Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

GIÁO TRÌNH học PHẦN LỊCH sử VIỆT NAM cổ TRUNG đại (từ NGUỒN gốc đến 1858)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 158 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
===================

GIÁO TRÌNH HỌC PHẦN

LỊCH SỬ VIỆT NAM CỔ TRUNG ĐẠI
(TỪ NGUỒN GỐC ĐẾN 1858)

Giảng viên: Lê Trọng Đại

NĂM HỌC 2012-2013

-1-


LỊCH SỬ VIỆT NAM CỔ - TRUNG ĐẠI
Dành cho ĐHSP Lịch sử
MỤC LỤC
Trang
3

Lời nói đầu
Bài mở đầu
Chương 1. Thời nguyên thuỷ trên đất Việt Nam
I. Sự xuất hiện con người, thời đại đá cũ, văn hoá Sơn Vi
II. Thời đại đá mới và cuộc cách mạng đá mới.

4
6
6


8

III. Bước phát triển xã hội cuối thời nguyên thuỷ
Chương 2. Thời dựng nước – Văn Lang, Âu Lạc
I. Văn hoá Đông Sơn và những chuyển biến về kinh tế-xã hội
II. Nước Văn Lang
III. N ước Âu Lạc
IV. Văn minh Văn minh Văn Lang- Âu Lạc
V. Sự sụp đổ của Âu Lạc
Chương 3. Thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
I. Bắc thuộc và chống Bắc thuộc lần thứ nhất, khởi nghĩa Hai Bà Trưng
II. Bắc thuộc và chống Bắc thuộc lần thứ hai, khởi nghĩa Lý Bí
III. Bắc thuộc và chống Bắc thuộc lần thứ ba, các cuộc khởi nghĩa thời nhà Đường

11
15
15
20
25
27
30
32
32
38
50

IV. Các quốc gia khu vực phía Nam
Chương 4. Bước đầu xây dựng quốc gia độc lập tự chủ
I. Bước đầu xây dựng và bảo vệ nền độc lập tự chủ, họ Khúc, họ Dương ...
II. Đinh Hoàn khôi phục sự thống nhất đất nước

III. Nước Đại Cồ Việt thời Đinh - Tiền Lê
IV. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống năm 981

58
66
66
70
71
76

V. Nhà tiền lê suy vong
Chương 5. Nước Đại Việt thời thời Lý -Trần - Hồ
I. Nhà Lý thành lập
II. Xây dựng và phát triển nhà quân chủ trung ương tập quyền
III. Xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ
IV. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm
V. Cuộc khủng hoảng xã hội ở nửa cuối thế kỷ XIV
VI. Văn hoá Đại Việt thời Lý - Trần - Hồ

77
78
78
80
84
89
92
96

-2-



Chương 6. Nước Đại Việt thời Lê Sơ (từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI)

101

I. Cuộc kháng chiến chống quân Mnh của nhà Hồ
II. Ách đô hộ của nhà Minh và phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV

101
103

III. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

107

IV.Nhà Lê Sơ và cải cách của Lê Thánh Tông
V. Sự hình thành của chế độ phong kiến Việt Nam

112
122

Chương 7. Đại Việt từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII
I.. Sự sụp đổ của nhà Lê Sơ và các cuộc nội chiến phong kiến
II. Sự phát triển mới về kinh tế
III. Tình hình văn hoá

124
124
129
134


Chương 8. Cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến , phong trào Tây Sơn
I. Đàng Ngoài khủng hoàng và các cuộc khởi nghĩa nông dân
II. Đàng Trong khủng hoảng và phong trào nông dân Tây Sơn
Chương 9. Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX
I. Tình hình chính trị
II. Tình hình kinh tế, xã hội
III. Tình hình văn hoá từ nửa sau thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX

-3-

135
135
139
148
148
151
155


Lời nói đầu
Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1858 có thời lượng 5đvht là một học
phần chuyên môn dành cho sinh viên chuyên ngành ĐHSP Sử, thuộc chương trình Đào
tạo Giáo viên trung học phổ thông hệ Đại học. Bài giảng được biên soạn dựa trên Chương
trình chi tiết đã được Hội đồng bộ môn Lịch sử của Trường ĐH Quảng Bình thông qua.
Biên soạn tập bài giảng này chúng tôi nhằm phục vụ cho việc giảng dạy và học tập của
giảng viên và sinh viên chuyên ngành lịch sử, lưu hành trong phạm vi nội bộ trường Đại
học Quảng Bình. Chắc rằng tập tài liệu này không tránh khỏi khiếm khuyết. Kính mong
các đồng nghiệp và các bạn sinh viên góp ý kiến phê bình để tác giả có thể tiếp tục sửa
chữa, bổ sung và hoàn thiện thêm giúp bài giảng đạt chất lượng cao hơn.

Xin chân thành cảm ơn!
Người biên soạn:
Lê Trọng Đại

-4-


BÀI MỞ ĐẦU: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. Nội dung học phần
Lịch sử Việt Nam Cổ -Trung đại (từ nguồn gốc đến năm 1858), có thời lượng
75 tiết = 5 tín chỉ bao gồm 9 chương .
Chương 1. Thời nguyên thuỷ trên đất Việt Nam; giới thiệu cho sinh viên những kiến thức
cơ bản về quá trình phát triển của xã hội nguyên thuỷ trên đất nước ta từ thời đại đồ đá
đến đồ đồng ở nước ta.
Chương 2. Thời dựng nước Văn Lang - Âu Lạc, đề cập đến các điều kiện hình thành
nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc (Nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc), bước
phát triển mới về chính trị, kinh tế và các thành tựu tiêu biểu của văn minh sông Hồng.
Chương 3. Thời Bắc thuộc chống Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, giới thiệu những
nội dung cơ bản trong chính sách đô hộ của phong kiến phương Bắc trên đất nước ta và
các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Ngoài ra còn đề cập tới lịch sử các
quốc gia cổ đại khu vực phía Nam Việt Nam là Lâm ấp (Chăm Pa) và Phù Nam từ thế kỷ
2 đến thế kỷ X.
Chương 4. Việt Nam trong thế kỷ X, Đây là thế kỷ bản lề, giải quyết những tồn đọng
của thời Bắc thuộc và đặt cơ sở cho chế độ phong kiến dân tộc độc lập tự chủ.
Chương 5. Việt Nam từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XV, là 4 thế kỷ xây dựng, củng cố và
hoàn thiện nhà nước Quân chủ quí tộc Lý - Trần - Hồ. Đây là 4 thế kỷ hào hùng trong lịch
sử của dân tộc cả trên trong dựng nước và giữ nước.
Chương 6. Nước Đại Việt ở thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI; giới thiệu với người học về
sự khủng hoảng và sụp đổ của nhà nước Quân chủ Qúi tộc; quá trình hình thành và xác
lập của nhà nước quân chủ quan liêu - Lê sơ.

Chương 7. Đại Việt từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII. Chương này trình bày sự
khủng hoảng sụp đổ của nhà nước quân chủ quan liêu, các cuộc chiến tranh giữa các thế
lực phong kiến quân phiệt Lê -Mạc, Trịnh - Nguyễn và quá trình phát triển của kinh tế,
văn hoá nước ta giai đoạn này.
Chương 8. Sự khủng hoảng và suy vong của chế độ phong kiến Việt Nam và phong
trào nông dân Tây Sơn sự khủng hoảng của chế độ phong kiến diễn ra ở cả Đàng Ngoài
lẫn Đàng Trong làm bùng lên phong trào khởi nghĩa nông dân mà đỉnh cao là phong trào
nông dân Tây Sơn đã lật đổ 3 tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn đánh bại quân xâm
lược Xiêm và Mãn Thanh. Các lãnh tụ Tây Sơn phong kiến hoá thành lập các vương triều
Tây Sơn. Triều Quang Trung đã thi hành một số cải cách quan trọng, giúp đất nước phục
hồi và có bước phát triển mới. Song sau cái chết của Quang Trung, các vương triều Tây
Sơn suy yếu và bị Nguyễn Ánh lật đỗ.

-5-


Chương 9 Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn. Sau khi lật đổ nhà Tây
Sơn, nhà Nguyễn tái lập chế độ Quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền trong bối
cảnh chế độ phong kiến trên thế giới đã trở nên lỗi thời. Nhà Nguyễn đã không có được
chính sách đúng đắn để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng nên tiềm lực quốc gia suy
yếu. Do đó khi thực dân pháp xâm lược nước ta, nhà Nguyễn không còn đủ uy tín để đoàn
kết toàn dân tiến hành kháng chiến vì thế đã để nước ta rơi vào ách đô hộ của thực dân
Pháp.
II. Phương pháp học tập và tài liệu
1. Phương pháp học tập
Trên cơ sở năm được kiến thức cơ bản sinh viên biết so sánh với lịch sử thế giới trong
cùng thời kỳ (so sánh đồng đại) để nắm được bản chất của các sự kiện, hiện tượng nhân
vật lịch sử, thấy được mối liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữ chúng, rút ra quy luật, bài học
lịch sử. Bên cạnh việc đọc giáo trình, nghe giảng sinh viên phải chủ động đọc thêm nhiều
tài liệu tham khảo rèn luyện các kỹ năng tư duy như suy luận lôgich, nhận xét đánh giá, so

sánh để tìm ra sự tiến bộ, phát triển kết hợp rèn luyện các kỹ năng thực hành bộ môn như:
sử dụng bản đồ, lược đồ, lập niên biểu vẽ sơ đồ, sử dụng các đồ dùng trực quan, thiết bị
dạy học.
2. Tài liệu học tập và tham khảo
+ Tài liệu học tập
Nguyễn Cảnh Minh (cb), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ X, NXB Đại học
Sư phạm - 2004 (Sách của dự án đào tạo giáo viên THCS)
+ Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Vũ Tuấn Anh (2002), Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại,
NXB Văn hoá Thông tin .
2.Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh (1998), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến
thế kỷ X (giáo trình đào tạo giáo viên THCS hệ CĐSP) NXB Giáo dục.
3. UBKHXH (1971), Lịch sử Việt Nam tập I, NXB KHXH
4. Trương Hữu Quýnh (cb),(1999), Đại cương LS Việt Nam tập I, NXB Giáo dục, HN.
5. Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh(1999), Lịch sử Việt Nam từ nguyên thuỷ đến
1858, NXB Đại học Quốc gia HN.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Giáo viên (1977), Lịch sử Việt Nam (tài liệu BDTX chu kỳ
1992 -1996 cho giáo viên lịch sử cấp 2 phổ thông), HN.
7. Nguyễn Quang Ngọc (cb)(2002), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục
8. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, tập I,
NXB KHXH, 1972.

-6-


CHƯƠNG 1. THỜI NGUYÊN THUỶ TRÊN ĐẤT VIỆT NAM
I. Sự xuất hiện con người, thời đại đá cũ, văn hoá Sơn Vi
1. Điều kiện tự nhiên
Việt Nam là một địa bàn có điều kiện tự nhiên, vị trí thuận lợi cho người nguyên thuỷ
tồn tại và phát triển: Do nằm ở cực đông lục địa châu Á có vị trí gần với Trung quốc, và

Inđônêxia là những địa bàn sinh sống xa xưa của người nguyên thuỷ. Mặt khác vị trí này
thuận lợi cho sự tiếp xúc với các nền văn hoá lớn (TQ, AĐ, phương Tây)
Do cấu tạo địa chất mà địa hình Việt Nam có đặc điểm là thuận lợi cho người nguyên
thuỷ sinh sống. Ở miền Bắc có nhiều rừng núi bạt ngàn kéo dài suốt từ biên giới Việt
Trung tới vùng Tây Bắc Thanh Hoá có nhiều khu rừng rậm rất cổ (rừng Cúc Phương ở
Ninh Bình). Các dải núi đá vôi trải dài từ Cao Bằng, Lạng Sơn, Hòa Bình, Ninh Bình,
Thanh Hoá đến Quảng Bình và rãi ra khắp miền Tây. Do tác động của thời tiết nhất là do
mưa nhiều, trong nước mưa chứa các chất axít H2C03, HNO3 có sức ăn mòn đá vôi tạo ra
nhiều hang động mái đá. Khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều nên ở nước ta đã từ lâu đời có
nhiều cánh rừng nhiệt đới xanh tốt bao la.
Những điều kiện trên đã tạo nên môi trường thuận lợi, nguồn thức ăn và nơi cư trú cho
người nguyên thuỷ. Mặt khác Việt Nam có nhiều sông, suối, kênh rạch lại có nhiều sông
lớn: sông Hồng Hà, sông Thái Bình, sông Cửu Long và sông Đồng Nai tạo nên 2 đồng
bằng rộng lớn là nơi để người ngyên thuỷ mở rộng dần địa bàn cư trú và sản xuất của
mình.
Tóm lại: Việt Nam có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi để người tối cổ xuất
hiện, sinh sống và phát triển.
2. Những dấu vết người Tối cổ (người Vượn) ở Việt Nam
Các thành tựu khảo cổ học ở thế kỷ XX giúp chúng ta có thể khẳng định rằng ngay từ
thời đại đồ đá cũ người vượn đã có mặt trên đất nước ta. Trong các hang Thẩm Khuyên,
Thẩm Hai của tỉnh Lạng Sơn (miền Bắc) các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một số
răng người vượn nằm trong lớp trầm tích màu đỏ thuộc thời đại Cánh tân. Trước đây bằng
phương pháp so sánh, các nhà nghiên cứu cho rằng người vượn ở Thẩm Khuyên, Thẩm
Hai giống răng người vượn Bắc Kinh có niên đại 30 vạn năm (cách ngày nay). Những
chiếc răng của người vượn này vừa có đặc điểm răng người lẫn răng vượn. Kết quả giám
định mới đây bằng phương pháp ESR cho niên đại tuyệt đối của các di chỉ Thẩm Khuyên
là 475000 năm cách ngày nay. Do đó có thể nói rằng ở Thẩm Khuyên khoảng 40 đến 50
vạn năm trước đã có người vượn sinh sống.
Bên cạnh răng người vượn, nằm cùng lớp ở di chỉ này còn có xương, răng của các


-7-


động vật khác sống cùng thời với người vượn như hổ, báo, lợn rừng, voi...
Ở một số địa phương trên lãnh thổ Việt Nam như núi Đọ, Quan Yên, núi Nưa (Thanh
Hoá). Ở hang Gòn, Dầu Giây thuộc Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai; An Lộc, Lộc Ninh tỉnh
Bình Phước, các nhà khảo cổ học cũng tìm được nhiều công cụ đá ghè đẽo thô sơ giống
với công cụ đồ đá thời đại sơ kỳ đá cũ. Đó là các mảnh đá ghè mà KCH gọi là mảnh tước.
Các mảnh tước thô nặng này có lẽ được dùng để chặt cắt. Bên cạnh mảnh tước còn có các
hạch đá, trốppơ. Tại Quan Yên, núi Nuông cũng tìm thấy những công cụ giống ở núi Đọ.

3. Sự biến chuyển từ người Tối cổ thành người Hiện đại (người Tinh khôn)
từ người núi Đọ đến người Sơn Vi và cuộc sống của người Sơn Vi
+ Sự biến chuyển từ người tối cổ thành người hiện đại
Trải qua quá trình tiến hoá lâu dài, người Tối cổ đã chuyển thành người Hiện đại. Từ
người vượn (Hômô Eretus) đến người hiện đại giai đoạn sớm (Hômô Spain Spain) rồi
người hiện đại giai đoạn muộn (Hômô Spain).
Các thành tựu Khảo cổ học đã chứng tỏ quá trình phát triển liên tục của người nguyên
thuỷ ở Việt Nam qua di tích hang Hùm có 2 hoá thạch răng người hiện đại sống giai đoạn
sớm cách nay 60000-70000 năm. Tại hang Kéo Lèng (Lạng sơn) có 2 hoá thạch với niên
đại khoảng 3 vạn năm cách nay. Ở di chỉ mái đá Ngườm kch phát hiện thấy hiện vật có
niên đại khoảng 23000 năn cách ngày nay. ở di tích văn hoá Sơn Vi (Phú Thọ) đã tìm thấy
hoá thạch răng người hiện đại có niên đại khoảng 2 vạn năm cách ngày nay.
+ Cuộc sống của người Sơn Vi (người khôn ngoan).
Từ người vượn ở núi Đọ đến người hiện đại giai đoạn sớm vẫn sống ở tình trạng “Bầy
người nguyên thuỷ” rất lạc hậu. Người hiện đại Sơn Vi có địa bàn sinh sống rộng lớn ở
nước ta và bắt đầu thời kỳ xã hội thị tộc. Địa bàn cư trú của người Sơn Vi được mở rộng
đến nhiều nơi trên đất nước ta từ Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc
Giang đến Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Địa bàn phân bố rộng
này chứng tỏ cộng đồng cư dân Sơn Vi đã khá đông, họ sống tập trung trên các vùng gò

đồi vùng trung du, miền núi, sống ngoài trời, có những chỗ cụm lại khá đông, đặc biệt ở
vùng trung lưu sông Hồng, vùng lưu vực sông Lục Nam, sông Hiếu. Đặc trưng của công
cụ lao động chủ yếu của người Sơn Vi là những lưỡi cuốc được ghè đẽo cẩn thận ở rìa.
Công cụ có nhiều loại hình ổn định gồm cuội, mảnh tước tách ra từ cuội Quácdit đễ làm
nạo và mũi nhọn. Sự phong phú về kỹ nghệ chế tác đá chứng tỏ chủ nhân của nền văn hoá
hậu kỳ đá cũ ở Việt Nam đã có một trình độ phát triển về kỹ thuật chế tác đá. Việc phát
hiện nhiều xương động vật lớn trong các di chỉ văn hoá Sơn Vi chứng tỏ lúc bấy giờ nghề
săn thú đã phát triển. Dù chưa biết kỹ thuật mài đá song công cụ lao động của người Sơn

-8-


Vi đã phong phú đa dạng hơn công cụ của người Núi Đọ. Các di chỉ có niên đại sớm của
văn hoá Sơn Vi được tìm thấy ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Yên Bái.
Như vậy, văn hoá Sơn Vi thuộc giai đoạn hậu kỹ đá cũ. Công cụ lao động ở VH Sơn Vi
là của người Hiện đại ở cuối thời kỳ Cánh tân. Hoạt động kinh tế của người Sơn Vi lúc ấy
chủ yếu vẫn là săn bắt và hái lượm. Sự xuất hiện của người Hiện đại Sơn Vi đánh dấu sự
kết thúc thời kỳ người Tối cổ ở Việt Nam chuyển thành người Hiện đại. Người nguyên
thuỷ chuyển từ xã hội tiền thị tộc sang xã hội công xã thị tộc và bộ lạc. Một thị tộc lúc ấy
có chừng vài ba chục gia đình cùng chung huyết thống, sống quây quần với nhau trên
cùng một khu vực là gồm một số thị tộc hợp thành bộ lạc. Họ giúp đỡ lẫn nhau và có quan
hệ hôn nhân với nhau. Trong các thị tộc, các thành viên đều có quyền bình đẳng như
nhau. Trải qua quá trình lao động lâu dài gian khổ người Sơn Vi đã tạo cơ sở cho sự phát
triển của xã hội công xã thị tộc ở giai đoạn sau.

II. Thời đại đá mới và cuộc cách mạng đá mới
1. Sơ kỳ thời đá mới
Cư dân VH Sơn Vi trong giai đoạn phát triển đã cải tiến công cụ và bước sang một giai
đoạn mới cao hơn đó là Văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn thuộc giai đoạn sơ kỳ đá mới.
a. Văn hoá Hoà Bình

Các dấu tích văn hoá Hoà Bình được phát hiện rộng rãi khắp Đông Nam Á và ở Việt
Nam. Nó có di chỉ ở các tỉnh: Hoà Bình, Thanh Hoá, Sơn La, Hà Giang, Ninh Bình, Nghệ
An, Quảng Bình. Văn hoá Hoà Bình có niên đại từ 17000 -7500 năm cách ngày nay, trong
đó phổ biến nhất là niên đại 1 vạn 2000 năm cách ngày nay.
Đặc trưng nổi bật của văn hoá Hoà Bình được thể hiện là bên cạnh kinh tế khai thác
(săn bắt và hái lượm) thì các bộ lạc nguyên thuỷ cuả văn hoá Hoà Bình đã biết làm kinh tế
nông nghiệp. Chủ nhân văn hoá Hoà Bình đã biết trồng các loại rau củ, cây ăn quả (cây
họ đậu, bầu bí) và đã biết trồng lúa (tuy chỉ mới ở giai đoạn đầu). Các thành tựu n/c của
KCH cho phép khẳng định rằng: Đông Nam Á trong đó có Việt Nam là một trong những
trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm cuả loài người, bên cạnh các trung tâm khác như
Trung Đông, Trung Mỹ, Pêru. Ở Hoà Bình tuy biết trồng lúa song cư dân vh Hoà Bình
chủ yếu vẫn sống bằng thức ăn do hái lượm và săn bắt mang lại. Mặt khác cư dân Hoà
Bình cũng đã biết chăn nuôi (biết thuần dưỡng động vật). Sự ra đời của nông nghiệp sơ
khai đánh dấu bước chuyển biến mới của họ, mở đầu công cuộc cải tạo tự nhiên bằng lao
động sáng tạo của mình. Ở các di chỉ vh Hoà Bình, các nhà KCH tìm thấy giống lúa
Ôryzasitiva sớm nhất ở thế giới. Đây là giống lúa do cư dân vh Hoà Bình thuần dưỡng.
Công cụ của cư dân vh Hoà Bình có nhiều loại hình phong phú, da dạng được chế tạo

-9-


từ các nguyên liệu khác nhau. Đặc trưng là công cụ đá cuội ghè đẽo.
Về mặt xã hội: Cư dân văn hoá Hoà Bình đã ở thời kỳ công xã thị tộc (tầng văn hoá dày
có nhiều hiện vật) chứng tỏ họ đã có cuộc sống ổn định tại một địa điểm nhất định. Họ đã
biết lấy lửa trong tự nhiên hoặc tạo ra lửa bằng cách cọ xát. Nhờ đó họ đã ăn thức ăn chín.
Sự chuyển biến theo hướng phát triển cao hơn của cư dân văn hoá Hoà Bình so với Sơn
Vi là đời sống tinh thần khá phong phú. Cư dân văn hoá Hoà Bình đã biết chế tạo các đồ
trang sức từ vỏ ốc biển được mài nhẵn có xuyên lổ xâu dây. Đã có dấu hiệu về hoạt động
nghệ thuật, là các hình khắc mặt con thú loài ăn cỏ và 3 mặt người có sừng (hình vẽ ở
hang Đồng Nội, Hoà Bình). Điều này chứng tỏ đã nảy sinh ý niệm về tín ngưỡng vật tổ sơ

khai. Cư dân văn hoá Hoà Bình đã có tục chôn người chết, nhiều ngôi mộ xác chết được
bôi thổ hoàng. Ở hang Thẩm Hai, hang Chùa (Nghệ An), hang Đắng (Cúc Phương Ninh
Bình), hang làng Gạo (Hoà Bình) có hiện tượng xác chết được chôn theo tư thế nằm co,
xung quanh xếp nhiều hòn đá lớn và công cụ bằng đá. Người chết được chôn tại nơi cư
trú gần bếp lửa, có chôn theo cả đồ trang sức bằng ốc biển hay răng thú... Những hiện
tượng trên phản ánh quan niệm của người Hoà Bình về mối quan hệ ràng buộc giữa người
sống với người đã chết.
b. Văn hoá Bắc Sơn
Cư dân v.h Hoà Bình đã tạo nên văn hoá Bắc Sơn trong quá trình tiến hoá của họ. Các
bộ lạc v.h Bắc Sơn thường cư trú trong các hang động, mái đá vùng núi đá vôi gần sông,
suối thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hoà bình, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An...
Công cụ lao động phổ biến của cư dân Bắc Sơn là rìu mài lưỡi và đã biết làm đồ gốm.
Công cụ đặc trưng của vh Bắc Sơn là rìu mài lưỡi nên các nhà KCH gọi là rìu mài Bắc
Sơn. Bên cạnh rìu còn có các cộng cụ ghè đẽo không định hình và các mảnh tước tu
chỉnh, các công cụ bằng tre, nứa, gỗ...
Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Bắc Sơn là săn bắn và hái lượm. Điểm mới so với
văn hoá Hoà bình là cư dân Bắc Sơn biết làm đồ gốm. Đặc điểm của gốm Bắc Sơn có
miệng loe, đáy tròn. Họ lấy đất sét nhào với cát nung để đồ gốm không bị rạn nứt. Tuy
vậy đồ gốm còn ít, hình dáng thô (làm bằng tay) và độ nung chưa cao.
Với những đặc trưng công cụ nói trên mà các nhà sử học gọi văn hoá Bắc Sơn là Văn
hoá đá mới sơ kỳ có gốm. Nhờ công cụ được cải tiến, công cụ đá mài phổ biến, hiệu quả
lao động tăng tiến. Cư dân Bắc Sơn, ngoài săn bắn và hái lượm là chủ yếu, họ còn biết
đánh cá, chăn nuôi, làm nông nghiệp sơ khai và làm gốm. Nhờ nguồn thức ăn phong phú
hơn trước mà cư dân Bắc Sơn có cuộc sống định cư lâu dài ở một nơi nhất định (khu mộ
tập thể ở di chỉ làng Cườm là biểu hiện của đặc điểm này).

- 10 -


Đời sống tinh thần: Cư dân Bắc Sơn có đời sống tinh thần phong phú nâng cao hơn ở

Hoà Bình. Đồ trang sức phong phú nhiều loại, làm bằng vỏ ốc mài lổ, đá phiến có nhiều
lổ đeo, chuổi hạt bằng đất nung có xuyên lổ...
Cư dân Bắc Sơn cũng có tập tục phổ biến như cư dân Hoà Bình là đã có ý niệm về thế
giới bên kia. Điều đó dược thể hiện trong cách chôn người chết khác nhau.
* Văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn có nhiều nét chung: cả 2 đều ở sơ kỳ đá mới song ở Bắc
Sơn có sự phát triển cao hơn trên cơ sở kế thừa văn hoá Hoà Bình.
2. Văn hoá hậu kỳ đá mới của dân cư nông nghiệp trồng lúa ở Việt Nam (cuộc cách
mạng đá mới)
Ở cuối thời đại đồ đá mới (cách nay khoảng 6000-5000 năm) trên cơ sở phát triển của
kỹ thuật chế tác đá và làm đồ gốm, cư dân lúc bấy giờ đã có bước tiến trong cuộc sống
của mình. Phần lớn các bộ lạc đều bước vào giai đoạn làm nông nghiệp trồng lúa. Kỹ
thuật chế tác đá phát triển đến đỉnh cao. Bên cạnh kỹ thuật mài (mài 2 mặt, mài toàn
thân) thì cư dân hậu kỳ đá mới còn biết các kỹ thuật cưa, khoan, tiện đá. Họ biết khoan
bằng 2 phương pháp: khoan xuyên lổ và khoan tách lõi. Nhờ đó công cụ gọn đẹp hơn
trước, phong phú về chủng loại, thích hợp với từng công việc từng vùng, kỹ thuật tinh
xảo và năng suất lao động tăng đáng kể so với thời Hoà Bình, Bắc Sơn. Đặc trưng của
công cụ đá giai đoạn này là rìu mài toàn thân, rìu mài có chuôi tra cán. Ngoài ra còn có
các loại bôn, đục, dao, cuốc đá có chuôi tra cán. Hầu hết công cụ được mài nhẵn bên
cạnh đồ đá, công cụ bằng xương, sừng, tre cũng được sản xuất phù hợp với từng loại
công việc. Tre nứa làm cung tên, gỗ làm cán rìu, cuốc, dao. Xương sừng làm đục, dao
nhỏ, kim khâu. Sự tiến triển trong kỹ thuật chế tác đá làm phong phú đa dạng về loại hình
công cụ lao động đã tạo điều kiện để các bộ lạc bấy giờ mở rộng địa bàn cư trú. Nền kinh
tế của cư dân sống trên lãnh thổ Việt Nam bấy giờ có bước phát triển mạnh mẽ trên nhiều
lĩnh vực. Một bộ phận cư dân vẫn tiếp tục cư trú ở vùng núi đá vôi, số khác tiến tới khai
phá, chiếm lĩnh vùng đồng bằng ven biển và hải đảo.
Sinh hoạt kinh tế của cư dân hậu kỳ đá mới trở nên phong phú đa đạng. Ở miền núi
vẫn duy trì và phát triển việc săn bắn hái lượm, cư dân ven biển làm nghề đánh cá (các bộ
lạc ven biển như Hạ Long, Quỳnh Văn, Bàu Tró trong di chỉ có phát hiện chì lưới đánh cá
hoặc xương răng cá nhiều loại lẫn trong các đống võ sò điệp).
Tuy vậy hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân lúc bấy giờ là nghề nông trồng lúa.

Nhiều bộ lạc đã sống bằng nghề nông trồng lúa dùng cuốc. Bên cạnh đó nghề làm gốm
cũng phát triển lên trình độ mới. Hình thành các trung tâm làm gốm ở nhiều địa phương
như: Mai Pha (Lạng Sơn); Nậm Tun (Lai Châu), Cái Bèo (Cát Bà, Hải Phòng), Bàu Tró
(Quảng Bình). Đồ gốm phong phú về chủng loại, đa dạng và đạt trình độ thẩm mĩ về hoa

- 11 -


văn tgrang trí như: văn thừng, văn chữ S nối đôi nhau, văn hình ô trám, văn hoa thị nối
liền...có cả gốm màu, vẽ màu. Gốm không chỉ làm đồ dùng mà còn làm đồ trang sức. Đồ
gốm ở hậu kỳ đá cũ chủ yếu làm bằng tay nhưng cũng đã có nơi làm bằng bàn xoay. Do
kỹ thuật chế tác đá phát triển mà nó trở thành một nghề thủ công khá phổ biến. Bên cạnh
các nghề nông, thủ công thì việc trao đổi hàng hoá cũng đã ra đời.
Đời sống vật chất của cư dân bấy giờ được nâng cao hơn, thời Hoà Bình, Bắc Sơn.
Các gia đình đều có công cụ lao động, đồ dùng hằng ngày, đã biết sử dụng vỏ cây, da thú
để mặc. Có dấu hiệu cho thấy cư dân bấy giờ đã biết dệt vải (tìm thấy dọi xe chỉ ở di tích
Bàu Tró).
Đời sống tinh thần của cư dân lúc bấy giờ khá phong phú biểu hiện qua số lượng đồ
trang sức tìm thấy gồm rất nhiều kiều loại và vật liệu khác nhau như: bằng đá, bằng võ ốc,
đất nung, xương, sừng gồm các loại vòng đá, nhẫn đá đeo tay đeo cổ, vòng đeo tay bằng
vỏ ốc có đục lỗ xâu dây đeo, các lọai chuỗi hạt hình trụ, hình thoi bằng đất nung, khuyên
tai bằng đất nung. Các đồ trang sức vừa phong phú về loại hình mà kỹ thuật chế tác lại
tinh xảo đạt trình độ cao. Ví dụ chuổi hạt hình ống ở Bàu Tró được chế tác bằng các kỹ
thuật khoan tách lõi, cưa, mài rất đẹp.
Cư dân ở hậu kỳ đá mới có quan niệm về thế giới bên kia khá phức tạp thể hiện qua
việc chôn người chết với nhiều kiểu khác nhau như chôn theo tư thế nằm thoải mái như
đang ngủ, tư thế nằm co, ngồi xổm, hoả táng, róc thịt chỉ chôn xương...
Trình độ mỹ cảm của cư dân hậu kỳ đá mới khá tinh tế có tính nghệ thuật được biểu
hiện qua đồ gốm, đồ trang sức các loại được trang trí đẹp mắt kiểu dáng đa dạng, loại
hình phong phú và hoa văn đẹp.

Tổ chức xã hội ở thời kỳ này là công xã thị tộc mẫu hệ. Các thành viên trong gia đình
và thị tộc đều bình đẳng; người già và phụ nữ được tôn trọng. Trong công xã đã có sự
phân công lao động giữa nam và nữ theo lứa tuổi.
Nhìn một cách tổng quát thì thời hậu kỳ đá mới về mặt xã hội, trên đất nước ta công
xã thị tộc mẫu hệ phát triển cao hơn thời Hoà Bình, Bắc Sơn. Cư dân hậu kỳ đá mới đã
tạo tiền đề cho sự giải thể của công xã thị tộc mẫu hệ.

III. Bước phát triển xã hội cuối thời nguyên thuỷ
Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đời sống của cư dân hậu kỳ đá mới là bên cạnh
kỹ thuật chế tác đá đạt đến đỉnh cao thì cư dân đã tìm ra một thứ nguyên liệu mới đó là
đồng. Việc tìm ra đồng và kỹ thuật luyện đồng, đưa nó vào sản xuất đã làm thay đổi sức
sản xuất xh đã chuyển cư dân sang giai đoạn sơ kỳ thời đại đồ đồng. Trên đất nước ta ở
giai đoạn cách ngày nay 4000 năm, một số bộ lạc đã bước vào giai đoạn sơ kỳ đồ đồng

- 12 -


tiêu biểu là cư dân văn hoá Phùng Nguyên, Hoa Lộc...Ngoài ra ở cuối TNKII đầu TNK I
TCN đến đầu Công nguyên tại Trung Bộ và Nam Bộ cư dân cũng bước vào giai đoạn kim
khí. Họ cũng như cư dân văn hóa Phùng Nguyên đã tạo tiền đề mở đầu quá trình tan rã
của xã hội nguyên thuỷ ở Việt Nam. Từ Phùng Nguyên phát triển lên Đồng Đậu, Gò Mun
rồi tới Đông Sơn. Ở miền Trung văn hoá Sa Huỳnh cũng đặt cơ sở cho sự hình thành của
vương quốc cổ Chăm Pa, văn hoá Đồng Nai và ốc Eo tạo cơ sở cho sự ra đời của vương
quốc Phù Nam.
1. Văn hoá Phùng Nguyên
Ở niên đại cách nay 4000 năm các bộ lạc Phùng Nguyên là cư dân trồng lúa ở vùng
Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng đã đạt tới đỉnh cao trình độ
chế tác đá và sử dụng thành thạo các kỹ thuật cưa, khoan tách lõi, tiện, mài...
Cư dân Phùng Nguyên cũng như thợ gốm tài hoa, họ nặn gốm bằng bàn xoay, do đó
chất lượng và mĩ thuật được nâng cao hơn. Gốm có nhiều kiểu loại như: Miệng cong có

gờ, không có gờ, miệng loe, miệng đứng, có chân đế, không có chân đế, tai và chạc gốm
có nhiều kiểu. Mỗi địa phương đồ gốm có nét đặc trưng về kiểu dáng và hoa văn riêng.
Điểm chung là chất lượng tốt, hình thức đẹp, số lượng lớn, phong phú về chủng loại hơn
ở hậu kỳ đá mới.
Công cụ lao động của cư dân Phùng Nguyên rất phong phú, gọn, tiện lợi hơn trước nhờ
kỹ thuật chế tác đá tinh xảo đạt đến đỉnh cao gồm nhiều loại rìu, bôn, cuốc đá mài nhẵn có
chuôi tra cán...Điểm nổi bật thể hiện sự phát triển đặc biệt của Phùng Nguyên là cư dân đã
biết đến đồ đồng. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một số hiện vật bằng đồng là các cục
đồng và xĩ đồng tuy chỉ chiếm 5% trong tổng số các hiện vật được phát hiện. Điều này
chứng tỏ đồng còn hiếm và rất quý. Họ luyện đồng ngay ở địa bàn cư trú. Điều đáng lưu ý
là công cụ đá vẫn chiếm ưu thế. Vì thế Phùng Nguyên vẫn chưa vượt khỏi phạm trù hình
thái xã hội Công xã nguyên thuỷ. Nó mở đầu cho quá trình giải thể của cx Thị tộc, chuyển
mình từ hội thị tộc Mẫu quyền sang bước đầu thị tộc Phụ quyền. Tuy nhiên với sự xuất
hiện của đồ đồng (cục đồng và xỉ đồng) là bằng chứng chứng tỏ cư dân Phùng Nguyên đã
bước vào thời đại kim khí, ở sơ kỳ thời đại đồng thau.
Về kinh tế: là cư dân nông nghiệp trồng lúa đã sống định cư lâu dài ở vùng trung du và
đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh nghề trồng lúa, người Phùng Nguyên cũng chăn nuôi gia
súc, làm thủ công nghiệp (trong các di chỉ có xương các loại gia súc, gia cầm), đồ gốm,
công cụ lao động. Qua việc phân tích cục đồng ở di chỉ Gò Bông một di chỉ thuộc văn hoá
Phùng Nguyên cho thấy đây là, hợp kim đồng và thiếc. Điều này là minh chứng cư dân
Phùng Nguyên đã ở sơ kỳ thời đại đồng thau (các di chỉ văn hoá Phùng Nguyên có diện
tích rộng hành chục vạn mét vuông); với tầng văn hoá dày chứng tỏ họ đã định cư lâu dài.

- 13 -


2. Văn hoá Hoa Lộc
Địa bàn phân bố các bộ lạc thuộc văn hoá Hoa Lộc sinh sống ở vùng cồn cát ven biển
các huyện Hậu Lộc và Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá.
Về kinh tế: Ngoài nghề đánh cá cư dân văn hoá Hoa Lộc cũng sống bằng nông nghiệp

trồng lúa. Họ là cư dân nông nghiệp dùng cuốc phát triển, có kỹ thuật chế tác đá và làm
gốm đạt trình độ tương đương với Phùng Nguyên. Bên cạnh đó ở lưu vực sông Mã sông
Cả, sông Chu còn có một cụm cư dân có đời sống văn hoá, kinh tế - xã hội tương đương
với Hoa Lộc là cư dân Đông Khối. Đông Khối là một di chỉ nằm ở xã Đông Lĩnh, huyện
Đông Thiện (Thanh Hoá). Đông Khối có một công xưởng chế tác đá lớn, đồ gốm cũng
khá nhiều. Ở cụm di chỉ Hoa Lộc, khảo cổ học tìm thấy xương cá biển, chì lưới khá nhiều
chứng tỏ đánh cá là một nghề quan trọng, có cả răng và xương thú là bằng chứng cho biết
nghề săn bắn cũng phát triển. Đặc biệt lưỡi cuốc đá được tìm thấy nhiều nhất so với các di
chỉ cùng thời ở Việt Nam. Ở di chỉ Hoa Lộc cũng tìm thấy các di vật bằng đồng như rìu
đồng, dây đồng. Tiếp sau Hoa Lộc (sơ kỳ đồng thau) là các bộ lạc Bái Man (trung kỳ
đồng thau); Quỳ Chữ (hậu kỳ đồng thau). Ở các di chỉ này ngoài những đặc điểm văn hoá
địa phương, đã có những nét gần gũi và đạt trình độ phát triển như văn hoá Đồng Đậu, Gò
Mun ở Bắc Bộ (các nền văn hoá kế tiếp của Phùng Nguyên) đễ hoà chung tạo nên văn hoá
Đông Sơn thống nhất ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Ngoài ra, cư dân sơ kỳ thời đại đồng thau ở lưu vực sông Lam (S.Cả) cũng lần lượt trải
qua các giai đoạn trung kỳ và hậu kỳ đồng thau, thể hiện nét tương đồng và trình độ phát
triển với cư dân sông Hồng, sông Mã trong cùng giai đoạn đễ rồi cũng hoà nhập vào văn
hoá Đông Sơn.
Nhìn một cách tổng quát, cách đây 4000 năm, ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (lãnh thổ
của Văn Lang - Âu lạc sau này) các bộ lạc tiền Đông Sơn đều bước vào giai đoạn sơ kỳ
đồng thau, sống định cư lâu dài, lấy nông nghiệp trồng lúa nước làm hoạt động chính. Họ
chuẩn bị các điều kiện tiền đề cho sự giải thể chế độ cx thị tộc Mẫu hệ, chuyển biến dần
lên cx Thị tộc phụ hệ và hình thành nhà nước Văn Lang.
3. Văn hoá Sa Huỳnh
Sa Huỳnh là địa điểm phát hiện di tích văn hoá sơ kỳ thời đại kim khí thuộc huyện Đức
Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Nền văn hoá Sa Huỳnh ra đời từ văn hoá tiền Sa Huỳnh (với 3 tiểu
nhóm: Bàu Trám - ven biển QN-ĐN thuộc xã Lý Trà huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam;
Long Thành ở đồng bằng ven biển Nghĩa Bình (Đức Phổ, Q. Ngãi) và xóm Cồn, Hoà
Vinh I ở đồng bằng ven biển Phú Khánh - Thuận Hải. Các cư dân văn hoá Sa Huỳnh vốn
là một bộ phận cư dân Mã lai- Đa đảo tới định cư ở Trung Bộ nước ta từ khoảng 5000

năm cách ngày nay. Họ đang ở giai đoạn văn hoá đồ đá mới. Đến niên đại cách ngày nay

- 14 -


4000 - 3000 năm họ dần dần tiến vào sơ kỳ thời đại kim khí. Nền văn hoá của cư dân đó
giai đoạn này được các nhà KCH gọi là văn hoá tiền Sa Huỳnh.
Văn hoá Sa Huỳnh là của cư dân thuộc tiểu chủng Mã Lai-Đa Đảo định cư ở châu thổ
sông Thu Bồn và Trà Khúc ven núi rừng các tỉnh Nam Trung Bộ và Bắc Nam Bộ. Hoạt
động kinh tế của cư dân văn hoá Sa Huỳnh là nông nghiệp dùng cuốc trồng lúa nước và
một số cây trồng khác (cây cho củ và quả, cây có sợi...) Ngoài ra cư dân văn hoá Sa
Huỳnh còn làm thủ công nghiệp (xe sợi, dệt vải, làm gốm, đồ trang sức, nấu thuỷ tinh và
chế tác công cụ...). Tại các di tích văn hoá Sa Huỳnh các nhà KCH đã tìm thấy nhiều công
cụ lao động và vũ khí bằng sắt như các loại: Rìu, cuốc, đục, dao, kiếm, giáo thuổng, liềm.
Cư dân Sa Huỳnh có đời sống tinh thần phong phú, họ sử dụng nhiều đồ trang sức thật
tinh tế để tô điểm cho cuộc sống như chuổi hạt bằng đá, đồng, mã não, khuyên tai hai đầu
thú, nhiều đồ trang sức bằng thuỷ tinh, các hoa văn bài trí trên đồ gốm cũng rất đẹp.
Người Sa Huỳnh có tục hoả táng người chết đổ tro xương vào vò, chum gốm chôn cùng
với đồ trang sức.
Quảng Bình KCH tìm thấy dấu tích của văn hoá Sa Huỳnh ở nhiều nơi: mộ táng bằng
chum đá ở Cổ Giang, Khương Hà (Bố Trạch), Quảng Lưu (Quảng Trạch), Phù Xá, Lộc
Ninh (Đồng Hới), khuyên tai 3 mấu ở Tam Toà (Đồng Hới).
Xã hội của cư dân Sa Huỳnh ngày một phát triển cùng với sự gia tăng dân số và mối
quan hệ giữa các vùng đã đưa tới sự hình thành các bộ lạc lớn mà tiêu biểu là 02 bộ lạc
Cau và Dừa. Từ 02 bộ lạc này đến đầu công nguyên đã hình thành nên vương quốc Chăm
pa cổ .
4. Văn hoá Đồng Nai
Dựa vào kết quả nghiên cứu các nhà KCH đã cho biết vào thời đại đò đá cũ ở Đông
Nam Bộ đã có con người sinh sống. Đến giai đoạn cách ngày nay 4000 năm ở đây đã
hình thành nền văn hoá Đồng Nai. Địa bàn phân bố của văn hoá Đồng Nai tại vùng Đông

Nam Bộ tập trung ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, TP Hồ Chí Minh, Long An. Các di
tích nằm trên lưu vực hai con sông Vàm Cỏ và Đồng Nai, trải dài từ vùng đất đỏ bazan, từ
trung du đến ven biển như các di tích: Gò Cát (Hồ Chí Minh), Rạch Núi(Long An), Ngãi
Thăng, Dốc Chùa (Đồng Nai) các di tích khá rộng thường tới hàng vạn mét vuông, hiện
vật rất phong phú.
Ở di chủ Dốc Chùa cách ngày nay 3500 dến 3000 năm cư dân đã bước vào giai đoạn
phát triển rực rỡ đỉnh cao của nghề luyện đồng và sơ kỳ đồ sắt. Cư dân ở đây đã chế tạo
được nhiều loại công cụ và đồ dùng khác nhau rất phong phú như: rìu, dao, công cụ đá
như: hái, cuốc ...

- 15 -


Đồ gốm có các loại nồi, vò, chậu đĩa bát. Kỹ thuật làm gốm phát triển tương đương
với kỹ thuật làm gốm của Phùng nguyên. Gốm Đồng Nai có các kiểu hoa văn như văn
chải, văn thừng, văn nan chiếu. Cư dân văn hoá Đồng Nai cũng sống chủ yếu bằng nghề
nông. Bên cạnh đó họ còn có khai thác các sản phẩm thiên nhiên và làm nghề thủ công.
Đời sống tinh thần của người Đồng Nai lúc bấy giờ đã khá phong phú. Họ làm được
nhiều đồ trang sức bao gồm: chuỗi hạt bằng đá, mã não, vòng tay bằng thuỷ tinh, vòng tay
bằng đồng, khuyên tai bằng đồng mạ vàng, dây chuyền bạc, vòng tay, nhẫn bằng sắt. Họ
cũng có tục chôn người chết ở nơi cư trú như cư dân Bắc Bộ.
5. Văn hoá Ốc Eo
Di chỉ văn háo Ốc Eo thuộc tỉnh An Giang. Cách ngày nay khoảng 2600 năm (tương
đương với thời kỳ nhà nước Văn Lang), ở miền Tây Nam Bộ đã hình thành một nền văn
hoá đồng thau được các nhà KCH gọi là văn hoá Ốc Eo. Văn hoá Ốc Eo có địa bàn phân
bố ở các tỉnh: An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Tiền Giang, Cà Mau. Văn
hoá Ốc Eo tồn tại kéo dài tới thế kỷ VII sau công nguyên. Trên cơ sở nền văn hoá này
một quốc gia cổ có tên là Vương quốc Phù Nam đã ra đời. Quốc gia Phù Nam có địa bàn
lãnh thổ khá rộng bao gồm một phần Nam Bộ Việt Nam và nam Căm Pu Chia.
Như vậy tại vùng Nam Bộ Việt Nam, từ thời đá cũ đã có con người sinh sống và cư dân

này cũng phát triển đến mức hình thành 2 nền văn hoá thời đại kim khí là Đồng Nai và Ốc
Eo trên nền tảng đó đã hình thành nên quốc gia Phù Nam sau này.
Câu hỏi ôn tập chương I
1. Hãy chứng minh rằng Việt Nam là một trong những chiếc nôi của loài người.
2. Qúa trình chuyển biến từ người Tối cổ lên người Hiện đại ở nước ta ?
3. Trình bày các giai đoạn phát triển của thời kỳ công xã thị tộc (từ văn hoá Sơn Vi) đến
văn hoá hậu kỳ đá mới và sơ kì đồng thau; So sánh sự giống và khác nhau giữa các giai
đoạn về các mặt công cụ lao động, hoạt động kinh tế, địa bàn cư trú, tổ chức xã hội.

CHƯƠNG 2. THỜI DỰNG NƯỚC - VĂN LANG, ÂU LẠC
I. Văn hoá Đông Sơn và những chuyển biến về kinh tế-xã hội.
1. Quá trình hình thành văn hoá Đông Sơn
Kết quả nghiên cứu của khảo cổ học giúp các nhà KCH khẳng định rằng: nền văn hoá
Đông Sơn có quá trình hình thành lâu dài liên tục hàng nghìn năm, từ các nền văn hoá
đồng thau tiền Đông Sơn theo thứ tự là: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun (thuộc trung
du sông đồng bằng Bắc Bộ) cùng với nó là các nền văn hoá địa phương khác ở lưu vực
sông Mã, sông Lam ở miền Trung để hợp nhất tạo thành văn hoá Đông Sơn. Từ các văn

- 16 -


hoá tiền Đông Sơn phát triển dần tới sự ra đời, phát triển của nền văn hoá Đông Sơn và
văn minh sông Hồng, sông Mã, sông Cả gọi là văn minh Việt cổ (Văn Lang - Âu lạc).
a. Giai đoạn Phùng Nguyên.
Văn hoá Phùng Nguyên ra đời cách ngày nay khoảng 4000 năm (nửa đầu TNKII TCN)
với việc phát minh ra đồng và kỹ thuật luyện kim (đồng chỉ chiếm 5% tổng số hiện vật
chủ yếu vẫn là đồ đá), đánh dấu việc cư dân Phùng Nguyên đã vượt qua thời đại đồ đá,
bước vào thời đại kim khí, tạo tiền đề phát triển lên giai đoạn Đồng Đậu. Tuy nhiên về
mặt xã hội thì suốt cả thời kỳ Phùng Nguyên, người nguyên thuỷ VN chỉ đủ thời gian để
chuẩn bị cho bước nhảy vọt sau này. Hình thái XH nguyên thuỷ thời Phùng Nguyên mới

bước đầu có dấu hiệu tan rã và còn tiếp tục tan rã cùng với bước phát triển của văn hoá
đồng thau các giai đoạn kế tiếp.
b. Giai đoạn văn hoá Đồng Đậu
Giai đoạn Đồng Đậu vừa kế thừa vừa nâng cao hơn những thành tựu của VH Phùng
Nguyên đã đạt được nó thể hiện sự phát triển liên tục lên Đồng Đậu được biểu hiện qua
thứ tự các tầng văn hoá đã khai quật phát hiện. Các di tích văn hoá Đồng Đậu có 3 tầng
VH mang đặc trưng của 3 giai đoạn: dưới cùng là Phùng Nguyên ở giữa là Đồng Đậu,
trên cùng là Gò Mun. Các hiện vật của di tích văn hoá Đồng Đậu có niên đại các bon C14
là nửa sau TNKII. TCN (từ 3500 - 3000 năm cách ngày nay). Đồng Đậu là địa điểm đầu
tiên phát hiện di tích văn hoá giai đoạn này (thuộc huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phú). Ngoài
ra KCH còn phát hiện được nhiều di tích của văn hoá Đồng đậu ở các tỉnh: Phú Thọ, Vĩnh
Phúc, Hà Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội.
Ở Đồng Đậu kỹ thuật luyện kim đồng thau đã phát triển (ở Phùng Nguyên mới biết
luyện kim). Các hiện vật bằng đồng thau ở đây chiếm tới 20% tổng số công cụ và vũ khí
với nhiều loại hình phong phú: Rìu, mũi lao, mũi tên, lưỡi câu, giủa...KCH còn tìm thấy
khuôn đúc mũi tên, mũi nhọn, rìu...làm bằng đất và bằng đá, khuôn đúc 1 vật và khuôn
đúc một lần nhiều hiện vật.
c. Giai đoạn Gò Mun
Gò Mun là một di chỉ ở Phú Thọ là nơi phát hiện đầu tiên di tích của nền VH này.
Nhiều di tích của VH Gò Mun có cùng địa bàn với VH Phùng Nguyên và Đồng Đậu thộc
các tỉnh: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hà Tây. Văn hoá Gò Mun
có niên đại cuối TNKII - đầu TNKI TCN ở nền văn hoá này đồ đồng phát triển mạnh
chiếm ưu thế so với đồ đá. Đồng thau chiếm tỷ lệ trên 50% tổng số công cụ và vũ khí.
Bên cạnh những công cụ đã có ở văn hoá Đồng Đậu thì giai đoạn này cư dân còn sản xuất
các loại rùi lưỡi xéo, lưỡi liềm, đồ trang sức bằng đồng thau. Đồ đá không chỉ giảm sút về
số lượng mà cả về loại hình.

- 17 -



* Qua các bằng chứng về 3 giai đoạn trên đã chứng tỏ từ Phùng Nguyên tới Gò Mun chủ
nhân các nền VH này qua hơn 1000 năm đã tạo lập và thúc đẩy cho văn hoá ngày càng
phát triển trên cơ sở kế thừa thành quả của thế hệ trước tạo tiền đề cho sự ra đời của văn
hoá Đông Sơn ở TK VII TCN.

2. Văn hoá Đông Sơn
Các di tích VH Đông Sơn được phát hiện ở hầu khắp Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ: dọc
ven sông Hồng, sông Mã, sông Lam vào tận Quảng Bình, đây cũng là địa bàn thuộc lãnh
thổ của nước Văn Lang. Các di tích VH Đông Sơn có nhiều loại hình khác nhau và ở rất
nhiều địa điểm như: di tích Vườn Chuối (Gia Lương-Bắc Ninh), Hoàng Ngô (Quốc OaiHà Tây), làng Cả (Việt Trì-Phú Thọ); Vinh Quang, Châu Can (Hà Tây), Cổ Loa (Đông
Anh-Hà Nội), Phà Công, Đông Sơn, Núi Nấp, Đào Thịnh, Đông Lĩnh (Thanh Hoá), Làng
Vạc (Nghĩa Đàn - Nghệ An), Đồng Mõm (Diễn Châu - Nghệ An)...
Ở Quảng Bình KCH tìm thấy nhiều di vật quí của thời đại đồ đồng này: Rìu và dao
găm đồng ở Cổ Giang, kiếm đồng ở Khương Hà, thố đồng ở Thanh Trạch (Bố Trạch).
Khuôn đúc đồng được tìm thấy ở Hương Hoá (Tuyên Hoá); kiếm sắt ở Xuân Sơn (Bố
Trạch) và trống đồng Phù Lưu ở Quảng Lưu (Quảng Trạch) được xếp loại 1 như trống
đồng Ngọc Lũ.
Công cụ của VH Đông Sơn thể hiện bước phát triển cao hơn hẵn các giai đoạn Phùng
Nguyên, Đồng đậu, Gò Mun. Đồ đá không còn mấy, ít về số lượng, nghèo về loại hình,
chế tác cũng thô sơ, chủ yếu là đồ trang sức. Đồ gốm cũng suy giảm mang tính thực dụng
cao chế tạo đơn sơ không có hoa văn hoặc trang trí đơn điệu. Công cụ và hiện vật bằng
đồng vô cùng phong phú đa dạng về loại hình, kỹ thuật luyện đồng đạt đến đỉnh cao và
bước đầu xuất hiện kỹ thuật luyện sắt. Công cụ, vũ khí đồ đồng ở Đông Sơn bao gồm: âu,
vò, ấm, bát, cuốc, dao, liềm, lưỡi cày, nồi, dao găm, kiếm, mũi tên, lao, áo giáp...các nhạc
khí như trống đồng, chiêng đồng tiêu biểu và đặc sắc nhất là trống đồng Ngọc Lũ (Đông
Sơn) và thạp đồng Đào Thịnh. Các công cụ và vũ khí đồ sắt bao gồm: cuốc, mai, thuổng,
mũi tên. Đó chính là cơ sở để KCH xếp VH Đông Sơn vào sơ kỳ thời đại đồ sắt. Xác định
niên đại các bon phóng xạ C14 cho biết VH Đông Sơn thuộc sơ kỳ đồ sắt, ra đời từ TK
VII.TCN kéo dài cho đến TK III sau CN, trải qua 1 quá trình hình thành gần 2000 năm từ
sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt. ở văn hoá Đông Sơn đồ đồng chiếm tới 80% tổng số

công cụ và vũ khí phát hiện được. Các nhà KCH đã phát hiện ở chân thành Cổ Loa hàng
vạn mũi tên đồng.
3. Những chuyển biến về kinh tế từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn
Từ phùng Nguyên đến Đông Sơn là một chặng đường dài gần 2000 năm, người Việt

- 18 -


cổ từ 1 nền kinh tế nguyên thuỷ với công cụ sản xuất chủ yếu là đá đã bước sang một nền
kinh tế bao gồm nhiều ngành nghề, trong đó nông nghiệp trồng lúa nước đã trở thành
ngành chủ đạo với công cụ đồng thau ở sơ kỳ đồ sắt có hiệu quả sử dụng tốt, nslđ cao.
Trong lĩnh vực nông nghiệp ở thời Đông Sơn đã đạt được những thành tựu căn bản trên
con đường chuyển biến từ nông nghiệp dùng cuốc sang dùng cày có sức kéo trâu bò, đó là
sự chuyển biến mạnh mẽ có ý nghĩa bước ngoặt trong kinh tế tạo tiền đề cho những biến
chuyển lớn về xã hội (phát hiện hàng trăm lưỡi cày đồng, và xương trâu bò ở di chỉ VH
Đông Sơn là bằng chứng). Quá trình chuyển từ nông nghiệp dùng cuốc sang dùng cày
cũng đồng thời là quá trình người Việt cổ chọn nghề trồng lúa nước làm nghề sống chính.
Định hướng có ý nghĩa hết sức căn bản này được hình thành và khẳng định do sự thúc ép
của quá trình gia tăng dân số ngày một gay gắt. Từ các vùng núi, đồi trung du, những
vùng bậc thềm, các gò cao cạnh đồng bằng, người Việt từng bước lấn dần vùng đồng
bằng. Đến khi có công cụ đồng thau và nhất là đồ sắt trong tay thì vùng đồng bằng đầm
lầy không còn là mối nguy hiểm với họ nữa. Đến thời kỳ văn hoá Đông Sơn toàn bộ vùng
đồng bằng rộng lớn sông Hồng, sông Mã, sông Cả đã được khai phá về căn bản. Những
chạ, kẻ, chiềng (làng xóm) đông vui, các dòng sông, kênh mương, phai đập, hệ thống giao
thông thuỷ, hệ thống thuỷ lợi những cánh đồng màu mở đã như là những cảnh quan chung
của vùng đồng bằng châu thổ. Nghề trồng lúa của cư dân Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thời
Đông Sơn trên các ruộng nước hay nương rẫy thường dùng những phương pháp thích hợp
như: Đao canh hoả chủng, đao canh thuỷ nậu(phát nương, đốt nương làm rẫy hoặc làm
ruộng nước). Bên cạnh đó cư dân Đông Sơn cũng có nghề làm vườn với các cây cho củ
và cho quả, một số cây công nghiệp như mía, bông dâu tằm, các nghề thủ công phát triển:

đồ gốm, dệt, luyện kim đồng, sắt. Bức tranh kinh tế của cư dân Việt thời VH Đông Sơn Văn Lang cũng được phản ánh qua một số bộ sử của Trung Quốc giúp chúng ta hình dung
được phần nào. Ví dụ: Sách “Giao Châu ngoại vực ký” thế kỷ IV dẫn theo Thuỷ kinh chú
của Lịch Đạo Nguyên viết: “Ngày xưa lúc Giao Chỉ chưa có quận huyện, đất đai có Lạc
điền, ruộng làm theo thuỷ triều lên xuống, dân khẩn ruộng ấy mà ăn gọi là Lạc dân, đặt
Lạc vương, Lạc tướng, Lạc hầu làm chủ các quận huyện”.
Việc phát hiện các khuôn đúc đồng, cục đồng, xỉ đồng cho phép khẳng định nghề đúc
đồng là do cư dân Đông Sơn sáng tạo ra và được thực hiện ở ngay trên đất Việt Nam. Mặt
khác thời Đông Sơn cư dân Việt Cổ đã đạt đến trình độ đỉnh cao về luyện kim đồng thau.
Trống đồng, thạp đồng là những hiện vật tiêu biểu cho bàn tay tài hoa tuyệt vời và trí tuệ
thông minh sáng tạo của người Việt. Thời Đông Sơn đã có thêm thuật luyện sắt, tạo nên
bước chuyển biến về kinh tế xã hội. Các nhà khảo cổ học cho rằng cư dân Đông Sơn đã
sử dụng phương pháp hoàn nguyên để chế tạo công cụ sắt (khử Ôxy trong quặng để luyện

- 19 -


sắt). Sắt xốp lấy ra từ phương pháp nói trên thợ thủ công dùng để rèn công cụ. Mặt khác
qua các hiện vật đồ sắt tìm được, các nhà khảo cổ cho rằng cư dân văn hoá Đông Sơn còn
biết cả phương pháp đúc sắt. Sự phát triển của nghề luyện kim đã thúc đẩy sự phân công
lao động trong xã hội. Một số thợ thủ công có tay nghề cao, kỹ thuật tốt tách khỏi nông
nghiệp. Sản phẩm của họ trở thành hàng hoá để trao đổi, thúc đẩy nông nghiệp phát triển
và đồng thời góp phần thúc đẩy quá trình phân hoá xã hội. Bên cạnh nghề nông đóng vai
trò chủ đạo thì các nghề thủ công cũng phát triển rất phong phú đa dạng: các nghề làm
gốm, mộc, sơn, đan lát, kéo sợi dệt vải, đúc đồng, luyện sắt... phát triển thì đã xuất hiện
nghề thủ công mới là chế tạo thuỷ tinh để làm đồ trang sức.

4. Những chuyển biến về xã hội
a. Sự phân hoá xã hội
Nhờ sự tiến bộ của công cụ lao động đặc biệt là công cụ kim khí mà nền kinh tế ngày
một phát triển, sự trao đổi sản phẩm, nguyên vật liệu giữa các khu vực, sự phân công lao

động giữa nông nghiệp và thủ công ngày càng được đẩy mạnh, tạo điều kiện tăng thêm
nguồn của cải của xã hội. Sản phẩm thừa ngày nhiều cùng sự ra đời của chế độ tư hữu gắn
với gia đình phụ quyền đã làm cho sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội diễn ra ngày một
sâu sắc hơn. Nghiên cứu các di tích mộ táng của văn hoá Đông Sơn cho ta thấy trong xã
hội thời này đã có sự phân hoá giàu nghèo. Ví dụ: ở Việt Khê - Hải Phòng với 5 mộ thì 4
mộ không có hiện vật 1 mộ có tới 107 hiện vật trong đó có 93 hiện vật bằng đồng quý
như: Dao găm, áo giáp, trống đồng. Trong tổng số 714 mộ táng thuộc niên đại Đông Sơn
thì số mộ nghèo chiếm 51,9%, số mộ trung bình chiếm 41,4%, số mộ giàu 6,5%. Sự khác
biệt về tài sản chính là biểu hiện sự phân hoá xã hội. Một số truyền thuyết và sử sách cũng
phản ánh hiện tượng phân hoá xã hội bấy giờ. Sách Lĩnh Nam chích quái có ghi chép về
một tầng lớp nô lệ (thần bộc, nữ nô) gọi là xảo để phân biệt với nông dân công xã, tuy
tầng lớp nô lệ chưa nhiều. Truyền thuyết Mai An Tiêm cũng cho biết lúc bấy giờ có nô lệ
vì nợ - An tiêm bị bán làm nô lệ. Truyền thuyết Chữ Đồng Tử cũng nói lên hoàn cảnh
nghèo khổ của cha con họ Chữ. Như vậy qua các nguồn tài liệu khác nhau chúng ta thấy
xã hội Đông Sơn đã có sự phân hoá thành các tầng lớp khác nhau: Quý tộc gồm các thủ
lĩnh liên minh bộ lạc, tù trưởng, tộc trưởng, những người giàu có thế lực trong xã hội.
Nông dân công xã - Các thành viên của CXNT là tầng lớp chiếm đại đa số trong xã hội.
Nô tỳ là tầng thấp kém nhất, tuy nhiên tầng lớp này chiếm một tỷ lệ nhỏ (họ xuất thân từ
tù binh hay vì nợ nần). Chính sự phân hoá xã hội này là tiền đề quan trọng cho sự ra đời
của Nhà nước.
b. Sự giải thể của công xã thị tộc và sự ra đời của công xã nông thôn
Dựa vào các di tích văn hoá từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn chúng ta có thể thấy về

- 20 -


mặt không gian ngày càng mở rộng địa bàn cư trú. Từ vùng núi đồi trung du người Việt
đã tiến xuống khai phá làm chủ các đồng bằng định cư lâu dài để làm kinh tế nông nghiệp
trồng lúa nước. Mỗi khu vực cư trú của cư dân Đông Sơn rộng từ hàng nghìn tới hàng vạn
mét vuông (xem bàng thống kê ở trang số 55 của giáo trình). Với các địa bàn rộng lớn đó

thì cư dân Đông Sơn chỉ có thể sống trong những làng xóm theo các nhà nghiên cứu thì
đây là các công xã nông thôn. Tại các CXNT này vẫn tồn tại hai mối quan hệ chủ đạo là
quan hệ láng giềng - địa vực và quan hệ huyết thống - dòng họ. Thông thường mỗi CXNT
có một dòng họ lớn giữ địa vị cai quản làng xã đó, các dòng họ khác cũng định cư sinh
sống (làng nhiều họ) đây là điểm khác với công xã thị tộc (thường là cư dân của một họ
hay một thị tộc). Thời Đông Sơn vẫn có những làng 1 họ và thường gọi tên họ kèm với
chữ xá (Mai xá, Hoàng xá...)
Các công xã nông thôn đã thay thế dần các công xã thị tộc là một hiện tượng phổ biến
vì các làng nhiều họ ngày càng phổ biến. Công xã nông thôn thời bấy giờ gọi là chạ, kẻ,
chiềng- một hình thái phổ biến ở giai đoạn giải thể của chế độ CXNT và quá độ sang XH
có giai cấp và nhà nước.
Qua phân tích các di tích văn hoá Đông sơn chúng ta còn biết lúc bấy giờ đã có sự hình
thành rõ các điểm cư trú và mối quan hệ giữa các khu vực cư trú để hình thành các liên
minh bộ lạc và quốc gia đầu tiên. Sự ra đời của CXNT là tiền đề quan trọng cho sự hình
thành nhà nước Văn lang.

II. NHÀ NƯỚC VĂN LANG
1. Điều kiện ra đời
* Điều kiện về kinh tế - xã hội
Điều kiện ra đời của Nhà nước từ trong chế độ Công xã nguyên thủy là trên cơ sở kinh
tế phát triển đến mức phân hoá xã hội thành các đẳng cấp tầng lớp giàu nghèo. Đây là
điều kiện mang tính quy luật. Nhà nước ra đời là sản phẩm tất yếu của một xã hội mà mâu
thuẫn giai cấp đã phát triển đến mức không thể điều hoà được đây là quy luật chung của
tất cả các nhà nước trên thế giới dù đó là Nhà nước phương Đông hay phương Tây. Đây
là điều kiện quan trọng số một để Nhà nước có thể ra đời.
Tuy nhiên qua nghiên cứu xã hội Đông Sơn ta thấy cư dân Việt cổ phân hoá chưa thật
sâu sắc nhưng cũng không còn như trong xã hội thời tiền Đông sơn nữa. Như vậy sự phân
hoá xã hội là một điều kiện cần song chưa đủ ở phương Đông. Đối với Nhà nước phương
Đông, ăng ghen đã nêu rõ luận điểm mẫu mực giải thích về quá trình ra đời của nhà nước
ở đây như sau: “ Trên cơ sở phân hoá xã hội là tiền đề vật chất không thể thiếu được, yêu

cầu tổ chức công trình tưới nước và yêu cầu đấu tranh tự vệ làm cho nhà nước ban đầu

- 21 -


vốn làm chức năng xã hội tiêu biểu cho lợi ích chung của cộng đồng, rồi chuyển sang địa
vị đối lập với xã hội và cuối cùng vươn lên thành thống trị đối với xã hội”. Mặt khác ăng
ghen còn nói là đối với loại hình nhà nước phương Đông (trong đó có Việt Nam) thì: “nhà
nước mà những nhóm tự nhiên gồm các công xã trong cùng một bộ lạc đã đi đến chỗ thiết
lập ra trong quá trình tiến triển của họ, lúc đầu chỉ cốt để bảo vệ lợi ích chung của họ và
để tự vệ chống kẻ thù bên ngoài thì từ nay trở đi cũng lại có luôn cả mục đích là duy trì
bằng bạo lực những điều kiện tồn tại và thống trị của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị
trị”. Như vậy ngoài chức năng xã hội nhà nước còn đóng vai trò công cụ bạo lực của giai
cấp thống trị.
Tóm lại: bên cạnh điều kiện là sự phát triển kinh tế tới mức làm phân hoá xã hội thì để
nhà nước Văn Lang ra đời còn do hai điều kiện đặc thù của Phương Đông là yêu cầu của
công tác thuỷ lợi, trị thuỷ và tự vệ thúc đẩy.
* Nhu cầu thuỷ lợi và trị thuỷ
Bắt đầu từ giai đoạn VH phùng Nguyên do địa bàn của cư dân Việt cổ sinh sống ngày
một được mở rộng, ở các vùng đồng bằng và chọn nghề nông nghiệp trồng lúa nước làm
nghề sống chính thì cư dân Việt cổ phải đối mặt với vùng đồng bằng sông nước, đối mặt
với muôn vàn khó khăn thử thách, nhưng khó khăn phức tạp hơn cả là làm sao để có thể
chủ động nguồn nước, phải có những công trình tưới tiêu cho cây trồng và đắp đê chống
lũ lụt. Yêu cầu này đòi hỏi phải sớm có một số người tách khỏi lao động để đảm nhận
công việc chung. Truyền thuyết “ Sơn tinh thuỷ tinh” đã phản ánh cuộc đấu tranh chống
lũ lụt của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Cho đến nay KCH chưa tìm thấy di tích những công
trình thuỷ lợi thời Hùng Vương song các nhà KCH đã phát hiện được dấu tích một đoạn
đê cổ có trước thời Bắc thuộc ở Cổ Loa. Mặt khác qua một số nguồn thư tịch cổ chúng ta
có thể hiểu được cư dân Việt lúc này đã biết làm thuỷ lợi để chủ động việc tưới tiêu. Theo
Thuỷ kinh chú của Lịch Đạo Nguyên thời Bắc Ngụy viết: “Ngày xưa Giao Chỉ chưa có

quận huyện (trước khi PKTQ đô hộ) đất đai có lạc điền…làm ruộng theo thuỷ triều lên
xuống”. Công việc đào mương phải đắp đập dẫn nước vào ruộng và đắp đê ngăn ngừa lũ
lụt không bao giờ là công việc đơn lẽ của từng cá nhân, gia đình hay từng làng mà nó luôn
đòi hỏi một sự liên kết rộng lớn nhiều công xã, nhiều khu vực, trước hết là toàn bộ vùng
châu thổ sông Hồng. Có thể lúc ban đầu chức năng chỉ đạo cộng đồng làm thuỷ lợi và trị
thuỷ chỉ là chức năng xã hội xuất phát từ lợi ích chung cả cộng đồng, nhưng rồi trong tay
người được giao phó nó dần dần trở thành chức năng của nhà nước đối với xã hội.
* Nhu cầu tự vệ chống ngoại xâm
Nước ta ở vào vị trí chiến lược của Á- Âu với các đại dương. Đây là vị trí giao lưu
kinh tế, văn hoá rất thuận lợi chắc là vì vị trí thuận lợi này mà nước ta bị nhiều thế lực bên

- 22 -


ngoài nhòm ngó. Yêu cầu tự vệ chống lại các mối đe doạ từ bên ngoài ngày càng trở nên
bức thiết và trở nên thường trực. Nó được minh chứng qua các truyền thuyết dân gian,
qua số lượng và chủng loại vũ khí của cư dân Đông Sơn.
Truyền thuyết dân gian nhắc đến cuộc đấu tranh chống các loại. “Giặc man”, “giặc ân”,
“giặc Hồ xương”, “ giặc Mũi đỏ”, giặc Thục...”đặc biệt truyện “Thánh Gióng” phản ánh
và ca ngợi cuộc đt chống ngoại xâm của nhân dân ta lúc đó. Cuối thời Hùng Vương nạn
ngoại xâm càng trở thành mối đe doạ nghiêm trọng đối với quốc gia.
Lúc này ở TQ chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đã ra đời và bắt đầu nhòm ngó, mở rộng
xâm lược phương Nam. Từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, vua nước Việt là Câu Tiễn đã có
lần cho sứ sang dụ vua Hùng thần phục nhưng bị cự tuyệt.
Sau khi thống nhất đất nước Tần Thuỷ Hoàng đã xúc tiến việc bành trướng xuống
phương Nam, để tồn tại và phát triển các bộ lạc người Việt trên đất Văn Lang buộc phải
cố kết lại với nhau thành một khối thống nhất để tự vệ. Đây là lý do khách quan mang
tính đặc thù tác động thúc đẩy nhanh sự ra đời của nhà nước Văn Lang.
2. Tổ chức nhà nước (cấu trúc và đặc điểm của nhà nước Văn Lang).
a. Thời điểm ra đời

Có nhiều giả thiết khác nhau tuy nhiên phần lớn các bộ chính sử cũ viết về họ Hồng
Bàng đều đưa ra niên đại 2879 TCN và nhà nước Văn Lang tồn tại 2622 năm. Tuy nhiên
giả thuyết này dựa chủ yếu vào truyền thuyết nên khó có độ tin cậy (18 đời Hùng Vương
+ 2 đời: Lộc Tục và Lạc Long Quân là 20 đời). Do đó bình quân mỗi đời vua 131 năm là
không có thực. Riêng có bộ sử cổ nhất của ta là Việt sử lược chép rằng “đến thời Trang
Vương nhà Chu (696 -682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được
các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, Việt
vương Câu Tiễn (505 - 462 TCN) cho người đến dụ hàng nhưng Hùng Vương không
theo. Mặc khác kết hợp với các tài liệu khảo cổ học về văn hoá Đông Sơn cho phép chúng
ta đi tới giả thuyết là: “Nhà nước Văn Lang ra đời ở thời điểm khoảng thế kỷ VII Tr CN
(cách ngày nay khoảng 2700 - 2600 năm).
* Cấu trúc và đặc điểm của Nhà nước Văn Lang.
+ Cấu trúc: Qua một số sử liệu, tài liệu dân tộc học và ngôn ngữ học của các nhà khoa
học khi nghiên cứu về thời đại Hùng Vương đều cơ bản thống nhất quan điểm cho rằng
Nhà nước Văn Lang về tổ chức còn rất đơn giản chỉ là dạng nhà nước sơ khai. Hùng
Vương thực chất chỉ là thủ lĩnh cao nhất trong cộng đồng bộ lạc được các tù trưởng bộ lạc
tôn phò và nghe theo. Từ “Hùng” đồng nghĩa với Kun trong “Lang kun” của người
Mường, Kun trong tiếng Môn Khơ me và tiếng Thái chỉ người tù trưởng, thủ lĩnh thị tộc.

- 23 -


Như vậy hai từ Hùng vương chỉ chức danh người tù trưởng bộ lạc Văn Lang- bộ lạc lớn
mạnh nhất trong tất cả các bộ lạc định cư ở vùng Bắc bộ và Bắc trung bộ nước ta lúc bấy
giờ. Đây là bộ lạc giữ vai trò trung tâm liên kết tập hợp các bộ lạc khác. Các bộ lạc liên
minh lại đưa đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang và Hùng Vương trở thành thủ lỉnh của
cả liên minh và là người đứng đầu nhà nước (cha truyền con nối). Giúp việc cho Vua
Hùng có các Lạc Hầu và Lạc tướng. Nước Văn Lang có 15 bộ hợp thành. Đứng đầu mỗi
bộ là Lạc Tướng cũng cha truyền con nối (còn gọi là Bộ tướng hay Phụ đạo). Dưới bộ(bộ
lạc) là các công xã nông thôn- làng (thường gọi là các chạ, kẻ, chiềng) mỗi kẻ chạ do một

Bồ Chính (già làng) đứng đầu. Bên cạnh Bồ Chính có thể có một số người giúp việc, tham
gia quản lý công việc chung của kẻ chạ.
+ Đặc điểm: Nhà nước Văn Lang thuộc phạm trù nhà nước phương Đông cổ đại sơ khai.
Tổ chức còn rất đơn giản. Nhà nước ra đời trong điều kiện sự phân hoá giai cấp chưa thật
sâu sắc song do các nhu cầu bức thiết và thường xuyên của công tác trị thuỷ làm thuỷ lợi
và chống ngoại xâm nên nó ra đời khá sớm so với cư dân ở khu vực Đông Nam Á. Chính
vì ra đời sớm, mâu thuẫn xã hội chưa sâu sắc nên tính chuyên chế của nhà nước đối với
làng xã còn mờ nhạt. Trên thực tế các làng xã nắm quyền sở hữu và phân phối ruộng đất
cho các thành viên cày cấy. Hàng năm nông dân công xã nộp tô cho Nhà nước thông qua
làng xã. Tính chất sơ khai đơn giản còn thể hiện qua hai phương diện là luật pháp và chữ
viết. Có lẽ việc điều hành nhà nước và quản lý xã hội vẫn dựa trên Luật tục vì chưa thấy
luật thành văn (Luật tục còn gọi là tập quán pháp). Chưa phát hiện thấy bằng chứng để
chứng tỏ rằng thời Văn Lang đã có chữ viết.
Tóm lại tuy nhà nước Văn Lang còn sơ khai song sự ra đời của nó đã đánh dấu bước tiến
quan trọng có ý nghĩa như là bước ngoặt mở đầu cho thời đại dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta, mở đầu cho nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc
* Đời sống của cư dân Văn Lang
+ Đời sống vật chất: Sinh hoạt vật chất phản ánh rõ nét đời sống của cư dân nông
nghiệp trồng luá nước.
Ăn: Lương thực của người Việt cổ lúc này chủ yếu là gạo nếp gạo tẻ. Thức ăn gồm các
loại rau, củ, bầu bí... cùng với sản phẩm của các nghề đánh cá và chăn nuôi. Ngoài ra họ
còn dùng cây cho bột như Búng báng. Cư dân Văn Lang đã biết chế biến và nấu chín thức
ăn theo nhiều cách như nướng luộc, nấu đồ, muối dưa, làm mắm, họ đã biết dùng gia vị.
Nhìn chung nguồn lương thực, thực phẩm. của cư dân Văn Lang khá phong phú đa
dạng, giàu chất bột và chất đạm, họ đã biết chế biến cho bữa ăn hấp dẫn hơn. Điều này
chứng tỏ cư dân Văn Lang đã có cuộc sống vật chất tương đối cao so với thời hậu kỳ đá

- 24 -



mới. trên cơ sở đời sống văn hoá khá cao nói trên đã định hình một số phong tục tập quán
của người Việt cổ.
Mặc: Trang phục của cư dân Văn Lang gồm có hai loại trang phục thông thường và trang
phục lễ hội. Do nghề dệt đã rất phát triển nên cư dân Văn Lang đã dệt được nhiều loại vải
khác nhau từ sợi đay, bông, tơ, tằm ...Trang phục bình thường nam đóng khố, ở trần, phụ
nữ mặc váy. Váy phụ nữ có hai loại: váy quấn và váy chui đầu. Váy chui đầu thường có
thêm yếm và áo ở phần thân, đầu tóc cầu kỳ và đeo nhiều đồ trang sức, thường là trang
phục của người giàu có. Trong ngày lễ hội trang phục nam nữ đẹp hơn như: váy xoè kết
bằng lông chin hoặc lá cây, hoặc khố dài có thêu thùa, đeo nhiều đồ trang sức.
Ở: Nhà cửa của cư dân Văn Lang gồm nhiều kiểu loại như nhà sàn, nhà mái cong bằng
gỗ, tre, nứa. Nhà được dựng ở nơi cao ráo. Hoa văn trống đồng cũng cho biết một số loại
nhà như nhà sàn mái cong, hai mái hình thang, mái buông xuống gần sát mặt đất, nhà mái
tròn, nhà hình mui thuyền. Công xã bao gồm một số nhà quần tụ bên nhau trong một khu
vực hình thành những xóm làng định cư. Trong đời sống hằng ngày mỗi gia đình đều có
một số vật dụng như các đồ đựng bằng tre, nứa, đồ gốm, đồ đồng, võ bầu.
Đi lại: Phương tiện chủ yếu của giao thông lúc ấy là thuyền, bè để di chuyển trên sông
rạch, trên bộ thì đi bộ hoặc dùng voi, trâu, bò, ngựa.
Nhìn chung cư dân Văn Lang đã có một đời sống vật chất khá phong phú được nâng
cao hơn nhiều so với cư dân thời Tiền Đông Sơn và thể hiện trình độ phát triển lao động
văn hoá khá cao là cơ sở để có một đời sống tinh thần phong phú.
+ Đời sông tinh thần: Trong đời sống hằng ngày cư dân Việt cổ rất yêu cái đẹp và hướng
về cái đẹp, dùng nhiều đồ trang sức và còn được thể hiện qua đời sống tinh thần và tâm
hồn, tín ngưỡng phong tục, tập quán.
Nghệ thuật: Trong các ngày lễ hội những hoạt động nghệ thuật đã khá phong phú, các loại
hình nghệ thuật như âm nhạc, tạo hình, múa phát triển mạnh. Nhạc cụ khá phong phú và
độc đáo gồm: Bộ gõ có trống đồng, trống da, chuông, khánh, cồng...bộ hơi có khèn, sáo,
tiêu. Nhạc cụ độc đáo nhất là trống đồng. Nó vừa thể hiện quyền lực của thủ lĩnh vừa là
hiệu lệnh tập hợp dân làng, vừa được dùng trong hành lễ, trong các kỳ hội làng, để cúng
tế, trống đồng còn dùng báo hiệu đám ma... Hoa văn trang trí trên trống đồng hết sức
phong phú sinh động phủ đầy mặt trống và tang trống, có giá trị như một bộ sử bằng hình

ảnh phản ánh cuộc sống lao động, chiến đấu và những hình thức tín ngưỡng vui chơi của
cư dân thời Hùng Vương. Trống đồng là một sản phẩm lao động, một tác phẩm nghệ thuật
tiêu biểu cho tài năng sáng tạo tuyệt vời của người Việt cổ (về hội hoạ, trí tuệ, trình độ
thẩm mỹ cao và kỹ thuật đúc đồng tinh xảo tuyệt vời của người Việt).

- 25 -


×