VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN NHẬT
XÁC ĐỊNH DẤU HIỆU GIÁ TRỊ TÀI SẢN TRONG CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN NHẬT
XÁC ĐỊNH DẤU HIỆU GIÁ TRỊ TÀI SẢN TRONG CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH XUÂN NAM
HÀ NỘI - 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRONG
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ............................. 6
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc định giá tài sản trong các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt .............................................................................6
1.2 Cơ sở pháp lý của việc định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt .............................................................................................................15
1.3 Phương thức định giá tài sản...........................................................................22
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRONG CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................................................................. 36
2.1 Tình hình định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
của HĐĐGTS và các cơ quan tiến hành tố tụng tại quận Bình Tân, Thành phố Hồ
Chí Minh ...............................................................................................................36
2.2 Đánh giá thực trạng tình hình định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt tại quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh .........................53
2.3 Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế, khó khăn vướng mắt trong quá trình
định giá tài sản đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ................. 58
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN ĐÚNG
TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ............ 62
3.1 Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật .....................................................62
3.2 Tăng cường tổng kết thực tiễn việc định giá tài sản .......................................67
3.3 Nâng cao trình độ, nhận thức cho đội ngũ áp dụng pháp luật ........................70
3.4 Tăng cường phối hợp giữa Hội đồng định giá và các cơ quan tiến hành tố
tụng dựa trên các quy định pháp luật để giải quyết tốt vấn đề định giá tài sản
trong pháp luật hình sự .........................................................................................71
3.5 Tăng cường cơ sở vật chất ..............................................................................73
3.6 Kiến nghị, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng định
giá tài sản trong tố tụng pháp luật hình sự ............................................................74
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
ĐTV
: Điều tra viên
HĐĐGTS
: Hội đồng định giá tài sản
KSV
: Kiểm sát viên
TA
: Tòa án
TPHCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
TP
: Thẩm phán
TAND
: Tòa án nhân dân
TTDS
: Tố tụng dân sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
UBND
: Ủy ban nhân dân
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị
quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết 48/NQ-TW ngày
24/05/2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49/NQTW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”, công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, đảng lãnh đạo thực hiện với
quyết tâm cao và đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm của toàn xã hội
đối với công tác cải cách tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm đã được những kết quả nhất định, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát
triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Bình Tân là quận ven của Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập trên cơ sở
Nghị định số 130/2003/NĐ-CP ngày 05/11/2003 của Chính phủ, trên cơ sở chia
tách từ huyện Bình Chánh cũ. Có vị trí địa lý là cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí
Minh với các tỉnh miền Tây có tốc độ phát triển kinh tế vượt bật trong những năm
qua. Song song với sự phát triển của xã hội, điều đáng quan tâm chính là tình hình
tội phạm của quận Bình Tân cũng diễn biến ngày càng phức tạp và có chiều hướng
gia tăng. Đặc biệt những năm gần đây nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu chiếm tỉ lệ
tội phạm cao nhất so với các nhóm tội phạm khác (chiếm khoảng trên dưới 65%).
Về nguyên nhân dẫn đến tình hình nhóm tội phạm này ngày càng tăng, có thể thấy
bên cạnh sự phát triển của kinh tế, xã hội, kéo theo là các tệ nạn xã hội như trộm
cắp, cướp giật và các vấn đề khác có liên quan đến tình hình an ninh trật tự của địa
phương. Do đó, việc áp dụng pháp luật đúng, đảm bảo trong việc phòng, chống tội
phạm được hiệu quả hơn. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án
xâm phạm sở hữu nói riêng tại địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh cho
thấy việc định tội danh, quyết định hình phạt chính xác, đúng pháp luật, là tiền đề,
là điều kiện để đạt được mục đích của hình phạt.
Trong BLHS có rất nhiều tội danh quy định yếu tố giá trị tài sản bị xâm
1
phạm (hư hỏng, huỷ hoại, chiếm đoạt, chiếm giữ, sử dụng trái phép...) là một trong
những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Vì vậy, việc xác định giá trị tài
sản bị xâm phạm có ý nghĩa quan trọng và mang tính bắt buộc để xác định hành vi
xâm phạm về tài sản có phải là tội phạm hay không. Bên cạnh đó, việc xác định giá
trị tài sản còn là căn cứ để xác định khung hình phạt; đánh giá tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội khi lượng hình và xác định mức bồi thường cho
người bị thiệt hại. Xuất phát từ nhận thức đó, nhằm góp phần hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt cũng như góp phần
giải quyết những vướng mắc trong việc quyết định hình phạt, bồi thường thiệt cho
người bị thiệt hại đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn quận Bình Tân,
Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả chọn vấn đề “Xác định dấu hiệu giá trị tài sản
trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt từ thực tiễn quận Bình Tân,
Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học là đáp ứng yêu cầu
khách quan hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xác định dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu là tội phạm
có tính chất nhạy cảm cao, phức tạp và đã được một nhà luật học đề cập đến trong
một số sách chuyên khảo, giáo trình, tạp chí.
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu
có liên quan đến đề tài luận văn, đó là:
Nhóm các sách, bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí chuyên ngành có
TS. Đỗ Văn Đương, TS. Lê Hữu Thể, ThS. Nguyễn Thị Thủy (2013). Những vấn đề
lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp, Nxb chính trị quốc gia; Ths. Vũ Mạnh Thông, Luật sư Nguyễn
Ngọc Điệp (2009). Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Lao động; TS. Võ Thị Kim
Oanh (2016). Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Hồng Đức.
Bên cạnh đó, các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử còn được nghiên cứu
trong một số công trình nghiên cứu khoa học như: Ths. Đinh Văn Quế (2012). Bình
luận khoa học Bộ Luật Hình Sự 1999, phần các tội phạm, tập II Các tội phạm xâm
phạm sở hữu, Nxb Lao động; TS. Cao Thị Oanh (2010) Giáo trình luật hình sự Việt
Nam, phần các tội phạm, Chương IV, Các tội xâm phạm quyền sở hữu, Nxb Giáo
2
dục; GS.TS Võ Khánh Vinh (2014) Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb
Khoa học xã hội.
Chu Xuân Quyền (2016), Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học Viện Khoa Học Xã Hội - Thành phố Hồ Chí
Minh. Lê Phong Toàn (2017), Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ luật học, Học Viện Khoa Học
Xã Hội - Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Thanh (2016), Các tội xâm phạm
sở hữu theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến
sĩ luật học, Học Viện Khoa Học Xã Hội - Thành phố Hồ Chí Minh
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy, một số công trình có
phạm vi nghiên cứu rộng, một số lại chưa đề cập đến một khía cạnh của xác định giá
trị tài sản theo pháp luật hình sự. Hiện tại chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào
chuyên sâu về vấn đề này đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn quận Bình
Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự về việc “Xác định dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh” có ý nghĩa rất quan trọng việc định tội danh, quyết định hình phạt, bồi thường
thiệt hại đối với các tội xâm phạm sở hữu từ những địa phương cụ thể vẫn còn có ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới. Đây là đề
tài hoàn toàn mới không trùng lặp với bất kỳ đề tài nào đã nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xác định giá trị
tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, qua đó, đưa ra giải pháp
nhằm góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về xác định giá trị tài sản trong
các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong
thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là làm rõ các nội dung liên
3
quan đến việc định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt,
với các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề về lý luận, quy
định của pháp luật về hoạt động định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình hoạt động định giá tài sản trong các
tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trong các vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn
quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất những giải pháp khả thi, phù hợp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả hoạt động định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xác định
dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt.
Phạm vi nghiên cứu
Xác định dấu hiệu giá trị tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt là một vấn đề rộng, lớn và rất phức tạp. Do đó, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật hình sự Việt Nam về định giá tài
sản đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Nghiên cứu thực tiễn
thông qua các số liệu về định giá tài sản đối với các tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh thông qua các bản án và các báo cáo
công tác của HĐĐGTS, CQĐT, VKS, TAND quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh trong năm năm, từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận là phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
chính sách hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể sau đây:
Phương pháp khảo sát;
4
Phương pháp đối chiếu so sánh;
Phương pháp phân tích tổng hợp;
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp các ĐTV, KSV, TP có nhiều kinh nghiệm
trong việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn này góp phần hoàn thiện về lý luận về định
giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Qua đó thấy được
những mâu thuẫn, bất cập, những điều chưa đạt được trong việc định giá tài sản đối
với nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt để tiến hành hoàn thiện
các quy định pháp luật, giúp cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử áp dụng vào
thực tiễn đạt hiệu quả cao, khắc phục những hạn chế, sai sót trong việc định giá tài
sản cho nhóm tội xâm phạm sở hữu này.
Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu khoa học. Những đề
xuất, kiến nghị thay đổi nâng cao hiệu quả của luận văn có thể làm luận chứng khoa
học phục vụ tốt hơn cho công tác áp dụng Bộ luật hình sự liên quan đến nhóm tội
phạm xâm phạm sở hữu trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nước ta hiện
nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về định giá tài sản trong các tội xâm phạm
sở hữu có tính chiếm đoạt.
Chương 2: Thực tiễn định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt tại quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các giải pháp nhằm bảo đảm định giá tài sản đúng trong các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc định giá tài sản trong các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
1.1.1 Khái niệm
Định giá tài sản có lịch sử hình thành và phát triển khá lâu ở nhiều nước trên
thế giới, đặc biệt những nước có nền kinh tế phát triển. Ở nước ta, trong những năm
gần đây, nghề định giá tài sản cũng được phát triển rất nhanh chóng, khi Đại hội lần
thứ VI năm 1986 của Đảng Cộng Sản Việt Nam mở đường cho công cuộc đổi mới ở
Việt Nam thì các hoạt động của kinh tế thị trường mới có điều kiện hình thành và
phát triển. Thực hiện chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung,
bao cấp sang cơ chế thị trường và cũng là cơ hội tất yếu phải có sự xuất hiện của
nghề thẩm định giá để đáp ứng việc mở cửa nền kinh tế với thế giới. Ban đầu, nghề
thẩm định giá được thừa nhận năm 1998 từ một trung tâm sự nghiệp trực thuộc Bộ
Tài chính để thực hiện thí điểm sau đó được thừa nhận và phát triển mạnh trên toàn
quốc vào khoảng giữa năm 2005 theo quy định của Nghị định 101/2005/NĐ-CP
ngày 03/08/2005 của Chính phủ về dần chuyển sang mô hình doanh nghiệp vào đầu
năm 2006. Theo Bộ Tài chính, hiện nay tại Việt Nam không còn các đơn vị nhà
nước hoạt động theo mô hình sự nghiệp trong lĩnh vực giá mà phải đổi thành mô
hình doanh nghiệp, hoạt động bình đẳng trước pháp luật không có sự can thiệp,
ưu đãi đặc biệt của Nhà nước. Với nhiều loại hình doanh nghiệp tham gia thị trường
và đội ngũ cán bộ định giá chuyên nghiệp, được đào tạo chính quy góp phần hình
thành một nghề mới “Định giá tài sản” trong xã hội. Định giá tài sản là hoạt động
định giá mang tính chất khách quan tồn tại trong đời sống kinh tế xã hội của mọi
nền kinh tế sản xuất hàng hoá, đặc biệt đối với những nền kinh tế phát triển theo cơ
chế thị trường, có liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể khác nhau.
Như vậy, sự ra đời của nghề định giá là tất yếu khách quan đã, đang và
sẽ đem lại nhiều tiện ích cho xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của các thành phần trong xã hội
trong thời kỳ hội nhập Quốc tế.
6
Khi nghiên cứu về khái niệm định giá, thẩm định giá, giới nghiên cứu học
thuật trên thế giới đó đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau:
Theo giáo sư W.Seabrooke - Viện đại học Portsmouth, Vương quốc Anh:
“Thẩm định giá là sự ước tính giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình
thái tiền tệ cho một mục đích đó được xác định”. [40, tr. 2]
Theo Ông Fred Peter Marrone - Giám đốc Marketing của AVO, Úc “Thẩm
định giá là việc xác định giá trị của bất động sản tại một thời điểm có tính đến bản
chất của bất động sản và mục đích của thẩm định giá. Do vậy, thẩm định giá là áp
dụng các dữ liệu của thị trường so sánh mà các thẩm định viên thu thập được và
phân tích chúng, sau đó so sánh với tài sản được yêu cầu thẩm định giá để hình
thành giá trị của chúng”. [40, tr. 2]
Theo GS. Lim Lan Yuan - Singapore: “Thẩm định giá là một nghệ thuật hay
khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một tài sản cụ thể tại một
thời điểm, có cân nhắc đến tất cả những đặc điểm của tài sản cũng như xem xét tất
cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường bao gồm các loại đầu tư lựa chọn”.
[40, tr. 2]
Theo TS. Phạm Thị Ngọc Mỹ, hiệu trưởng trường đại học BC Marketing:
“Thẩm định giá là một khoa học hay là một khoa học về sự ước tính giá trị của tài
sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, cho một mục đích
nhất định theo những tiêu chuẩn được công nhận như những thông lệ quốc tế hoặc
quốc gia”. [40, tr. 2]
Theo Pháp lệnh giá số 40/2002/PL-UBTVQH10 ngày 26/04/2002 của Việt
Nam, trong thẩm định giá được định nghĩa như sau: “Thẩm định giá là việc đánh
giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm,
thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thông lệ quốc tế”.
Theo Luật giá số 11/2012/QH13 do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/06/2012, Thẩm định giá
được định nghĩa như sau: “Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng
thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ
luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục
vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá”
7
Nghiên cứu chế định về “Định giá tài sản” hay xác “xác định dấu hiệu giá trị
tài sản” theo quy định pháp luật hình sự Việt Nam, thì đây là một vấn đề khá mới
mẻ đối với chúng ta, cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng.
Nghị định số 117-HĐBT ngày 21/07/1988 của Hội đồng Bộ trưởng quy định
về giám định tư pháp “Giám định tư pháp là sử dụng những kiến thức, phương
pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn để kết luận về vấn đề có liên quan
đến các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, các tranh chấp lao động theo
quyết định trưng cầu giám định của cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Toà
án nhân dân (trong văn bản này gọi chung là cơ quan tiến hành tố tụng) nhằm phục
vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử”.
Theo pháp lệnh số 24/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/09/2004 quy định về
giám định tư pháp “Giám định tư pháp là việc sử dụng kiến thức, phương tiện,
phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn
đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự (sau đây gọi chung là
vụ án) do người giám định tư pháp thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm phục vụ cho việc giải quyết các vụ án”.
Theo luật số 11/2012/QH13 ngày 20/06/2012 Luật giá quy định tại khoản 5
Điều 4 “Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ”.
Từ những khái niệm về “Định giá” hay “Thẩm định giá” nêu trên, tác giả có
thể khái quát và đưa ra khái niệm định giá tài sản trong các vụ án hình sự: Là việc
cơ quan, tổ chức có trình độ chuyên môn, có chức năng định giá tài sản hoặc được
giao nhiệm vụ thực hiện việc định giá tài sản được quy đổi thành tiền theo yêu cầu
của cơ quan tiến hành tố tụng, để phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự theo
đúng trình tự thủ tục quy định pháp luật.
Do vậy, chúng ta có thể hiểu “Định giá” hay “Thẩm định giá” theo quy định
của pháp luật Việt Nam là việc cơ quan, tổ chức có chức năng xác định giá trị bằng
tiền của các loại tài sản theo quy định của BLDS phù hợp với giá thị trường tại một
địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định, theo tiêu chuẩn
thẩm định giá.
Việt Nam đang tồn tại hai khái niệm “Định giá” và khái niệm “Thẩm định
8
giá” nhưng trên thực tế không có sự phân biệt rõ ràng giữa “Định giá” và “Thẩm
định giá” vì công việc của định giá và thẩm định giá đều là xác định giá trị tài sản
để tìm ra giá cả của tài sản trong một tập hợp giả định các điều kiện trên thị trường
nhất định, tại không gian và thời gian nhất định. Công việc này được thực hiện bởi
các nhà chuyên môn được đào tạo, có kiến thức, kinh nghiệm, có tính trung thực và
tuân theo các tiêu chuẩn thẩm định giá do Nhà nước quy định.
1.1.2 Đặc điểm của định giá tài sản
Mặc dù có nhiều định nghĩa, khái niệm khi đề cập đến việc định giá tài sản
đều có chung một số yếu tố nhất định là:
- Thứ nhất, định giá hay thẩm định giá là sự ước tính giá trị tài sản tại thời
điểm nhất định. Giá trị của tài sản được xác định là giá trị theo thị trường.
Thị trường là một môi trường trong đó sự trao đổi hàng hoá hay dịch vụ giữa
người mua và người bán được thực hiện thông qua cơ chế giá cả. Thị trường chỉ ra
rằng hàng hoá và dịch vụ có thể được trao đổi giữa người bán và người mua mà
không có sự hạn chế nào trong hoạt động của mình.
Đặc điểm của thị trường:
+ Thị trường có thể bao gồm số lượng đáng kể người mua và người bán, hay
có thể theo tính chất mà hạn chế số người tham gia.
+ Thị trường trong đó tài sản được trưng bày để bán, quảng bá thương hiệu
hay hình ảnh của tài sản mà không có sự ngăn cấm nào.
+Thị trường có thể là thị trường địa phương, thị trường trong vùng, thị
trường quốc gia hoặc thị trường quốc tế.
- Thứ hai, định giá tài sản được biểu hiện chủ yếu bằng hình thái tiền tệ.
Thị trường là một cơ chế, trong đó người mua và người bán tương tác lẫn
nhau để xác định giá cả hàng hóa dịch vụ. Trong hệ thống thị trường mọi thứ điều
có giá của nó. Đó là giá trị của hàng hóa và dịch vụ được xác định bằng tiền. Giá cả
thể hiện mức mà mọi người và các doanh nghiệp tự nguyện trao đổi mua bán nhiều
loại hàng hóa khác nhau.
Sau khi các bên đã ước tính giá cả hàng hóa dịch vụ được bằng tiền thì các
bên sẽ tiến hành thực hiện các giao dịch về hàng hóa dịch vụ theo nhu cầu của mình
mà không bị ràng buộc bởi một thế lực nào hay chịu sự ép buộc của một cá nhân
9
hay tổ chức nào.
Trong trường hợp đặc biệt thì hàng hóa dịch vụ đặc biệt chịu sự điều chỉnh,
chi phối của nhà nước để bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc phải
đặt lợi ích toàn dân lên hàng đầu thì giá cả hàng hóa dịch vụ này do nhà nước quyết
định.
- Thứ ba, định giá hay thẩm định giá là việc ước tính giá trị đó phải được đặt
trong một địa điểm, một thị trường nhất định với những điều kiện nhất định và tại
một thời điểm cụ thể.
Theo Thông tư số 158/2014/TT-BTC ngày 27/10/2014 của Bộ Tài chính, ban
hành tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam, có khái niệm giá trị thị trường làm cơ sở
cho thẩm định giá tài sản như sau: Giá trị thị trường là mức giá ước tính của tài sản
tại thời điểm, địa điểm thẩm định giá, giữa một bên là người mua sẵn sàng mua và
một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch khách quan, độc lập, có đủ
thông tin, các bên tham gia hành động một cách có hiểu biết, thận trọng và không bị
ép buộc, trong đó:
+ Thời điểm, địa điểm thẩm định giá là thời gian, không gian cụ thể tương
ứng với thời gian, không gian mà giá trị của tài sản thẩm định giá được thẩm định
viên định giá tài sản gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức mua trên thị
trường.
+ Người mua sẵn sàng mua là người có khả năng thanh toán và có nhu cầu
mua tài sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường.
+ Người bán sẵn sàng bán là người có tài sản hợp pháp và có nhu cầu muốn
bán tài sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường.
+ Giao dịch khách quan, độc lập, có đủ thông tin là giao dịch giữa các bên
không có mối quan hệ đặc biệt gây ảnh hưởng đến giá giao dịch của tài sản và các
bên tham gia có đủ thời gian cần thiết để khảo sát, tiếp cận đầy đủ thông tin về tài
sản và thị trường tài sản sau quá trình tiếp thị thích hợp. Giá trị thị trường thể hiện
mức giá hình thành trên thị trường công khai và cạnh tranh. Thị trường này có thể là
thị trường trong nước hoặc thị trường quốc tế, có thể bao gồm nhiều người mua,
người bán hoặc bao gồm một số lượng hạn chế người mua, người bán.
- Thứ tư, định giá hay thẩm định giá được thực hiện theo những yêu cầu và
10
mục đích nhất định của chủ thể yêu cầu.
Thẩm định giá có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường,
được biểu hiện như sau:
+ Thẩm định giá đưa ra kết quả tư vấn về giá trị, giá cả tài sản giúp các chủ
thể tài sản, các bên có liên quan và công chúng đầu tư đưa ra các quyết định liên
quan đến việc mua, bán, đầu tư, cầm cố, cho vay tài sản, giải quyết các vấn đề khác
có liên quan đến tài sản.
+ Trong kinh tế thị trường, thẩm định giá tài sản được áp dụng cho nhiều
mục đích kinh tế khác nhau như mua bán, thế chấp, cho thuê, bảo hiểm, tính thuế,
thanh lý, đầu tư... Tương ứng với từng mục đích kinh tế, với cùng một tài sản, cùng
một thời điểm thẩm định sẽ cho kết quả giá trị tài sản thẩm định là khác nhau. Do
vậy, kết quả thẩm định giá sẽ được sử dụng để ra quyết định trong nhiều tình huống
khác nhau, ví dụ như:
+ Giải quyết tranh chấp trong dân sự hoặc trong một vụ án hình sự có liên
quan đến tài sản;
+ Báo cáo tài chính theo yêu cầu doanh nghiệp để phục vụ cho việc quản lý
tài sản doanh nghiệp, thanh quyết toán thuế...
+ Mua sắm, chuyển nhượng, thế chấp vay vốn, bảo hiểm, tính thuế, đền bù,
cho thuê tài sản;
Làm căn cứ cho phê duyệt các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, dự án đầu
tư công trình sử dụng vốn của Nhà nước, đề án cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,
dự toán cấp phát kinh phí, mua sắm tài sản từ nguồn ngân sách nhà nước, vay nợ
của Chính phủ, vay nợ nước ngoài có sự bảo lãnh của Chính phủ…
Làm căn cứ để sáp nhập, chia tách, phá sản hay giải thể doanh nghiệp.
- Thứ năm, việc thẩm định giá phải tuân thủ theo những tiêu chuẩn thẩm định
giá và phương pháp thẩm định giá nhất định.
Để kiểm soát và quản lý hoạt động thẩm định giá phát triển đúng hướng, phát
huy được vai trò tích cực trong nền kinh tế, Chính phủ quan tâm xây dựng hành
lang pháp lý, quản lý và điều hành bằng pháp luật.
Khi xem xét báo cáo kết quả thẩm định giá của một thẩm định viên khác,
thẩm định viên phải nhận xét một cách độc lập, khách quan và kết luận thống nhất
11
hay không thống nhất với một phần hay toàn bộ nội dung của báo cáo đó.
Người thẩm định giá phải thẳng thắn, trung thực và có chính kiến rõ ràng khi
thực hiện thẩm định giá. Phải trung thực về trình độ, kinh nghiệm và năng lực
chuyên môn của mình; phải bảo đảm bản thân và các trợ lý, nhân viên dưới quyền
của mình tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về thẩm định giá và hệ
thống Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam khi thực hiện thẩm định giá. Phải từ chối
thực hiện thẩm định giá nếu xét thấy không có đủ điều kiện thực hiện thẩm định giá
hoặc nếu bị chi phối bởi những ràng buộc có thể làm sai lệch kết quả thẩm định giá.
Người thẩm định giá, doanh nghiệp thẩm định giá phải công bằng, tôn trọng
sự thật khách quan và không được thành kiến, thiên vị trong việc thu thập tài liệu và
sử dụng tài liệu để phân tích các yếu tố tác động khi thẩm định giá. Không được
tiến hành công việc thẩm định giá khi những ý kiến, kết luận thẩm định và kết quả
thẩm định giá đã được đề ra có chủ ý từ trước hoặc tiến hành thẩm định dựa trên
những điều kiện có tính giả thiết mà không có biện luận chặt chẽ, khả thi, xác đáng.
Mọi tài liệu thể hiện tính pháp lý và đặc điểm, kỹ thuật của tài sản cần thẩm
định giá phải thể hiện rõ trong các báo cáo, kết quả thẩm định giá phải được trình
bày đầy đủ, rõ ràng. Báo cáo kết quả thẩm định giá phải nêu rõ các phạm vi công
việc, điều kiện hạn chế, giả thiết đặt ra của người thẩm định giá.
- Thứ sáu, thẩm định giá đòi hỏi tính chuyên môn, nghiệp vụ thẩm định giá.
Do đặc điểm của hoạt động thẩm định giá liên quan đến lợi ích kinh tế của
các thành phần kinh tế chủ thể kinh doanh, chủ thể sử dụng trong xã hội nên nếu
muốn được xã hội thừa nhận tất yếu đòi hỏi người làm thẩm định giá phải đạt một
số tiêu chuẩn và phẩm chất nhất định khi tham gia hoặc thực hiện hoạt động dịch vụ
này, đó là:
+ Có bằng cấp chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo và phải trải qua một số
năm hoạt động về thẩm định giá.
+ Là người có kinh nghiệm nghề nghiệp trong lĩnh vực thẩm định giá.
+ Phải tuân thủ quy tắc hành nghề thẩm định giá do Nhà nước hoặc các tổ
chức nghề nghiệp quy định. Phải có đạo đức nghề nghiệp, đó là sự trung thực, sự
công bằng, đảm bảo bí mật và không gây ra mâu thuẫn về lợi ích cho khách hàng.
+ Phải có giấy phép hành nghề theo quy định pháp luật.
12
- Thứ bảy, định giá hay thẩm định giá được thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng
các dữ liệu, các yếu tố của thị trường.
Khi nhận được yêu cầu định giá thì cơ quan, tổ chức tiến hành yêu cầu cung
cấp thông tin nếu thấy cần thiết thì đưa ra những giả thiết và những điều kiện đối
với những yêu cầu và mục đích thẩm định giá của chủ thể yêu cầu; những yếu tố
ràng buộc ảnh hưởng đến giá trị tài sản; những giới hạn về tính pháp lý, công dụng
của tài sản, nguồn dữ liệu, sử dụng để phục vụ cho việc xác định giá trị tài sản.
Thực tế việc định giá tài sản để phục vụ cho một mục đích nhất định của chủ
thể yêu cầu nhưng việc xác định chính xác giá trị tài sản là điều vô cùng khó khăn,
phức tạp đòi hỏi cơ quan, tổ chức phải thực hiện rất nhiều công việc như lập kế
hoạch khảo sát, thu thập thông tin, phân tích thông tin, thống kê, kể cả thông qua
một tổ chức khác để tiến hành một số công việc cụ thể theo yêu cầu nhất định liên
quan đến chuyên môn, công nghệ cao mới cho ra được kết luận định giá hoàn chỉnh
và chuẩn về nội dung và hình thức.
1.1.3 Ý nghĩa của việc định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt
Lịch sử lập pháp hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến
nay đã xây dựng và ban hành được 03 BLHS, đó là BLHS năm 1985, BLHS năm
1999 và BLHS năm 2015. Quá trình lập pháp đã kế thừa phát huy những mặt tích
cực của Bộ luật hình sự trước, đồng thời loại bỏ những mặt hạn chế không còn phù
hợp với tình hình hiện nay, đồng thời bổ sung các quy định mới, tiến bộ nhằm đáp
ứng yêu cầu tất yếu của đời sống xã hội, góp phần vào việc phát triển kinh tế, văn
hóa, giữ gìn an ninh trật tự.
BLHS năm 1985 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung chưa đáp ứng được sự
phát triển của xã hội. Cụ thể như: các tội về xâm phạm sở hữu tài sản: Cướp tài sản
xã hội chủ nghĩa, tội Cướp tài sản của công dân, tội Trộm cắp tài sản xã hội chủ
nghĩa, tội Trộm cắp tài sản của công dân... không quy định về giá trị tài sản bị
chiếm đoạt là bao nhiêu để xác định cấu thành cơ bản; về định khung hình phạt tăng
nặng được quy định bằng trọng lượng lương thực là gạo (tấn gạo) để làm căn cứ xử
lý. Cơ quan tiến hành tố tụng xác định giá trị tài sản bị xâm hại căn cứ vào lời khai
của người bị hại, sau đó quy đổi ra trọng lượng gạo theo bảng giá gạo từng thời
13
điểm do cơ quan tài chính quy định để xử lý. Trong thực tiễn giải quyết các vụ án
hình sự liên quan đến tài sản thì thông thường người bị hại khai báo với cơ quan
tiến hành tố tụng về giá trị tài sản bị xâm hại cao hơn giá trị thực tế dẫn đến tình
trạng gây bất lợi cho bị can, bị cáo; Về phía bị can, bị cáo thường khai báo giá trị tài
sản mà bị can, bị cáo chiếm đoạt có giá trị thấp hơn giá trị thực tế nên khi cơ quan
tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, quyết định hình phạt áp dụng đối bị cáo thì bị cáo
thường kháng cáo với lý do TA áp dụng hình phạt là không đúng và quá nặng.
Trong những trường hợp cụ thể thì việc định tội danh, quyết định hình phạt còn
mang tính chất tùy nghi, chưa đánh giá được tính chất mức độ của vụ án, sẽ dẫn đến
việc quyết định hình phạt quá nhẹ đối với bị cáo. Từ những bất cập này, xã hội đòi
hỏi phải có một cơ quan chuyên môn xác định giá trị tài sản bị xâm hại để làm căn
cứ xử lý không gây bất lợi cho bị can, bị cáo, đồng thời đảm bảo quyền tài sản của
người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và đảm bảo quyền lợi của
nguyên đơn dân sự.
Khắc phục các bất cập nêu trên, BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm
2009 đã quy định cơ bản các tội về xâm phạm sở hữu cấu thành phải có định lượng
giá trị tài sản là tiền Việt Nam đồng; khung hình phạt tăng nặng cũng được quy định
giá trị tài sản bị xâm hại có định lượng là tiền Việt Nam đồng. Song hành với các
quy định nêu trên của BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 về xác định
giá trị tài sản bị xâm phạm, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/2005/NĐ-CP
ngày 02/03/2005 quy định về định giá tài sản trong tố tụng hình sự. Bộ tài chính ban
hành Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/06/2006 hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/03/2005 của Chính phủ HĐDGTS
trong tố tụng hình sự.
Hơn 10 năm thực hiện các quy định về HĐĐGTS trong TTHS cho thấy
có nhiều bất cập; nhiều nơi Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự chưa làm
hết trách nhiệm của mình, có nơi HĐĐGTS làm quá phạm vi chức trách của mình
như: tài sản bị chiếm đoạt không thu giữ được thì HĐĐGTS từ chối không định giá
tài sản hoặc chung chung không rỏ ràng hoặc HĐĐGTS khi tiến hành định giá tài
sản chưa tiến hành đầy đủ các bước để làm căn cứ định giá, các thiếu sót này là vi
phạm các quy định về phạm vi, trách nhiệm của HĐĐGTS trong TTHS được quy
14
định tại Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/03/2005 của Chính phủ, dẫn đến vi
phạm nghiêm trọng trong thủ tục TTHS, hậu quả là việc phải trả hồ sơ điều tra bổ
sung, nghiêm trọng hơn là khả năng xảy ra tình trạng oan sai.
Thực tiễn, quá trình thực thi những quy định của BLTTHS năm 1988 và
BLTTHS năm 2003 về chứng cứ đã chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, trong đó
những quy định về chứng cứ còn hạn hẹp, không còn phù hợp với việc chứng minh
tình hình tội phạm hiện nay. Để khắc phục những tồn tại và khó khăn trên,
BLTTHS năm 2015 đã có những thay đổi, bổ sung quan trọng theo hướng quy định
rõ hơn những vấn đề cần phải chứng minh, mở rộng các loại nguồn chứng cứ… Đặc
biệt, “Kết luận định giá tài sản” đã được BLTTHS năm 2015 quy định là một trong
những nguồn chứng cứ quan trọng của quá trình chứng minh. Trong một số trường
hợp nếu không có kết quả của việc định giá tài sản thì cơ quan tiến hành tố tụng
không thể giải quyết được vụ án. Ngoài ra, “Kết luận định giá tài sản” cũng là một
trong những yếu tố để xác định căn cứ để buộc tội hoặc minh oan cho người vô tội.
Xuất phát từ tầm quan trọng của các kết luận giám định khi giải quyết các vụ án
hình sự và một số khó khăn vướng mắc trong thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003
là trong một số vụ án cần phải định giá tài sản, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm
nguồn chứng cứ mới đó là “Kết luận định giá tài sản” được quy định tài Điều 101
BLTTHS năm 2015.
Cho đến nay, Nhà nước ta chưa có văn bản luật về định giá tài sản trong
TTHS. Tuy nhiên, Chính phủ ban hành Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày
02/03/2005 về HĐDGTS trong TTHS và những năm vừa qua, các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng đã vận dụng văn bản pháp lý này để tiến hành định giá tài
sản, làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, với những sự chỉnh lý,
sửa đổi bổ sung lần này BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được hạn chế, thiếu sót
trong các quy định về chứng cứ từ thực tiễn thi hành của BLTTHS năm 2003; tạo
hành lang pháp lý cho quá trình thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ đồng thời góp
phần điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.2 Cơ sở pháp lý của việc định giá tài sản trong các tội xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt
1.2.1 Quy định pháp luật về tài sản
15
Thứ nhất, các quy định của Bộ luật dân sự về tài sản:
Tài sản luôn được coi là điều kiện vật chất để duy trì các hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Tài sản luôn biến đổi và phát triển cùng với sự
thay đổi của thời gian, của điều kiện xã hội, sự nhận thức con người về giá trị vật
chất, nên tài sản qua mỗi thời kì lại được nhìn nhận ở một góc độ khác nhau.
Khái niệm tài sản lần đầu tiên được quy định tại Điều 172 BLDS năm 1995:
“Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài
sản”. Tiếp đó, theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 thì “tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo đó, cụm từ “vật có thực” theo quy
định của BLDS năm 1995 đã được sửa lại thành “vật”. Như vậy, không phải vật có
thực mới có thể trở thành tài sản mà ngay cả những vật hình thành trong tương lai
cũng được coi là tài sản. Việc thay đổi này có ý nghĩa pháp lý quan trọng trong việc
xác lập, thực hiện và bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp trong quan hệ dân sự, phản
ánh đúng tình hình phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội qua từng thời kỳ khác
nhau. Sự thay đổi này đã làm cho khái niệm tài sản được hiểu theo nghĩa rộng hơn
và được đánh giá là một trong những ưu điểm của BLDS năm 2005, phù hợp với
yêu cầu cuộc sống, đáp ứng nhu cầu về giao dịch trong nền kinh tế thị trường.
BLDS năm 2015 đã trình bày theo hướng tiếp cận mới. Cụ thể là, Điều 105
BLDS năm 2015 quy định về tài sản như sau “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động
sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Mặt khác,
BLDS năm 2015 còn bổ sung Điều 108 để giải thích rõ khái niệm tài sản hiện có và
tài sản hình thành trong tương lai. Theo đó:
“1. Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch.
2. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm:
a) Tài sản chưa hình thành;
b) Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời
điểm xác lập giao dịch”.
“Tiền mặt” là các loại tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát
hành. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 40/2012/NĐ-CP ngày
16
02/05/2012 về nghiệp vụ phát hành tiền; bảo quản, vận chuyển tài sản quý và giấy
tờ có giá trong hệ thống ngân hàng nhà nước, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài.
Chế định tài sản được quy định tại BLDS năm 2015 là sự kế thừa chế định
tài sản trong các BLDS trước đó, đồng thời cũng sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề
quan trọng thể hiện sự phát triển chế định này trong lịch sử xây dựng luật dân sự.
Đây là một đòi hỏi tất yếu của quá trình hoàn thiện các quy định của BLDS, trong
đó chế định tài sản là một trong những chế định trung tâm của BLDS, cho nên việc
bổ sung, hoàn thiện chế định này là rất quan trọng, làm cơ sở tiền đề để xây dựng
cũng như áp dụng thống nhất các chế định có liên quan.
Thứ hai, pháp luật có liên quan về giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu...)
Theo nghĩa rộng, giấy tờ có giá nói chung được hiểu là chứng chỉ hoặc bút
toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trong
mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác.
Với chức năng là một công cụ tín dụng thì giấy tờ có giá gồm: hối phiếu
nhận nợ, hối phiếu đòi nợ, séc…
Với chức năng là phương tiện tín dụng là các loại hàng hóa được ghi giá trên
thị trường tài chính, bao gồm các phương tiện ngắn hạn như các chứng chỉ tiền gửi
ngắn hạn, kì phiếu và các phương tiện tín dụng dài hạn.
Với chức năng là công cụ tài chính, giấy tờ có giá gồm: cổ phiếu và trái
phiếu. Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Quyết định số 02/2005/QĐ–NHNN của
Ngân hàng nhà nước ngày 04/01/2005 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức
tín dụng để huy động vốn trong nước “Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín
dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền
trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa
tổ chức tín dụng và người mua”.
Tuy nhiên, trong pháp luật dân sự không phải loại giấy tờ có giá nào cũng
được coi là một loại tài sản trong giao lưu dân sự. Đối với các loại giấy tờ xác nhận
quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký ô tô, sổ tiết kiệm… không
17
được coi là giấy tờ có giá. Nếu cần phải xem xét thì đó chỉ đơn thuần được coi là
một vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.
Giấy tờ có giá là một loại tài sản thường gặp trong giao dịch dân sự nhưng
thực tế nhiều người lại có sự nhầm lẫn về giấy tờ có giá và các loại giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản như giấy đăng ký xe, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...
BLDS năm 2015 không định nghĩa cụ thể giấy tờ có giá là gì mà chỉ nêu
giấy tờ có giá là một loại tài sản. Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam 2010 “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ
chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn
nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”; Khoản 1 Điều 2 Thông tư
01/2012/TT-NHNN ngày 16/02/2012 quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác
nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy
tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác".
Khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN ngày 15/04/2016 “Giấy tờ có giá là
bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với
người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và
những điều kiện khác”. Theo khoản 9 Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định “Giấy tờ có giá bao gồm
cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác
theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”.
Căn cứ vào nội dung giải đáp về giấy tờ có giá tại Công văn 141/TANDTCKHXX của Tòa án nhân dân tối cao ngày 21/09/2011, có thể liệt kê một số loại giấy
tờ có giá như sau:
Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được
quy định tại Điều 1 Luật các công cụ chuyển nhượng 2005;
Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối 2005;
Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh
nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 Luật quản lý nợ công 2009;
Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ
phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm
18
chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng
khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật
chứng khoán 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật chứng khoán sửa đổi 2010).
Thứ ba, các văn bản pháp luật quy định về kim khí quý, đá quý:
Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều Thông tư số 17/2014/TT-NHNN ngày
01/8/2014 quy định về phân loại, đóng gói, giao nhận kim khí quý, đá quý.
“Kim khí quý bao gồm vàng, bạc, bạch kim và các loại kim loại quý khác. Đá
quý bao gồm kim cương (hạt xoàn), ruby (hồng ngọc), emorot (lục bảo ngọc),
saphia (bích ngọc), ngọc trai (trân châu) và các loại đá quý khác”.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định số 40/2012/NĐ-CP ngày
02/05/2012 về nghiệp vụ phát hành tiền; bảo quản, vận chuyển tài sản quý và giấy
tờ có giá trong hệ thống ngân hàng nhà nước, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài (“Tài sản quý” bao gồm: Vàng, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ tiền
mặt và các loại tài sản quý khác).
Thứ tư, quy định của pháp luật hình sự về tài sản:
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, đối với các tội xâm phạm sở
hữu thì vật, tiền bạc có giá trị chứng minh cho tội phạm, người phạm tội và các tình
tiết khác của vụ án, vật rất phong phú, đa dạng, do vậy, tùy thuộc vào từng loại án,
mối liên hệ giữa vật chứng và đối tượng chứng minh cũng như giá trị chứng minh
của nó để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra,
đánh giá, sử dụng cho phù hợp. Vật chứng minh cho tội phạm bao gồm vật chứng
minh cho cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành
tội phạm giảm nhẹ cũng như các tình tiết khác có ý nghĩ tăng nặng hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Theo định tại Điều 74 BLTTHS năm 2003 quy định về vật chứng “Vật chứng
là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm,
vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh
tội phạm và người phạm tội”.
Ngày 27/11/2015 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua BLTTHS, quy định về vật chứng Điều 89 “Vật chứng
là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm,
19
vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và
người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.
So với BLTTHS năm 2003 ngày 26/11/2003 thì BLTTHS năm 2015 ngày
27/11/2015 thì chỉ bổ sung thêm “hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Việc
bổ sung như trên là hợp lý, vì trong vụ án hình sự có liên quan đến dân sự (bồi
thường thiệt, làm hư tài sản thì người có hành vi xâm phạm tài sản phải có biện
pháp khắc phục). Hiện nay, tình hình sự tội phạm diễn biến rất phức tạp, hành vi
phạm tội rất tinh vi. Đồng thời, các sản phẩm do con người tạo ra ngày càng phong
phú và đa dạng nên nhà làm luật không cụ thể hóa, rõ ràng chi tiết thì sẽ dẫn đến
thiếu sót.
1.2.2 Quy định pháp luật về định giá tài sản
Trong quá trình thực thi những quy định của BLTTHS năm 1988 và
BLTTHS năm 2003 về chứng cứ đã chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, trong đó
những quy định về chứng cứ còn hạn hẹp, không còn phù hợp với việc chứng minh
tình hình tội phạm hiện nay. Để khắc phục những tồn tại và khó khăn trên,
BLTTHS năm 2015 đã có những thay đổi, bổ sung quan trọng theo hướng quy định
rõ hơn những vấn đề cần phải chứng minh, mở rộng các loại nguồn chứng cứ… Đặc
biệt, “Kết luận định giá tài sản” được quy định là một trong những nguồn chứng cứ
quan trọng của quá trình chứng minh. Trong một số trường hợp cụ thể, nhất là đối
với các tội xâm phạm sở hữu việc định giá tài sản là hết sức quan trọng, làm cơ sở
cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, khi vụ án không thể xác định chính
xác giá trị tài sản bị xâm phạm là bao nhiêu. Ngoài ra, “Kết luận định giá tài sản”
cũng là một trong những căn cứ để buộc tội hoặc minh oan cho người vô tội. Xuất
phát từ tầm quan trọng của “Kết luận định giá tài sản” khi giải quyết các vụ án hình
sự và một số khó khăn vướng mắc trong thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003,
trong một số vụ án cần phải định giá tài sản, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm
nguồn chứng cứ mới đó là “Kết luận định giá tài sản” được quy định tài Điều 101
BLTTHS năm 2015. Cụ thể như sau:
“Kết luận định giá tài sản là văn bản do HĐĐGTS lập để kết luận về giá của
tài sản được yêu cầu.
HĐĐGTS kết luận giá của tài sản và phải chịu trách nhiệm về kết luận đó.
20
Kết luận định giá tài sản phải có chữ ký của tất cả thành viên HĐĐGTS.
Trường hợp không đồng ý với giá của tài sản do Hội đồng quyết định thì thành viên
của Hội đồng ghi ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý với kết
luận định giá tài sản thì phải nêu rõ lý do; nếu kết luận chưa rõ thì quyết định định
giá lại theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật này.
Kết luận định giá của HĐĐGTS vi phạm quy định của Bộ luật này, quy định
khác của pháp luật về định giá thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm
căn cứ để giải quyết vụ án”.
Không dừng lại việc bổ sung quy định “Kết luận định giá tài sản” là một
trong những nguồn chứng cứ quan trọng của quá trình chứng minh vụ án, “Kết luận
định giá tài sản” là căn cứ để buộc tội hoặc minh oan cho người vô tội nên BLTTHS
năm 2015 khẳng định người định giá tài sản phải có chuyên môn về định giá tài sản,
quy định quyền hành và trách nhiệm của người thực hiện công việc định giá tài sản,
theo quy định tại khoản 1 Điều 69 BLTTHS “Người định giá tài sản là người có
kiến thức chuyên môn về lĩnh vực giá, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng yêu cầu định giá tài sản theo quy định của pháp luật”.
Theo Luật giám định tư pháp năm 2012 quy định tại khoản 1 Điều 2 “Giám
định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện,
phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn
đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải
quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo
quy định của Luật này”.
Theo Luật giá số 11/2012/QH13 ngày 20/06/2012 thì không quy định các
vấn đề liên quan đến việc định giá tài sản trong các vụ án hình sự, mà chỉ quy định
liên việc đến các vấn đề thẩm định giá để xác định giá trị một tài sản trong việc kinh
doanh hay thực hiện việc đầu tư sản xuất, bán đấu giá tài sản. Luật giá năm 2012
chỉ phục vụ chủ yếu cho việc xác định giá trị tài sản để thực hiện việc giao kết hoặc
thỏa thuận dân sự, phục vụ công tác quản lý giá của nhà nước, các cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp tiến hành các hoạt động thẩm định giá tài sản.
21