Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Các giải pháp tăng cường Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân ở tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 91 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) nói chung và bảo hiểm xã hội tự nguyện
(BHXHTN) cho nông dân nói riêng là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước. Chính sách BHXH ở Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài trên
nữa thế kỷ và có thể chia thành hai thời kỳ chính: Thời kỳ bao cấp trước khi
có Bộ luật lao động, Luật BHXH thì đối tượng tham gia chỉ giới hạn với cán
bộ, công nhân, viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước và lực lượng vũ
trang, nguồn chi BHXH cơ bản từ ngân sách Nhà nước và thời kỳ sau khi có
Bộ luật lao động theo hướng xoá bỏ bao cấp.
Sau đại hội lần thứ VI của Đảng, nước ta thực hiện chính sách đổi mới,
chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Trong bối
cảnh đó, quan hệ lao động theo cơ chế mới cũng hình thành, người lao động
mọi thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật, thị trường lao động
phát triển, người lao động có quyền tự do tìm kiếm việc làm; Thực tế này đòi
hỏi phải có sự thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính
sách Bảo hiểm xã hội nói riêng; Năm 1994, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá
IX đã thông qua Bộ luật lao động, trong đó có một chương quy định về chính
sách BHXH bắt buộc theo nguyên tắc có đóng có hưởng, cân đối thu - chi với
5 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử
tuất.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X Đảng ta đã đề ra
mục tiêu là từng bước thực hiện chế độ BHXH cho mọi người lao động. Kỳ
họp thứ IX Quốc hội khoá XI đã thông qua luật Bảo hiểm xã hội và có hiệu
luật từ ngày 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ ngày 01/01/2008 đối với
BHXH tự nguyện, đây là hành lang pháp lý quan trọng để triển khai thực hiện

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version


GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

2

chính sách BHXH nói chung và BHXH tự nguyện cho nông dân nói riêng.
Sau hơn 3 năm thực hiện luật BHXH về BHXH tự nguyện. Đối tượng tham
gia được mở rộng đến mọi người lao động thuộc các thành phần kinh tế, đặc
biệt là người lao động ở khu vực nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên đến nay
đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên cả nước còn quá khiêm tốn mới có
trên 9,1 triệu người tham gia, chiếm tỷ lệ 11,5% tổng dân số.
Quảng Nam vốn là tỉnh có nền nông nghiệp lạc hậu, nhất là các huyện
miền núi nên mặc dù đã trải qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới và
đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu
hút đầu tư, song nông nghiệp nông thôn và lao động nông nghiệp vẫn giữ một
vị trí hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trên 70%
dân cư của tỉnh vẫn sống ở nông thôn và 40% lực lượng lao động xã hội vẫn
đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, đời sống thu nhập của nông dân
tuy được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Vì vậy, thực hiện BHXH
cho mọi người lao động nói chung và bản thân người nông dân nói riêng được
xem vừa là mục tiêu vừa là giải pháp tích cực góp phần thực hiện công bằng
xã hội trong hệ thống các chính sách an sinh xã hội, đảm bảo cho mọi người
dân, không phân biệt thành phần kinh tế, điều kiện kinh tế, nghề nghiệp, vị trí
địa lý, tuổi tác, giới tính... đều được tham gia và hưởng các chế độ BHXH
theo quy định của pháp luật.
Qua nhiều năm trực tiếp làm việc trên lĩnh vực này bản thân tôi đã có
nhiều trăn trở, cần phải có những giải pháp tích cực và phù hợp để tăng cường
BHXH tự nguyện cho nông dân, nên tôi chọn đề tài "Các giải pháp tăng
cường Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân ở tỉnh Quảng Nam" làm
luận văn tốt nghiệp của mình.


This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

3

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về BHXH tự nguyện cho
nông dân
- Phân tích đánh giá thực trạng tham gia BHXH tự nguyện của nông
dân tỉnh Quảng Nam trong những năm qua. Phân tích những kết quả đạt được,
những thuận lợi khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện
chính sách BHXH tự nguyện, những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc
tham gia BHXH tự nguyện của nông dân
- Đề xuất những giải pháp có tính khoa học để đưa vào áp dụng trong
thực tiễn một cách có hiệu quả nhằm tăng số người tham gia BHXH tự
nguyện, góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng, nhà nước đề ra “Bảo hiểm xã
hội cho mọi người lao động”;
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề về
triển khai thực hiện chính sách BHXH tự nguyện cho nông dân trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam, phân tích làm rõ những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc cả về
cơ chế lẫn tổ chức thực hiện;
- Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Tỉnh Quảng Nam
- Thời gian nghiên cứu: Các tài liệu đánh giá thực trạng được thu thập
qua 03 năm (từ 2008- 2010). Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua BHXH
tỉnh Quảng Nam;

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học, thống
kê, tổng hợp, phân tích, so sánh. Ngoài ra luận văn còn kế thừa và phân tích

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

4

các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, các bài viết trên
tạp chí của BHXH có liên quan đến đề tài nghiên cứu;
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hoá được những vấn đề lý luận và thực tiễn về BHXH nói
chung và BHXH tự nguyện nói riêng
- Đề tài nêu ra cho được thực trạng chính sách BHXH tự nguyện cho
nông dân tỉnh Quảng Nam, những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực
hiện cũng như những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc tham gia của
người dân
- Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi để
nhằm tăng cường phát triển Bảo hiểm xã hội tự nguyên cho nông dân trong
những năm đến, góp phần thực hiện Bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động
theo mục tiêu của Đảng đề ra;
6. Cấu trúc của luận văn
Tên đề tài: Các giải pháp tăng cường Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho
nông dân tỉnh Quảng Nam.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được chia thành 3 chương;
Chương 1: Cơ sở lý luận về Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
Chương 2: T hực trạng tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện của nông

dân tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Các giải pháp tăng cường bảo hiểm xã hội cho nông dân ở
tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
CHO NÔNG DÂN
1.1. Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
1.1.1. Khái niệm về nông dân
Có rất nhiều khái niệm về nông dân, chẳng hạn như:
Nông dân: Bất cứ người nào điều hành một trang trại hay gián tiếp liên
quan đến việc canh tác trên đất, sở hữu hay trực tiếp kiểm soát các cây trồng
và vật nuôi. [24]
Hay theo Bách khoa toàn thư Việt Nam:
Nông dân: Những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất
nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành
nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch
sử, người nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành
nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội.[31]
Nông dân là một người, tha m gia vào nông nghiệp, người nuôi sinh vật
bằng thực phẩm ho ặc nguyên liệu, thường bao gồm chăn nuôi gia súc và trồng
trọt như sản xuất và ngũ cốc. Một người nông dân có thể sở hữu đất hoặc có
thể làm việc như một người lao động về đất đai thuộc sở hữu của người khác,
nhưng trong nền kinh tế tiên tiến, nông dân thường là một chủ trang trại, trong

khi nhân viên của trang trại là lao động nông nghiệp.[31]
Từ quan điểm trên có thể khái niệm Nông dân là những người lao động
cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu
bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất
đai, chăn nuôi và trồng trọt…

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

6

1.1.2. Khái niệm về Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
Bảo hiểm xã hội nói chung và BHXHTN cho nông dân nói riêng tồn tại
là tất yếu khách quan, có nhiều khái niệm về BHXHTN khác nhau và theo
điều 3 luật BHXH thì Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình Bảo hiểm xã hội
mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương
thức đóng phù hợp với thu nhập của mình hưởng Bảo hiểm xã hội. [23]
Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình BHXH do Nhà nước ban
hành để đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao
động bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự tự
nguyện đóng góp một phần thu nhập của người lao động, người sử dụng lao
động, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và cho gia đình họ,
góp phần bảo đảm an toàn xã hội. [26]
Vậy Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân: một loại hình BHXH do
nhà nước ban hành và quản lý để vận động, khuyến khích người lao động là
nông dân tự nguyện tham gia; được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng
phù hợp nhằm đảm bảo bù đắp một phần thu nhập cho chính bản thân người
nông dân và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập do gặp phải

những rủi ro xã hội, như tuổi già, tử tuất..., đồng thời góp phần đảm bảo công
bằng và an sinh xã hội.
Như vậy, loại hình BHXH tự nguyện cho nông dân chỉ có thể được
hình thành và thực hiện trên cơ sở:
- Có nhiều người lao động là nông dân tham gia với điều kiện:
- Có nhu cầu thực sự về BHXH;
- Có khả năng tài chính để đóng phí BHXH tự nguyện;

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

7

- Có sự thống nhất với những quy định cụ thể (mức đóng, mức hưởng,
quy trình thực hiện, phương pháp quản lý, sử dụng quỹ BHXH tự nguyện…)
của loại hình BHXH tự nguyện.
- Có tổ chức, cơ quan đứng ra thực hiện BHXH tự nguyện.
- Được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết.
1.1.3. Bản chất, vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
1.1.3.1. Bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
Bản chất kinh tế của BHXHT N cho nông dân thể hiện ở chỗ những
người tham gia cùng đóng góp một khoản tiền trích trong thu nhập để lập
một quỹ dự trữ. Mục đích của việc hình thành quỹ này để trợ cấp cho những
người tham gia BHXH tự nguyện khi gặp rủi ro dẫn đến giảm hoặc mất thu
nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một quỹ tài chính được xã hội
phân phối lạ i cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu về BHXH như ốm
đau, sinh đẻ, già yếu, chết... Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của
BHXH được thực hiện theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo
chiều ngang là sự phân phối giữa chính bản thân người lao động theo thời

gian (giữa thời gian lao động và thời gian nghỉ hưu). P hân phối theo chiều
dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh với người ốm đau; giữa
người trẻ và người già; giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập
thấp. Nhờ sự phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và gia
đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc và rủi ro xã hội.
Tóm lại, BHXH tự nguyện được đặc trưng bằng sự vận động của các
nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH tự nguyện
nhằm góp phần ổn định cuộc sống của người tham gia và gia đình họ khi gặp
rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng thu nhập từ lao động.
Bản chất xã hội của BHXH tự nguyện cho người nông dân được thể
hiện ngay trong mục tiêu của nó. BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

8

nhuận. Mục tiêu của bất kỳ hệ thống BHXH nào cũng là mục tiêu xã hội.
Điều này được thể hiện thông qua việc chi trả chế độ BHXHTN. Người
tham gia BHXH tự nguyện sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
khi họ bị giảm hoặc mất khả lao động. Do có sự chia sẻ rủ i ro giữa những
người tham gia BHXH tự nguyện nên mặc dù chỉ đóng một phần nhỏ trong
thu nhập của mình cho Quỹ BHXH tự nguyện, nhưng có thể được bồi hoàn
một khoản thu nhập đủ lớn để giúp họ trang trải rủi ro. Ở đây, Quỹ BHXH
tự nguyện đó thực hiện nguyên tắc "lấy của số đông, bù cho số ít" và BHXH
tự nguyện được hiểu như một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho
người lao động khi thu nhập của họ bị giảm, bị mất. Trên góc độ vĩ mô,
BHXH tự nguyện gúp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
góp phần xóa đói, giảm nghèo.

Tóm lại, hoạt động BHXH tự nguyện không vì mục tiêu lợi nhuận, mà
hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp
phần ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Điều này giải thích tại sao BHXH
được coi là một chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia.
Tuy nhiên bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH TN không
tách rời mà đan xen với nhau. Khi nói đến sự đảm bảo kinh tế cho người lao
động và gia đình họ là nói đến tính xã hội của BHXH. Ngược lại khi nói đến
sự đóng góp ít, nhưng lại được bù đắp đủ trang trải mọi rủi ro, thì cũng đã đề
cập đến tính kinh tế của BHXH. [11]
1.1.3.2. Vai trò Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
Trong đời sống kinh tế - xã hội, BHXH xã hội nói chung và BHXH tự
nguyện cho nông dân nói riêng đóng vai trò to lớn được thể hiện trên các mặt
sau:
- BHXH tự nguyện góp phần ổn định đời sống của nông dân tham gia
BHXHTN, đảm bảo an toàn xã hội. Nông dân tham gia BHXH tự nguyện thì

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

9

bản thân và gia đình họ sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi
họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Nhờ có sự
đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà nông dân tham gia BHXH
tự nguyện nhanh chóng khắc phục được những tổn thất vật chất, sớm phục hồi
sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình lao động, hoạt động bình
thường của bản thân.
- BHXH tự nguyện cho nông dân góp phần thực hiện công bằng xã
hội. Phân phối trong BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là

sự phân phối lại giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu
hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập
của những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm, thu nhập ổn định cho
những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất
và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH tự nguyện góp phần làm giảm bớt khoảng
cách giữa người giàu và người nghèo.
- BHXH tự nguyện cho nông dân góp phần phòng tránh và hạn chế
tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống xã hội của người nông
dân.
- BHXH tự nguyện cho nông dân góp phần thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế của đất nước. [11]
1.1.4 Nguyên tắc hoạt động của Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
Nguyên tắc BHXH tự nguyện cho nông dân là những quy định nhằm
đảm bảo cho các hoạt động BHXH tự nguyện diễn ra bình thường, đạt được
mục tiêu mong muốn của nó. Nguyên tắc của BHXH tự nguyện cho nông dân
là những định hướng, những quy định và những phương thức hoạt động của
cả hệ thống BHXH nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Theo nghĩa đó,
BHXH tự nguyện cho nông dân phải được xây dựng trên nền tảng các nguyên
tắc cơ bản sau:

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

10

1.1.4.1. Nguyên tắc tự nguyện tham gia và hưởng BHXHTN
BHXH tự nguyện cho nông dân được xây dựng trên cơ sở tự nguyện
của nông dân với tư cách là người tham gia BHXHTN cũng là người hưởng
BHXHTN. Trước hết chúng ta cần làm rõ chủ thể tham gia BHXHTN xét về

mặt quan hệ sản xuất và quan hệ lao động. Đối tượng này vừa là chủ tư liệu
sản xuất (chủ yếu là ruộng đất, công cụ lao động thủ công, nhà xưởng gắn liền
với nơi ở, vốn tự có là chính …), vừa là chủ sức lao động (là người vừa tham
gia quản lý, vừa tham gia lao động). Họ không tham gia trực tiếp vào thị
trường sức lao động (nếu họ không di chuyển nghề), nhưng sản phẩm hàng
hóa làm ra lại tham gia vào thị trường và chấp nhận cạnh tranh quyết liệt. Họ
tự hạch toán kết quả sản xuất kinh doanh, đồng thời tự quyết định phân phối,
quyết định đầu tư và chi tiêu ngân sách trong thu chi gia đình. Bởi vậy, quan
hệ của họ với BHXH là quan hệ "lỏng" hoặc quan hệ "mềm", không mang
tính bắt buộc như quan hệ lao động trong Bộ luật Lao động điều chỉnh. Bởi
vậy họ tham gia BHXH mang tính "tự nguyện", trên cơ sở suy nghĩ về "tính
lợi ích" khi tham gia BHXH. Do đó, mọi chính sách BHXH có tính áp đặt,
cưỡng chế và bất lợi (cả trước mắt và lâu dài) đều dẫn đến khả năng thực thi
thấp hoặc thất bại.
1.1.4.2. Nguyên tắc Nhà nước phải có trách nhiệm đối với quỹ bảo hiểm xã
hội tự nguyện của nông dân.
Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động KT-XH trên phạm
vi cả nước. Với vai trò này, Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của
toàn xã hội, đồng thời cũng có mọi công cụ cần thiết để thực hiện vai trò của
mình. Cùng với sự tăng trưởng, sự phát triển của KT-XH, cũng có những kết
quả bất lợi không mong muốn. Những kết quả bất lợi này trực tiếp hoặc gián
tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho người nông dân tham gia BHXHTN. Khi xảy
ra tình trạng như vậy, nếu không có BHXH thì Nhà nước vẫn phải chi Ngân

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

11


sách để giúp đỡ nông dân dưới một dạng khác. Sự quan tâm của Nhà nước
trong việc thực hiện chính sách BHXHTN làm cho đời sống nông dân ổn định
mà còn làm cho sản xuất ổn định, KT-XH của đất nước phát triển.
1.1.4.3. Nguyên tắc lấy số đông bù số ít và kết hợp hài hòa lợi ích nhu cầu
BHXHTN cho nông dân.
BHXHTN cho nông dân là hình thức chia sẻ rủi ro của số ít người cho
số đông người cùng gánh chịu. Chỉ có thực hiện việc san sẻ này thì nông dân
mới có thể được đảm bảo về thu nhập khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ
hoạt động nghề nghiệp khi gặp phải những biến cố (còn gọi là "rủi ro xã hội").
Nhu cầu BHXHTN cho nông dân là cần thiết đối với mọi nông dân.
Song nhu cầu đó phải dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích, các khả năng của
người tham gia BHXH cũng như của Nhà nước. Khi người nông dân sử dụng
thu nhập của mình để tham gia BHXHTN thì trước hết họ phải dành phần lớn
chi cho chi tiêu sinh hoạt đời sống hàng ngày của bản thân và gia đình, phần
còn lại mới có thể xem xét để đóng phí BHXHTN. Nếu thu nhập thấp dẫn đến
sự lựa chọn mức đóng thấp thì lợi ích trước mắt của người nông dân sẽ tăng
lên, nhưng khi họ có nhu cầu được BHXH thì đương nhiên chỉ nhận được trợ
cấp thấp. Ngược lại, muốn được hưởng trợ cấp BHXH cao, lẽ đương nhiên sẽ
phải đóng phí cao hơn, phần chi cho đời sống hàng ngày lại phải giảm đi. Nếu
người tham gia BHXHTN đóng phí BHXH thấp mà hưởng trợ cấp BHXH
cao, sẽ ảnh hưởng đến mức độ an toàn của quỹ BHXH. Tính chất lâu dài của
chính sách BHXHTN sẽ ít có khả năng thực thi, còn nếu buộc Nhà nước phải
bù đắp toàn bộ chênh lệch đó, thì ảnh hưởng đến Ngân sách Nhà nước. Đặc
biệt là ở nước ta hiện nay đang trong tình trạng bội chi Ngân sách. Nếu Nhà
nước không có trách nhiệm đối với quỹ BHXH tự nguyện thì ảnh hưởng đến
quyền lợi của người tham gia BHXH tự nguyện, bởi lẽ tiền lương hưu và trợ
cấp BHXH thực tế sẽ thấp hơn danh nghĩa do đó tính hấp dẫn của chính sách

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer

Full version can be ordered from />

12

cũng như khả năng thực thi của chính sách BHXH tự nguyện cho nông dân về
lâu dài là không thể thực hiện được. Vì vậy trong nghiên cứu xây dựng các
thiết chế hoặc trong điều hành BHXHTN cụ thể cần phải tìm ra giải pháp để
kết hợp hài hòa lợi ích lâu dài của người lao động, cũng như đảm bảo kết hợp
hài hòa giữa lợi ích của người tham gia BHXH và lợi ích của Nhà nước.
1.1.4.4. Nguyên tắc mức hưởng tiền lương hưu tỷ lệ thuận với mức đóng góp
bảo hiểm xã hội
Là hình thức tự nguyện, không bao hàm chính thức trợ cấp ưu đãi nên
BHXH tự nguyện cho nông dân phải được xây dựng trên nguyên tắc mức
hưởng tiền lương hưu phải tỷ lệ thuận với mức đóng góp BHXH, đồng thời
cũng là nguyên tắc đảm bảo quỹ BHXH an toàn, khuyến khích người lao
động tham gia BHXH tự nguyện.
Phần đóng góp và hưởng thụ của người tham gia BHXH tự nguyện
cần phải được tiền tệ hóa. Nguyên tắc này đảm bảo thuận tiện cho việc quản
lý quỹ BHXHTN. Tuy nhiên mối quan hệ giữa đóng góp và hưởng thụ cũng
cần được xem xét trong mối quan hệ với giá cả của các sản phẩm thiết yếu
trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày. Giải quyết được vấn đề này đảm bảo
cho chính sách BHXH tự nguyện nông dân mang tính thực thi cao.
1.1.4.5. Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân phải được phát triển dần
từng bước phù hợp với các điều kiện KT-XH của đất nước trong từng giai
đoạn phát triển
BHXH của một nước gắn rất chặt với trạng thái kinh tế, với các điều
kiện kinh tế - xã hội, với cơ chế và trình độ quản lý, đặc biệt là với sự đồng
bộ, hoàn chỉnh của nền pháp chế nước đó. Trong khi nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang hình thành, nhiều lĩnh vực kinh
tế - xã hội đang chuyển dịch mạnh. Vì vậy việc xây dựng và phát triển BHXH


This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

13

tự nguyện cho nông dân phải đảm bảo chắc chắn, tính toán thận trọng và phải có
bước đi phù hợp.
Sự phát triển của BHXH nói chung biểu hiện trên nhiều mặt: cơ cấu
các bộ phận của hệ thống, số lượng và cơ cấu các chế độ trợ cấp, mức trợ cấp,
thời gian nghỉ việc để hưởng trợ cấp, mức đóng phí BHXHTN… Nếu không
cân nhắc thận trọng và lựa chọn bước đi hợp lý sẽ có thể phát sinh trục trặc
không thể kiểm soát được. [11]
1.2. Nội dung chính sách bảo hiểm xã hộ i tự nguyện cho nông dân
Theo quy định của luật BHXH về BHXHTN thì nội dung chính sách
BHXHTN cho nông dân, gồm các nội dung cơ bản cụ thể sau:
1.2.1. Đối tượng áp dụng
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện của nông dân là tất cả các nông
dân Việt Nam trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ
đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi) mà không thuộc diện áp dụng của pháp luật về
BHXH bắt buộc, bao gồm:
- Người nông dân làm việc theo hợp đồng lao động cho chủ sử dụng
lao động tại các trang trại mà không thuộc đối tượng đóng BHXHBB
- Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nông
nghiệp, kể cả xã viên HTX nông nghiệp không hưởng tiền lương, tiền công
trong các hợp tác xã, liên hợp tác xã nông nghiệp.
Ngoài ra, đối tượng nông dân tham gia BHXHTN có thể là người nông
dân trước đây đã tham gia BHXH bắt buộc tại các cơ quan nhà nước, các
doanh nghiệp nhưng do quá trình sắp xếp doanh nghiệp nhà nước và cải cách

hành chính. Những lao động thuộc diện "dôi dư" đó chưa nhận trợ cấp bảo
hiểm một lần còn trong độ tuổi và khả năng lao động thuộc đối tượng tham gia
BHXHTN.

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

14

- Lao động do bầu cử tại xã, phường được bổ nhiệm vào các tổ chức
dân cử như Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp cơ sở, các đoàn thể và tổ
chức quần chúng sau khi hết nhiệm kỳ không được bầu lại, không tiếp tục làm
việc và đóng BHXHBB có nhu cầu tiếp tục tham gia BHXHTN.
Như vậy, người lao động là nông dân không thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc thì thuộc đối tượng tham gia loại hình BHXH tự nguyện. Mặt
khác, những người trước đây đã tham gia BHXH bắt buộc nhưng vì nhiều lý
do khác nhau nay không tham gia BHXH bắt buộc nữa cũng được phép chuyển
sang tham gia BHXH tự nguyện và được liên thông để tính thời gian và mức
tiền đóng góp để thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất.
1.2.2. Mức đóng, phương thức đóng Bảo hiểm xã hội tự nguyện nông dân
BHXH tự nguyện nông dân thực hiện trên cơ sở tự nguyện của người
tham gia. Để được hưởng BHXH, người nông dân phải đóng BHXHTN theo
phương thức hàng tháng, hàng quý hoặc 6 tháng một lần. Mức đóng BHXH
bằng tỷ lệ % đóng BHXH nhân với thu nhập tháng của người tham gia
BHXH. Người tham gia BHXH tự nguyện được lựa chọn mức đóng và
phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Mức đóng này tính trên cơ
sở mức thu nhập tháng đóng BHXH nhưng thấp nhất bằng mức lương tối
thiểu chung và cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
1.2.3. Các chế độ Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân

Người nông dân tham gia BHXH tự nguyện được hưởng hai chế độ:
hưu trí và tử tuất.
- Chế độ hưu trí: Theo quy định của luật, người tham gia BHXH tự
nguyện đủ điều kiện hưởng lương hưu nếu đủ một trong các điều kiện sau:
Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có 20 năm đóng BHXH trở lên; nam từ 55
tuổi trở lên và nữ từ đủ 50 tuổi trở lên đối với người tham gia BHXH tự
nguyện mà trước đó có tổng thời gian đóng BHXH bắt buộc đủ 20 năm trở

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

15

lên, trong đó có 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc; người tham gia
BHXH tự nguyện mà trước đó có tổng thời gian đóng BHXH bắt buộc đủ 20
năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Tỷ lệ lương hưu hàng tháng được tính bằng 45% tương ứng với 15
năm đóng BHXH, sau đó cứ mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2% đối với
nam và 3% đối với nữ, mức tối đa bằng 75%. Mức bình quân thu nhập tháng
được tính bằng thương số của tổng các mức thu nhập đóng BHXH với tổng số
tháng đóng BHXH. Mức này được lấy làm cơ sở để tính mức trợ cấp một lần
khi nghỉ hưu; mức hưởng BHXH một lần; tính hưởng chế độ hưu trí đối với
người tham gia BHXH tự nguyện trước đó đã tham gia BHXH bắt buộc.
- Chế độ tử tuất: người lao động đã có ít nhất 5 năm đóng BHXH tự
nguyện hoặc đang hưởng lương hưu khi chết, người lo mai táng được nhận trợ
cấp mai táng bằng 10 tháng tiền lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định.
Người lao động đóng BHXHTN, người đang hưởng lương hưu hoặc
người lao động đang bảo lưu thời gian đóng BHXH khi chết thân nhân được
hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần cứ 01 năm đóng BHXHTN bằng

1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. Còn đối với thân nhân
người đang hưởng lương hưu chết được tính theo thời gian đã hưởng lương
hưu. Nếu chết trong 2 tháng đầu khi nghỉ hưu thì được tính bằng 48 tháng
lương hưu đang hưởng. Còn chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng thêm 1
tháng hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu. Người tham gia
BHXH tự nguyện được cấp sổ BHXH, hưởng BHYT khi đang hưởng lương
hưu và được phép ủy quyền cho người khác nhận lương hưu và trợ cấp
BHXH. [2], [5], [23]

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

16

1.3. Nội dung thực hiện tăng cường bảo hiểm xã hội tự nguyện cho
nông dân
Theo từ điển tiếng việt thì tăng cường nghĩa là làm cho tăng thêm về số
lượng, về khả năng. [13]
Như vậy tăng cường bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Sự gia tăng về số lượng;
- Quy mô được mở rộng;
- Tăng khả năng đáp ứng cho đối tượng được phục vụ.
Vì vậy, nội dung tăng cường Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
là việc mở rộng về quy mô, gia tăng về số lượng và tăng khả năng đáp ứng
các dịch vụ cho nông dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Nội dụng cụ
thể, gồm;
1.3.1. Đánh giá nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của nông dân
Nhu cầu được hiểu là tất cả những đòi hỏi và mong muốn của con
người cần được đáp ứng và thỏa mãn. Về thực chất nhu cầu là một cảm giác

thiếu thốn, là một trạng thái căn thẳng liên quan đến những đòi hỏi của cá
nhân, tự nhiên và xã hội. [20, tr. 19]
Để xác định nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của nông dân,
người ta thường tổ chức điều tra, đánh giá trên diện rộng nhu cầu và khả năng
tham gia BHXHTN của nông dân.
Những năm vừa qua ở một số địa phương như, Bắc Ninh, Bắc Giang,
Nghệ An, Hà Tĩnh... đã tiến hành việc tổ chức BHXHTN cho một bộ phận lao
động nông thôn. Song qua nghiên cứu cho thấy các mô hình đó vẫn chưa thấy
rõ tính xã hội, tính hiệu quả và bền vững, về cơ bản các thí điểm này là thất
bại, trừ BHXH nông dân Nghệ An tồn tại đến ngày nay, song nguy cơ vỡ quỹ
trong dài hạn là rất cao. Điều này thể hiện ở một số nét sau:

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

17

+ Mức đóng góp rất thấp, trong khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lại biến
động, biện pháp bảo toàn chủ yếu là gửi tiết kiệm nên mức chi trả rất thấp, chỉ có
ý nghĩa về tinh thần, không có ý nghĩa về mặt kinh tế, ổn định đời sống người
lao động lúc tuổi già; khả năng vỡ quỹ là không khó tránh khỏi.
+ Chưa có một nghiên cứu và điều tra nào ở quy mô lớn về nhu cầu thật
sự và khả năng đóng BHXH tự nguyện của người nông dân. Tức là nhu cầu
có khả năng đáp ứng trên cơ sở phân tích thu nhập, hạch toán cân đối thu - chi
ngân sách gia đình các Hộ gia đình, nên thiếu cơ sở để xác định mức đóng
góp của người tham gia Bảo hiểm.
+ Chưa được thực hiện trên cơ sở thiết kế hệ thống BHXH, mà làm
theo kiểu cục bộ và hành chính, nghiệp dư, nên rất dễ rơi vào tình trạng hoạt
động tự phát, lỏng lẻo và không ổn định, lâu bền.

+ Thiếu cơ sở pháp lý ở tầm cao, nhất là về điều lệ hoạt động, cơ chế
quản lý quỹ, chính sách BHXH... nên rất khó khăn trong tổ chức thực hiện và
xử lý những tình huống phát sinh.
Các khó khăn trên đây, nếu được phân tích kỹ và có biện pháp xử lý tốt
thì mới có khả năng từng bước thực hiện BHXHTN cho đối tượng này thông
qua một mô hình BHXH thống nhất của Nhà nước.
Trên đây là mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng (điều kiện) tham gia
BHXH của lao động khu vực nông nghiệp được xem xét về mặt nguyên lý, lý
thuyết. Tuy nhiên, khi thiết kế một chính sách BHXH cho lao động nói chung,
cho lao động khu vực nông nghiệp nói riêng, cần phải dựa trên quan điểm
thực chứng, tức là phân tích nhu cầu và khả năng thực tế thông qua kết quả
điều tra, khảo sát cơ bản hoặc nghiên cứu tình huống. Viện KHLĐXH, năm
2006, đã tiến hành khảo sát về triển vọng tham gia BHXH tự nguyện của lao
động nông thôn tại 10 tỉnh, trong đó có tỉnh Quảng nam, với cỡ mẫu 3.412 hộ
gia đình (gọi tắt cuộc điều tra là VSIIS). [27]

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

18

Kết quả điều tra (VSIIS) nhu cầu tham gia của BHXH ở khu vực này cho
thấy.
Bảng 1.1. Nhu cầu tham gia BHXHTN của lao động
khu vực nông nghiệp
Đơn vị: %
BHXH
bắt
buộc

37,38

Các hình thức BHXH
1, BHYT

BHXH
Không Tổng
tự
trả lời
số
nguyện
44,86
17,76 100,0

2, BH hưu trí

23,36

42,06

34,58

100,0

3, Ốm đau

21,50

22,43


56,07

100,0

4, Tai nạn lao động, bệnh nghề

16,82

23,36

59,81

100,0

5, Thai sản

11,21

16,82

71,96

100,0

6, BH thất nghiệp

14,95

24,30


60,75

100,0

7, Chế độ nghỉ dưỡng sức

14,02

23,36

62,62

100,0

8, Chế độ tử tuất

21,50

24,30

54,21

100,0

Chung

20,01

27,70


52,20

100,0

nghiệp

Nguồn: [18].
Nhu cầu về BHXH; đối với BH hưu trí, 65,42%/ tổng mẫu khảo sát, số
người được hỏi có nhu cầu (42,06% muốn tham gia BH hưu trí tự nguyện và
23,36% muốn tham gia BH hưu trí bắt buộc). Có tới 45,79% số đối tượng
khảo sát sẵn sàng tham gia chế độ tử tuất (24,30% muốn tham gia chế độ tử
tuất tự nguyện và 21,5% bắt buộc), nhu cầu về tham gia BHYT tự nguyện
chiếm 82,24%...tính chung lại, nhu cầu sẵn sàng tham gia các loại hình
BHXH là 47,8% là tỷ lệ khá cao, nếu dùng tỷ lệ này suy rộng ra thì nhu cầu
tham gia BHXHTN cả nước lên tới gần 19,2 triệu người. Nhu cầu này là hoàn
toàn chính đáng, song khả năng thực tế là không thể, vì yếu tố quyết định để

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

19

người lao động có thể tham gia BHXHTN là khả năng đóng BHXH dựa trên
thu nhập của chính người nông dân.
Người lao động khu vực nông nghiệp chủ yếu là người thuộc diện nghèo,
cận nghèo đời sống rất khó khăn…nên khả năng tham gia BHXH tự nguyện
rất thấp. Nếu muốn tham gia phải có sự hỗ trợ của nhà nước hoặc người thân.
Tuy nhiên, khả năng hỗ trợ của người thân cũng rất hạn chế.
1.3.2. Tăng cường quản lý, mở rộng đối tượng tham gia và tổ chức thu phí

bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
Nông dân Việt Nam chiếm tỷ lệ khoảng trên 70% dân số, xét về lịch sử,
mang những giá trị văn hoá đặc trưng, chứa đựng những nét bản sắc văn hoá
dân tộc. Nhưng xét về góc độ kinh tế thì lại chứa đựng những yếu tố cản trợ
sự phát triển của BHXHTN. Đó là: Tỷ lệ thất nghiệp (tỷ lệ giờ lao động nhàn
rỗi) cao gây áp lực tài chính nếu tham gia vào hệ thống BHXH. Tính tự phát
và sự rời rạc trong hoạt động kinh tế nông nghiệp khiến cho việc tham gia
BHXHTN gặp nhiều khó khăn;
Độ "trễ" trong nhìn nhận các vấn đề mới của xã hội, trong đó đặc biệt
là vấn đề BHXH cho người già. Với quan điểm và nét văn hoá Á Đông "Trẻ
cậy cha, già cậy con" khiến cho quy mô tham gia BHXHTN, đặc biệt tham
gia BHXHTN của người nông dân không thực sự trở thành một vấn đề cấp
thiết. Một hệ thống BHXH nhân văn, hiện đại sẽ có mục đích bao phủ toàn bộ
số dân, bất kể nông thôn hay thành thị. Cho dù có thực hiện BHXH tự nguyện
thì chắc chắn độ bao phủ vẫn rất thấp vì với những điều kiện để tham gia
BHXH tự nguyện hiện tại còn nhiều điểm không phù hợp đối với đại bộ phận
nông dân và dân cư nông thôn.
- Việc mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia BHXH cho lao động khu
vực nông nghiệp phải có bước đi thích hợp, không thể làm ồ ạt, tràn lan, mà
phải mở rộng dần từng bước vững chắc. Bởi vì, khi người nông dân nhận thức

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

20

từ lợi ích đêm lại của BHXH tự nguyện đối với họ thì họ sẵn sàng tham gia, .
Song khi họ quyết định tham gia rồi thì phải thông qua một hình thức dịch vụ
như, cam kết bằng văn bản có giá trị pháp lý (chẳng hạn có bảng đăng ký

tham gia BHXH tự nguyện) được thỏa thuận đôi bên để ràng buộc trách
nhiệm giữa cơ quan BHXH và người tham gia BHXHTN, đồng thời cần phải
đẩy mạnh dịch vụ quảng cáo, tuyên truyền, thông qua các kênh, đài, báo,
trang Web… để người nông dân nhận thức được quyền lợi, kết hợp với việc
tăng cường vận động mạnh mẽ để người nông dân tự giác tham gia
Trong khu vực nông nghiệp do không có quan hệ lao động hoặc có
quan hệ lao động nhưng rất sơ khai đơn giản, nên cần thiết phải có có chính
sách BHXHTN cho người nông dân một cách phù hợp để họ có thể tham gia
BHXH tự nguyện.
Nguyên tắc cơ bản của chính sách BHXH tự nguyện cho nông dân là sự
tham gia tự nguyện của người nông dân khi còn trong độ tuổi lao động và có
việc làm, có thu nhập đóng góp vào quỹ BHXH tự nguyện. Thuận lợi cơ bản
là chính sách BHXH tự nguyện cho người nông dân đã được luật hóa phù hợp
với chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về BHXH cho người lao động
trong mọi thành phần kinh tế, được thể chế hóa trong luật BHXH về
BHXHTN và được tập trung chỉ đạo thực hiện. Mặt khác, nhu cầu tham gia
BHXH tự nguyện của lao động khu vực nông nghiệp là rất lớn, khi nhà nước
có chính sách, cơ quan tổ chức thực hiện tăng cường các dịch vụ từ công tác
thu, chi trả các chế độ BHXHTN cho người nông dân tham gia tốt, chất
lượng…, tạo ra sản phẩm phù hợp với lợi ích của người nông dân, thì họ sẽ
nhiệt tình tham gia. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để mở rộng phạm vi
đối tượng nông dân tham gia BHXHTN theo luật định.Tuy nhiên, BHXHTN
ở khu vực nông nghiệp cần chọn con đường nào? Cách nào? Hay nói cách
khác là giải pháp gì để tăng quy mô, mở rông về người nông dân tham gia

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

21


BHXH tự nguyện một cách nhanh hơn để có thể thực hiện được mục tiêu
BHXH cho mọi người lao động theo Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng
là việc làm cần thết đối với cơ quan BHXH tỉnh.
Cơ sở để xác định và tổ chức thực hiện công tác thu phí BHXHTN là
đối tượng nông dân tham gia BHXHTN còn mức đóng cũng như phương thức
đóng BHXHTN đối với người nông dân là căn cứ vào trình độ phát triển KTXH của mỗi quốc gia và được cụ thể hóa trong các nội dung văn bản của nhà
nước. Về nguyên tắc thì mọi người lao động có nhu cầu đều được tham gia
BHXH tự nguyện. Tuy nhiên, hầu hết ở các nước đều thực hiện cách tiếp cận
từ từ để mở rộng đối tượng trong hệ thống BHXH tự nguyện. Khi quản lý
được đối tượng tham gia và những đối tượng bị loại trừ khỏi hệ thống
BHXHTN. Việc xác định này dựa trên cở sở điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi địa phương, trình độ quản lý của cơ quan BHXH và các điều kiện
khác như truyền thống, văn hóa, đất đai, mùa vụ và những thiên tai, giá cả
được đảm bảo và ổn định…theo quy định của luật BHXH thì đối tượng tham
gia BHXH tự nguyện nông dân là nông dân Việt Nam có từ đủ 15 tuổi đến 60
tuổi đối với nam, từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ, không thuộc diện áp dụng của
pháp luật về BHXH bắt buộc là đối tượng mà cơ quan BHXH phải có trách
nhiệm quản lý để tăng cường, tuyên truyền vận động họ tham gia
* Về mức đóng góp, phương thức đóng: Người nông dân tham gia BHXH tự
nguyện bao gồm nhiều loại hình lao động có các hình thức thu nhập khác nhau,
nên phải xác định mức đóng BHXH tự nguyện sao cho nhiều đối tượng có thể
tham gia, đảm bảo cho việc hạch toán cân đối thu chi BHXH tự nguyện được
thống nhất, dễ dàng. Vì vậy, công thức được xác định như sau:

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

22


Mức đóng BHXH tự nguyện của nông dân được xác định theo công
thức sau:
Mức đóng
hằng tháng

Tỷ lệ phần trăm
=

đóng BHXH tự
nguyện

x

Mức thu nhập tháng người tham
gia BHXH tự nguyện lựa chọn

Trong đó:
- Mức thu nhập tháng người tham gia = Lmin + m x
50.000(đồng/tháng)
- Lmin: là mức lương tối thiểu chung do nhà nước quy định từng thời
điểm., m: là số nguyên,> 0, m= 0,1,2,3…n
Mức thu nhập tháng người tham gia BHXH tự nguyện lựa chọn bằng
mức lương tối thiểu chung, cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung do
nhà nước quy định từng thời điểm.
Tỷ lệ % đóng BHXTN của người nông dân cần xây dựng một cách linh
hoạt, phù hợp với điều kiện của người nông dân, bởi khi người nông dân thu
nhập không ổn định lại thấp nên lúc có thu nhập cao do được mùa, do thời
gian nông nhàn người ta có đi làm thuê tạo thêm thu nhập, thu nhập từ các
nguồn khác... cho nên chính sách cần đưa ra mức đóng hết sức mềm dẽo linh

hoạt để kích thích cho người nông dân tham gia BHXH tự nguyện
Phương thức đóng phí bảo hiểm cần mở rộng hơn không nên quy định
quá gò bó gây khó khăn cho người nông dân, vì người nông dân không phải
lúc nào cũng có tiền mà phải qua một thời vụ mới có thu nhập, khi có thu
nhập mà quá thời hạn đóng phí thì không có cơ hội để đóng sẽ làm người ta
nãn chí không muốn tham gia cho nên cần phải tăng thêm thời gian đóng, tạo
ra sự hài lòng cho đối tượng để thu hút người nông dân tham gia BHXHTN
ngày càng tăng cả quy mô về số lượng và chất lượng. [2]

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

23

1.3.3. Mở rộng các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
Trong Công ước 102 (ILO, 1984) quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội
của Tổ chức lao động quốc tế quy định 9 chế độ BHXH, nhưng không bắt
buộc các quốc gia phải thực hiện cả 9 chế độ đó mà chỉ khuyến khích các
nước thành viên thực hiện ít nhất 3 chế độ (đặc biệt lưu ý chế độ 3, 4, 5, 8, 9).
1. Chăm sóc y tế; 2. Phụ cấp ốm đau; 3. Trợ cấp thất nghiệp; 4. Trợ
cấp tuổi già; 5. T rợ cấp tai nạn lao động; 6. Trợ cấp gia đình; 7. Trợ cấp thai
sản; 8. T rợ cấp tàn phế; 9. T rợ cấp mất người nuôi dưỡng.
Cơ sở để xác định thực thi mỗi chế độ BHXHTN là căn cứ vào trình
độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Hiện tại ở Việt Nam, BHXHTN
cho nông dân chỉ áp dụng 2 chế độ, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất là chưa
phù hợp, theo điều tra của đề tài trên (trang 19) ở đối tượng BHXHTN được
khảo sát thì ngoài nhu cầu tham gia BHXHTN ở 2 chế độ hưu trí, tử tuất họ
còn có nhu cầu tham gia BHYT tự nguyện(44,86%), chế độ tai nạn lao động
23%, dưỡng sức 24%... điều đó có nghĩa là chính sách chế độ BHXHTN đối

với người nông dân cần được tăng cường nhằm tạo ra một sản phẩm mới phù
hợp đáp ứng nhu cầu của người tham gia. [20]
1.3.4. Tăng cường chất lượng dịch vụ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông
dân
Theo TCVN và ISO-9000, thì chất lượng dịch vụ là mức phù hợp của
sản phẩm dịch vụ thoả mãn các yêu cầu đề ra hoặc định trước của người mua.
CLDV là sự tạo nên trừu tượng, khó nắm bắt bởi đặc tính riêng có của
dịch vụ, sự tiếp cận chất lượng được tạo ra trong quá trình cung cấp dịch vụ,
thường xảy ra trong sự gặp gỡ giữa khách hàng và nhân viên giao tiếp.
CLDV chính là sự thoả mãn khách hàng được xác định bởi việc so sánh
giữa chất lượng cảm nhận và chất lượng trông đợi (P&E). [30]

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

24

Chất lượng chính là các đáp ứng sự kỳ vọng của khách hàng. Vì vậy,
phải coi BHXH tự nguyện nông dân thực sự là một dịch vụ, là một dịch vụ
thể hiện ở các điểm:
- Cần có sự linh hoạt trong quan hệ đóng góp, khi người nông dân có
nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện, thay vì họ phải tìm đến cơ quan BHXH
để tìm hiểu thông tin, cách thức đóng góp thì cán bộ BHXH cần chủ động tiếp
xúc cộng đồng dân cư để có thông tin từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho người
nông dân trong việc tham gia đóng góp.
- Cần có sự linh hoạt trong việc cung cấp thông tin, tổ chức thu, chi trả
BHXH tự nguyện cho người nông dân kịp thời, đầy đủ, tận nơi, khi có phát
sinh quyền lợi BHXH
- Người tham gia BHXH tự nguyện là nông dân cho nên việc di chuyển

lao động giữa các vùng miền, các địa phương diễn ra rất thường xuyên và phổ
biến, vì vậy hệ thống BHXH tự nguyện cần có sự ứng dụng công nghệ thông
tin rất cao trong toàn hệ thống nhằm nối mạng cập nhật thông tin về nhân thân
của người lao động kịp thời nhằm tạo điều kiện cho họ được thụ hưởng quyền
lợi khi phát sinh.
Chủ thể tham gia BHXH xét về mặt quan hệ sản xuất và quan hệ lao
động là Hộ gia đình. Họ vừa là chủ tư liệu sản xuất, vừa là chủ sức lao động.
Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu là quy mô Hộ gia đình (kinh
tế hộ gia đình), hoặc làm nghề tự do, hoặc làm thuê ở khu vực phi chính thức.
Họ tự hạch toán kinh doanh và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời tự
quyết định phân phối, quyết định đầu tư và chi tiêu trong ngân sách thu - chi
gia đình hoặc nhận tiền công, tiền lương ở mức thấp. Tóm lại, họ là chủ thể
của một thực thể kinh tế - "kinh tế Hộ gia đình" hoặc tự làm và làm thuê
không có hợp đồng lao động. Từ đó, việc tham gia BHXH là hoàn toàn mang
tính cá nhân, tự nguyện. Về cơ bản, họ chưa có dịp tiếp cận và sống quen với

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

25

đời sống, môi trường BHXH. Bởi vậy, chính sách BHXH đối với họ phải gắn
liền với cuộc vận động trong nhân dân, trên cơ sở họ suy nghĩ về " tính lợi
ích" của mình khi tham gia BHXH tự nguyện. Đây là vấn đề rất mới và phức
tạp. Mọi chính sách BHXH có tính áp đặt, cưỡng chế và bất lợi (cả trước mắt
và lâu dài) cho họ đều không khả thi hoặc thất bại. Điều này đòi hỏi phải kiên
trì,mở rộng các sản phẩm dịch thông qua kênh tuyên truyền, thuyết phục, làm
từng bước, tạo cho họ quen dần với môi trường BHXH hay nói cách khác là
phải tăng cường các dịch vụ về BHXH tự nguyện để người nông dân có điều

kiện tiếp cận và tự giác tham gia.
1.3.5. Tăng cường mạng lưới làm công tác Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho
nông dân
Do đặc điểm của người nông dân sinh sống trong địa bàn nông thôn
rộng lớn, phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, việc tiếp cận được với người
nông dân chủ yếu sau giờ mà người nông dân kết thúc công việc đồng án,
thường là giờ trưa, tối cho nên để tuyên truyền vận động được người nông
dân tham gia thì một trong những điều kiện có tính chất quyết định thực hiện
sự nghiệp BHXHTN là phải xây dựng, mở rộng được hệ thống cán bộ làm
công tác BHXHTN . Điều kiện này thể hiện chủ yếu ở các mặt sau:
- Việc tổ chức thực hiện chính sách BHXHTN cho người nông dân phải
có bước đi thích hợp, không ồ ạt, tràn lan theo kiểu phong trào. Mà ngược lại,
phải thực hiện thận trọng, chặt chẽ, sau đó mới mở rộng dần từng bước cho
phù hợp.
- Bộ máy quản lý sự nghiệp BHXHTN ở các cấp, phải thật tinh gọn.
Đặc biệt là phải xây dựng hệ thống đại diện BHXHTN ở xã phường, trên cơ
sở đó phải mở rộng mạng lưới làm công tác BHXHTN từ thôn, bản, khối phố,
thông qua mạng lưới này để trực tiếp thực hiện công tác tuyên truyền vận
động, tổ chức thu, chi trả các chế độ BHXHTN cho người nông dân, khi mở

This document is created by GIRDAC PDF Creator Pro trial version
GIRDAC PDF Creator Pro full version does not add this green footer
Full version can be ordered from />

×