải vừa được quy định với ý nghĩa là quyền tự định đoạt
của đương sự, đồng thời cũng được khẳng định là một trong những nguyên tắc cơ bản của
Luật tố tụng dân sự. Tại Điều 10 Bộ luật TTDS quy định: “Toà án có trách nhiệm tiến
hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải
quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này là:
- Hoà giải là một thủ tục tố tụng được thực hiện đối với một số việc dân sự (chẳng
hạn như yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn…) và mọi vụ án dân sự, trừ trường hợp vụ
án dân sự Bộ luật quy định không tiến hành hoà giải được (bị đơn đã được Toà án triệu
tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể tham gia hoà giải
được vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất
năng lực hành vi dân sự) và trừ trường hợp vụ án dân sự không được hoà giải (yêu cầu
đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước; những vụ án dân sự phát sinh từ
giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội). Là thủ tục tố tụng, hòa giải được tiến
hành ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Hội đồng
xét xử phúc thẩm bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự tại
phiên toà phúc thẩm;
8


- Hoà giải trong tố tụng dân sự Việt Nam là hoà giải trước Toà án, hay còn gọi là
hoà giải trong quá trình tố tụng và được thực hiện với sự hiện diện của Thẩm phán hoặc
Hội đồng xét xử. Tuy Toà án không phải là chủ thể của quyền hoà giải, và cũng không đại
diện cho lợi ích của bất cứ bên đương sự nào, nhưng với tư cách là cơ quan xét xử có
trách nhiệm tiến hành hoà giải, Toà án có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
hoà giải. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để các đương sự hoà giải với nhau, giúp cho
các bên đương sự hiểu rõ pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội đang tranh chấp, giải thích
cho họ về hậu quả pháp lý trong trường hợp hoà giải thành và hoà giải không thành. Bên

cạnh đó, Toà án có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện quyền tự định đoạt trong việc hoà
giải của các bên đương sự nhằm đảm bảo tiến trình hoà giải diễn ra theo đúng quy định
của pháp luật và có quyền không công nhận kết quả hoà giải, nếu sự thoả thuận đó trái
pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

CHƯƠNG III. CHỦ THỂ TỐ TỤNG DÂN SỰ

1. Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự
Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật chỉ gồm Toà án nhân
dân và Viện Kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, vai trò của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân dự cũng chỉ là phụ. Nhiều vụ việc được thụ lý, giải quyết tại Toà án nhân dân
không nhất thiết phải có sự tham gia của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân (Công nhận
thuận tình ly hôn…).
1.1. Tòa án nhân dân

Cơ cấu tổ chức hệ thống Toà án nhân dân ở nước ta, Toà án nhân dân được tổ chức
theo 3 cấp:
- Toà án nhân dân Tối cao;
- Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Gọi chung là cấp tỉnh);
9


- Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Gọi chung là cấp
huyện).
Tuy nhiên, phụ thuộc vào thẩm quyền giải quyết vụ, việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm
đã được quy định tại các Điều 33, Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì các cấp xét xử
cũng theo cấp Toà án tương ứng.
+ Các cấp xét xử trong hệ thống Toà án nhân dân
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì khi vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện, thì Toà án nhân dân cấp

tỉnh sẽ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, nếu có kháng cáo hoặc kháng nghị; còn khi vụ
việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp
tỉnh, thì Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao sẽ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, nếu
có kháng cáo hoặc kháng nghị.
+ Thẩm quyền giám đốc thẩm trong hệ thống Toà án nhân dân
Giám đốc thẩm tuy không phải là một cấp xét xử, nhưng khi bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 282 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Thẩm quyền giám đốc thẩm được quy định tại Điều 291 Bộ luật Tố tụng dân sự như
sau:
1) Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị.
2) Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động của Toà án nhân dân Tối cao giám đốc thẩm
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng
nghị.
3) Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao
động của Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị.
10


4) Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc
thẩm quyền của các cấp Toà án khác nhau được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.
Như vậy, khi vụ việc dân sự được giải quyết qua nhiều cấp, nhiều khâu thì xuất hiện rất
nhiều quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Quan hệ giữa các cấp Toà án với nhau thông qua
thẩm quyền sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm cũng thuộc nhóm các quan hệ pháp luật
tố tụng dân sự phái sinh.
+ Thành phần tiến hành giải quyết vụ việc dân sự
Đối với các vụ việc dân sự, thẩm quyền chung là của Toà án nhân dân. Tuy nhiên,

với mỗi vụ việc cụ thể, Toà án lại giao cho Thẩm phán, Thư ký Toà án trực tiếp phụ trách
trong giai đoạn chuẩn bị hồ sơ; khi đưa ra xét xử sơ thẩm Hội đồng xét xử được thành lập
với thành phần một Thẩm phán, hai Hội thẩm nhân dân.
Ngoài ra, trong nhiều vụ việc, Viện Kiểm sát nhân dân cũng tham gia vào quá
trình giải quyết theo thẩm quyền mà pháp luật có quy định. Trong mỗi phiên giải quyết
vụ việc dân sự còn có sự tham gia của một thư ký phiên tòa.
Như vậy, tuỳ thuộc vào từng vụ việc mà thành phần tiến hành giải quyết vụ việc
dân sự cũng khác nhau và theo đó các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự cũng nhiều, ít
khác nhau.
1.2. Viện kiểm sát nhân dân
Cơ cấu tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân:
Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân dân tham gia theo từng cấp tương ứng
với cấp Toà án, Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta cũng được tổ chức theo 3 cấp:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

11


- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Gọi chung là cấp
tỉnh);
- Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Gọi chung là
cấp huyện).
+ Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc giải
quyết các vụ việc dân sự của Toà án nhân dân và thực hiện quyền kháng nghị đối với các
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm để Toà án cấp trên
trực tiếp giải quyết theo thủ tục phúc thẩm; kháng nghị đối với các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Toà án để Toà án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm. So với quy định trước khi có BLTTDS, vai trò tham gia của Viện
kiểm sát nhân dân đã hạn chế rất nhiều. Viện kiểm sát nhân dân không khởi tố vụ án dân

sự. Viện kiểm sát cũng ít tham gia trực tiếp đối với quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Điều 21 BLTTDS quy định: Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định
của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự được kịp thời, đúng pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân tham gia đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà
đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án, các vụ việc dân sự


Viện

kiểm

sát

kháng

nghị

bản

án,

quyết

định

của

Tòa


án.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ này, giữa Viện Kiểm sát và Toà án, giữa Viện Kiểm sát
và đương sự hay những người tham gia tố tụng khác cũng xuất hiện những quan hệ mà
Pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh.
2. Người tiến hành tố tụng
* Chánh án
+ Chánh án Toà án cấp sơ thẩm

12


Trong tố tụng dân sự, Chánh án Toà án cấp sơ thẩm (cấp tỉnh hoặc cấp huyện) có
quyền xem xét vụ việc dân sự có thuộc thẩm quyền của Toà án mình hay không, bao gồm
cả thẩm quyền theo cấp Toà án, theo lãnh thổ hoặc theo vụ việc… Quyết định của Chánh
án Toà án cấp sơ thẩm thụ lý vụ việc dân sự để giải quyết sẽ làm phát sinh các quan hệ tố
tụng dân sự theo quy định của pháp luật. Quy trình tố tụng dân sự được bắt đầu, theo đó,
các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự được dần dần xuất hiện.
Ngoài tư cách là Chánh án, Chánh án Toà án cấp sơ thẩm với tư cách là Thẩm
phán có thể trực tiếp giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm và các quan hệ
giữa Toà án với những người tham gia tiến hành tố tụng dân sự khác và những người
tham gia tố tụng dân sự (các đương sự, người làm chứng…) đều theo quy định của pháp
luật.
+ Chánh án Toà án cấp phúc thẩm
Trong tố tụng dân sự, Chánh án Toà án cấp phúc thẩm (cấp tỉnh hoặc Toà chuyên
trách Toà án nhân dân Tối cao) có quyền xem xét thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm theo
quy định tại Điều 257 Bộ luật Tố tụng dân sự và thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và
phân công một Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà.
+ Chánh án Toà án cấp giám đốc thẩm
Theo quy định tại Điều 285 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Chánh án Toà án nhân dân

Tối cao, có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao. Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, có quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân
cấp huyện.
Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh còn có quyền làm chủ toạ phiên toà giám đốc
thẩm nếu vụ án được đưa ra xét xử giám đốc thẩm. Chánh án Toà án nhân dân tối cao làm

13


chủ toạ phiên toà giám đốc thẩm nếu vụ án được đưa ra xét xử giám đốc thẩm tại Uỷ ban
Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán.
Như vậy, các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có vai trò chủ thể của chánh án Toà
án nhân các cấp cũng được quy định rất cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự.
* Thẩm phán
Trong tố tụng dân sự, Thẩm phán đóng một vai trò chủ thể không thể thiếu trong
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Ngay từ khi vụ, việc dân sự được Toà án thụ lý theo
đúng thẩm quyền, Thẩm phán được giao chuẩn bị hồ sơ vụ việc dân sự đó đã trở thành
chủ thể bắt buộc của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Thẩm phán được giao chuẩn bị hồ sơ vụ việc dân sự không nhất thiết phải ngồi
chủ toạ phiên toà sơ thẩm, do đó Thẩm phán được giao nhiệm vụ chủ toạ phiên toà sơ
thẩm lại là chủ thể trong quan hệ với các Hội thẩm nhân dân và chủ thể trong các mối
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự khác.
* Hội thẩm nhân dân
Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia Hội đồng xét xử sơ thẩm. Khi tham gia Hội đồng
xét xử sơ thẩm Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán và như vậy họ cũng là
chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự như Thẩm phán chủ toạ phiên toà.
* Thư ký Tòa án
Thư ký Toà án tham gia tố tụng dân sự với tư cách giúp Thẩm phán trong quá trình

xây dựng hồ sơ và chuẩn bị xét xử. Trong thực tế, vai trò của Thư ký Toà án cũng rất
quan trọng trong việc chuẩn bị các công tác nghiệp vụ cần thiết trước khi mở phiên toà.
Trong trường hợp hoà giải, nhất là hoà giải thành mà Toà án ra quyết định công
nhận sự thoả thuận giữa các bên đương sự thì Thư ký Toà án làm biên bản hoà giải thành
và chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của nội dung biên bản đó, giúp cho Thẩm phán ra
quyết định công nhận sự thoả thuận giữa các bên đương sự được đúng pháp luật.
14


Điều 43 BLTTDS quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án như:
Chuẩn bị các công tác nghiệp vụ cần thiết trước khi khai mạc phiên toà; Phổ biến
nội quy phiên toà; Báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập
đến phiên toà; Ghi biên bản phiên toà; Thực hiện các hoạt động tố tụng khác theo quy
định của Bộ luật.
Xuất phát từ các nhiệm vụ cụ thể đó, Thư ký Tòa án cũng là chủ thể quan trọng
trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
3. Người tham gia tố tụng dân sự
3.1. Đương sự
Điều 56 BLTTDS quy định: Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ
chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đương nhiên, đương sự là chủ thể không thể thiếu trong quan hệ pháp luật tố tụng
dân sự. Không có đương sự thì không có vụ việc dân sự và không có quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự phát sinh.
Điều 58 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của đương sự.
Với các quyền và nghĩa vụ này, đương sự tham gia với tư cách chủ thể các quan hệ pháp
luật tố tụng dân sự.
Thành phần đương sự trong các vụ, việc dân sự có khác nhau và vai trò chủ thể
của họ cũng khác nhau. Ngoài các quyền, nghĩa vụ chung giữa họ, mỗi vị trí còn có các
quyền, nghĩa vụ đặc thù. Hãy xem xét từng vị trí cụ thể.


3.1.1. Nguyên đơn

15


Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự
khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo
vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên
đơn.
Theo quy định tại Điều 59 BLTTDS thì ngoài các quyền, nghĩa vụ của đương sự
quy định tại Điều 58 của Bộ luật, nguyên đơn có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
- Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu khởi
kiện;
- Đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng;
-

Đề

nghị

Toà

án

tạm

đình


chỉ

giải

quyết

vụ

án.

- Nguyên đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi
là từ bỏ việc khởi kiện.
3.1.2. Bị đơn
Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án
dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.
Theo quy định tại Điều 60 BLTTDS thì ngoài các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định
tại Điều 58 của Bộ luật, bị đơn có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn bộ yêu
cầu của nguyên đơn;
- Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của
nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu;
- Được Toà án thông báo về việc bị khởi kiện.
16


- Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án giải
quyết vắng mặt bị đơn.
3.1.3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không

khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được
Toà án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa
vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Toà án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Theo quy định tại Điều 61 BLTTDS thì ngoài các quyền, nghĩa vụ của đương sự
quy định tại Điều 58 của Bộ luật, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có các quyền,
nghĩa vụ sau đây:
- Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với
bên bị đơn;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì có các quyền,
nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 59 của Bộ luật này;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên nguyên đơn
hoặc chỉ có quyền lợi thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 59
của BLTTDS;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc
chỉ có nghĩa vụ thì có các quyền, nghĩa vụ của bị đơn quy định tại Điều 60 của BLTTDS.

17


Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự, Bộ luật
tố tụng dân sự còn quy định về việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng (Điều 62).
3.2. Người đại diện của đương sự
Trong tố tụng dân sự, người đại diện của đương sự cũng đóng vai trò chủ thể quan
trọng trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điều 73 BLTTDS thì
người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại

diện theo uỷ quyền.
- Người đại diện theo pháp luật được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại
diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo
quy định của pháp luật.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác cũng là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ.
- Người đại diện theo uỷ quyền được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại
diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự; đối với việc ly hôn, đương sự không được uỷ
quyền

cho

người

khác

thay

mặt

mình

tham

gia

tố

tụng.


Liên quan đến người đại diện trong tố tung dân sự, Điều 75 BLTTDS quy định những
trường hợp không được làm người đại diện.
Trong tố tụng dân sự việc chỉ định người đại diện cũng được quy định nếu có
đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc
người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 75 của Bộ luật này thì Toà án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại
Toà án (Điều 76).
Việc chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự và hậu quan của nó cũng cần chú ý
khi xem xét quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Người đại diện theo pháp luật, người đại
diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự chấm dứt việc đại diện theo quy định của Bộ luật
dân sự.
18


Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người được đại diện đã
thành niên hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự thì người đó tự mình tham gia tố
tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng dân sự theo thủ tục do Bộ
luật này quy định.
Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo uỷ quyền thì đương sự hoặc người thừa
kế của đương sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc uỷ quyền cho người khác đại diện tham
gia tố tụng theo thủ tục do Bộ luật này quy định.
Quyền, nghĩa vụ của người đại diện cũng được quy định cụ thể tại Điều 74
BLTTDS.
3.3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 63 BLTTDS)
1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và
được Toà án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự.
2. Những người sau đây được Toà án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự:
a) Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư;

b) Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án hoặc bị kết án
nhưng đã được xoá án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục và quản chế hành chính; không phải
là cán bộ, công chức trong các ngành Toà án, Kiểm sát, Công an.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của
những người đó không đối lập nhau. Nhiều người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có thể cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một đương sự trong vụ án.
Quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (điều 64).
19


3.4. Người làm chứng
Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án có thể được Toà án triệu
tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự
không thể là người làm chứng.
Quyền, nghĩa vụ của người làm chứng được quy định tại Điều 66 BLTTDS.
3.5. Người giám định
Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của
pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định được các bên đương sự thoả thuận lựa
chọn hoặc được Toà án trưng cầu để giám định đối tượng đó theo yêu cầu của một hoặc
các bên đương sự.
Quyền, nghĩa vụ của người giám định được quy định tại Điều 68 BLTTDS.
3.6. Người phiên dịch
Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và
ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt.
Người phiên dịch được các bên đương sự thoả thuận lựa chọn và được Toà án chấp nhận
hoặc được Toà án yêu cầu để phiên dịch.
Trong trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người câm,
người điếc biết được dấu hiệu của họ thì người đại diện hoặc người thân thích có thể

được Toà án chấp nhận làm phiên dịch cho người câm, người điếc đó.
Việc thay đổi người giám định, người phiên dịch cũng được quy định trong BLTTDS đó
là:
1. Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do Chánh án
Toà án quyết định.
2. Tại phiên toà, việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do Hội đồng xét xử
quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi. Hội đồng xét xử thảo luận
20


tại phòng nghị án và quyết định theo đa số. Trong trường hợp phải thay đổi người giám
định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà. Việc trưng cầu
người giám định khác hoặc thay người phiên dịch khác được thực hiện theo quy định tại
Điều 67 và Điều 69 của Bộ luật này.

CHƯƠNG IV. THẨM QUYỀN VỀ DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN

1. Khái niệm
Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp
luật qui định. Có thể hiểu một cách đơn giản: «thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự
của Toà án là quyền xem xét thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự bằng một quyết định
hoặc bản án của Tòa án theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng dân sự ».
Theo qui định tại Điều 1 của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt BLTTDS), Tòa án có
thẩm quyền giải quyết các vụ án và các việc về dân sự, về hôn nhân và gia đình, về kinh
doanh, thương mại và lao động. Xét về bản chất, các quan hệ pháp luật này đều có cùng
tính chất là các quan hệ tài sản hay quan hệ nhân thân được hình thành trên cơ sở thỏa
thuận, bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết và tự định đoạt của các chủ thể. Nói cách
khác đây là những quan hệ dân sự theo nghĩa rộng.
2. Các qui định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự

2.1 Thẩm quyền theo vụ việc
Thẩm quyền theo vụ việc còn được gọi là thẩm quyền chung về dân sự của tòa án.
Những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án bao gồm các vụ án dân sự và các
việc dân sự phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động và các việc khác do pháp luật qui định. Theo quy định của

21


BLTTDS các loại việc này được qui định từ Điều 25 đến Điều 32, theo đó có thể phân ra
các nhóm cụ thể như sau.
2.1.1 Những vụ án dân sự
- Tranh chấp dân sự (điều 25)
- Tranh chấp hôn nhân, gia đình (điều 27)
- Tranh chấp kinh doanh, thương mại (điều 29)
- Tranh chấp lao động (điều 31)
2.1.2. Việc dân sự
Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng có yêu
cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của
mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Toà án công nhận cho mình
quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Những yêu
cầu này được tòa án thụ lý và giải quyết nếu chúng thuộc các trường hợp được quy định
tại các điều 26, 28, 30 và 32 Bộ luật TTDS.
2.2. Thẩm quyền theo cấp tòa án
2.2.1. Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện
Qui định tại các Điều 32 Luật Tổ chức toà án, Điều 25, 26, 27, 28, 29 và Điều 33
BLTTDS
2.2.2. Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Điều 34 BLTTDS)
2.3 Thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền của toà án theo sự lựa chọn của

nguyên đơn, người yêu cầu
2.3.1. Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ (Điều 35)
22


2.3.2. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu
Điều 36 BLTTDS
2.3.3. Trả lại đơn khởi kiện, chuyển vụ việc cho tòa án có thẩm quyền và giải quyết
tranh chấp về thẩm quyền
Trước khi thụ lý vụ án nếu xác định vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của
tòa án mình thì cán bộ tòa án trả lại đơn khởi kiện cho đương sự. Việc trả lại đơn khởi
kiện có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện và hướng dẫn họ đến cơ quan
hay tòa án có thẩm quyền giải quyết (điểm e khoản 1 và khoản 2 Điều 168 BLTTDS).
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án phát hiện không thuộc thẩm quyền giải quyết thì Tòa án đó ra
quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án có thẩm quyền và xóa sổ thụ lý.
Quyết định này phải gửi ngay cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan
(khoản 1 Điều 37 BLTTDS). Đương sự, các nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan có quyền
khiếu nại quyết định này trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết
định. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án tòa án
đã ra quyết định chuyển vụ việc dân sự phải giải quyết khiếu nại. Trường hợp đương sự
đã nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án chuyển hồ sơ vụ việc dân sự không phải trả lại tiền
tạm ứng án phí cho đương sự mà tiền tạm ứng án phí đã nộp được xử lý khi Tòa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự.
Trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu nộp đơn khởi kiện, nộp đơn yêu cầu
tại nhiều tòa án khác nhau có thẩm quyền thì Tòa án đã thụ lý đầu tiên theo thời gian tiếp
tục giải quyết vụ việc dân sự. Các tòa án khác, nếu chưa thụ ký thì căn cứ vào điểm e
khoản 1 Điều 168 BLTTDS trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; nếu đã thụ lý thì căn cứ
vào khoản 2 Điều 192 BLTTSD ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự, xóa tên
vụ việc dân sự đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu, chứng
cứ kèm theo cho đương sự. Nếu đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí, thì Tòa án căn cứ

vào khoản 3 Điều 193 BLTTDS trả lại tiền tạm ứng án phí cho người đã nộp (Mục 5.2
Nghị Quyết số 02/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC, ngày 31/3/2005).
23


Khi có sự tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án thì Chánh án Toà án nhân dân tối
cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định Toà án có thẩm quyền giải
quyết. Cụ thể:
Tranh chấp về thẩm quyền giữa các tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một
tỉnh, do Chánh án tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
Tranh chấp về thẩm quyền giữa các tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các tòa án cấp tỉnh do Chánh án tòa
án nhân dân tối cao giải quyết.
Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp tỉnh nhưng
khó xác định được tranh chấp hoặc khó xác định yêu cầu đó thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của Tòa chuyên trách nào thì Chánh án tòa án nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
quyết định phân công cho một Tòa chuyên trách giải quyết theo thủ tục chung. Trường
hợp sau khi thụ lý vụ việc dân sự mới phát hiện vụ việc dân sự thuộc nhiệm vụ, quyền
hạn của Tòa chuyên trách khác thì Tòa chuyên trách đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc
theo thủ tục chung nhưng cần ghi số, ký hiệu, trích yếu trong bản án, quyết định theo
đúng hướng dẫn của Nghị Quyết số 02/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán
TANDTC, ngày 31/3/2005.

CHƯƠNG V. CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ

1.

Chứng


cứ

trong

tố

tụng

dân

sự

Việt

Nam

1.1. Khái niệm chứng cứ
Điều 81 đã đưa ra quy phạm định nghĩa khái niệm chứng cứ như sau:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, tổ chức
24


khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự
là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết đúng đắn vụ việc dân sự".
Lưu ý, « cái có thật » được hiểu là thật trong tư duy, nhận thức của con người. Nó
không phải là thật, hay đúng như những gì mà nó được sinh ra. Một khi không thể chứng
minh một sự việc là giả, nó phải được coi là « có thật ».
1.2. Các đặc điểm của chứng cứ

Chứng cứ có ba đặc điểm sau đây:
- Tính khách quan của chứng cứ
- Tính liên quan của chứng cứ
- Tính hợp pháp của chứng cứ
1.3. Nguồn chứng cứ và căn cứ để xác định chứng cứ
Theo quy định tại Điều 82 BLTTDS, chứng cứ được rút ra từ các nguồn: Các tài
liệu đọc được, nghe được, nhìn được; Các vật chứng; Lời khai của đương sự; Lời khai
của người làm chứng; kết luận giám định; Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; Tập
quán; Kết quả định giá tài sản; Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định
của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ” trong tố tụng dân sự đã đặt ra cách thức xác
định chứng cứ như sau :
(i) Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ phải là bản chính hoặc bản
sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung
cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở để lập ra các
bản sao.

25


×