Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.18 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC ANH TUẤN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ DO
TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017
1


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học Xã hội

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN LINH GIANG

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Văn Long

Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn
thạc sĩ họp tại Học viện khoa học xã hội 13 giờ 00 ngày 8 tháng
10 năm 2017.


Có thể tìm hiểu luận văn tại
Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em và
mỗi dân tộc lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo riêng của
mình. Thực tế cho thấy, các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo vừa thể
hiện nhu cầu về tinh thần của nhân dân, vừa đóng góp nhiều giá trị
đạo đức, văn hóa cho xã hội. Lịch sử Việt Nam cho thấy, nhiều tín
ngưỡng, tôn giáo đã đồng hành cùng dân tộc trong các phong trào
đấu tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà nước Việt Nam luôn tôn
trọng các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, coi quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền con người, quyền công
dân căn bản cần được thúc đẩy và bảo vệ.
Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương và được xem là
một trong những thành phố năng động, đáng sống bậc nhất của Việt
Nam. Đây cũng là nơi có điều kiện thuận lợi để du nhập và phát triển
các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Trong những năm qua, các hoạt
động tôn giáo của các tổ chức tôn giáo cơ sở diễn ra ổn định, thuần
túy tôn giáo, gắn với sự phát triển chung của thành phố, tuân thủ
pháp luật và thực hiện đúng phương châm hành đạo. Tuy nhiên, xuất
phát từ vị trí kinh tế, văn hóa – xã hội đặc thù, Đà Nẵng cũng là địa
bàn trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch trong âm mưu
thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với nước ta nói chung, thành phố
nói riêng. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện pháp luật
về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cũng còn
những tồn tại, hạn chế nhất định như: Công tác phổ biến, tuyên

truyền pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo có lúc, có nơi chưa thực sự
đồng bộ, kịp thời; nhận thức của một bộ phận người dân, tổ chức tôn
3


giáo, cán bộ, công chức, viên chức vẫn còn hạn chế; các cơ quan
quản lý còn thiếu gần gũi với tín đồ và chức sắc tôn giáo, nên không
kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng chính đáng của đồng bào. Vẫn
còn tình trạng cán bộ nhà nước không nắm vững tình hình tôn giáo ở
địa bàn, chưa dựa vào tổ chức tôn giáo và chức sắc tôn giáo ở cơ sở
để giải quyết những vấn đề phát sinh có liên quan đến tôn giáo. Một
số nơi, cơ quan quản lý nhà nước chưa hiểu đầy đủ do thiếu thông tin
và thiếu tầm nhìn bao quát về chính sách tôn giáo, dẫn đến tình trạng
xử lý các vấn đề máy móc, cảm tính chủ quan. Nhiều vấn đề lẽ ra cần
phải động viên khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho chức sắc,
nhà tu hành hoạt động thì lại gây khó dễ; ngược lại có những vấn đề
cần phải chủ động giải quyết kịp thời thì bỏ mặc, tạo nên sự phức tạp
không đáng có. Trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và cán bộ
được giao theo dõi quản lý hoạt động tôn giáo nói riêng còn hạn chế,
thiếu tính hệ thống, thiếu chuyên môn nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm
trong công tác tôn giáo; công tác đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về
tôn giáo cũng chưa được chú trọng đúng mức. Còn chưa có sự thống
nhất trong cách xử lý một số vụ việc cụ thể liên quan đến tôn giáo;
công tác quản lý nhà nước hiện tập trung nhiều vào các tôn giáo đã
được Nhà nước công nhận. Việc ngăn chặn, đấu tranh với các tôn
giáo không hợp pháp và những hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật
còn bị động, tại nhiều thời điểm chưa khôn khéo, kịp thời. Tiến độ
giải quyết các thủ tục hành chính về lĩnh vực tôn giáo có lúc còn
chậm; việc phối hợp các cấp, các ngành xử lý các vấn đề nảy sinh
trong tôn giáo, liên quan đến các hoạt động đối nội, đối ngoại, kinh

tế, văn hóa, xã hội còn thiếu đồng bộ. Công tác xử lý vi phạm về hoạt
động tôn giáo trái với quy định pháp luật đang gặp khó khăn, vướng
mắc do hiện nay chưa có chế tài cụ thể, thời gian qua chỉ dừng lại
4


việc lập biên bản, giải tán...
Thực tế trên đã cho thấy, việc thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực tôn giáo, tín ngưỡng ở thành phố Đà Nẵng vẫn còn nhiều bất cập,
cần được hoàn thiện trong thời gian tới. Do vậy, tác giả chọn đề tài:
"Thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng" để làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Luật hành
chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ năm 1999 đến nay, có nhiều công trình, nhiều bài viết về tự
do tín ngưỡng, tôn giáo và ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo đối
với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chẳng hạn như bài viết"Cơ sở
lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo" của Nguyễn Ngọc Huấn,
Tạp chí Thanh tra, số 11/2015; "Hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới" của Lê Văn
Lợi, Tạp chí Quản lý nhà nước,số 4/2014; "Nhu cầu tín ngưỡng, tôn
giáo" của Nguyễn Hoài Sanh, Tạp chí Triết học,số 8/2012; "Quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn", Luận văn thạc sĩ luật học" của Nguyễn Thị Diệu
Thuý thực hiện tại cơ sở đào tạo Đại học Luật Hà Nội năm 2010…
Ở góc độ quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, có một số
Luận văn đã nghiên cứu như “Thực trạng tôn giáo và công tác quản
lý nhà nước về tôn giáo ở Cà Mau” của Vũ Bình Lương thực hiện tại
cơ sở đào tạo Đại học Chính trị năm 2003; “Công tác quản lý nhà
nước về tôn giáo ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa” của Lê Văn

Nhuần thực hiện tại cơ sở đào tạo Đại học Chính trị năm 2004);
“Nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở Quận 9, thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay” của Nguyễn Thị Kim Như thực hiện tại cơ sở đào tạo
Đại học Chính trị năm 2004); Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo
5


ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa - Thực trạng và giải pháp" của
Lê Văn Nhuần thực hiện tại cơ sở đào tạo Đại học Chính trị năm
2004; “Vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động của Đạo Công
giáo ở Ninh Bình hiện nay” của Vũ Tuệ Minh thực hiện tại cơ sở đào
tạo Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 2013…
Các công trình trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của
vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, đặt vấn đề thực hiện pháp luật về tự do
tín ngưỡng, tôn giáo ở từng lĩnh vực, từng địa phương khác nhau và
có những nhận định, đánh giá sâu sắc, cụ thể về thực trạng thực hiện
pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, từ đó có những kiến nghị, đề
xuất hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này trên thực tế.
Những thông tin từ các công trình nghiên cứu này sẽ là nguồn tư liệu
phong phú để tham khảo, chọn lọc để đưa vào Luận văn Thạc sỹ của
Tác giả lần này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề lý luận của quản lý
nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; đánh giá thực trạng và những yêu
cầu đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
ở thành phố Đà Nẵng hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về tự do
tín ngưỡng, tôn giáo: Khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo; khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp
luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nội dung, hình thức, phương pháp
6


thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các điều kiện bảo
đảm thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Phân tích quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các yếu tố đặc thù của
thành phố Đà Nẵng có ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật về tự
do tín ngưỡng, tôn giáo; đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về tự
do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng, trong đó chỉ ra được
những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế trong thực hiện
pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng, từ đó
nêu rõ nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các tôn giáo đang hoạt động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
và việc thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở thành phố
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Trong phạm vi của Luận văn, tác giả nghiên
cứu và đề cập đến vấn đề thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo.
- Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
- Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu chủ yếu trong giai

đoạn từ khi có Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa IX về Công tác tôn giáo từ
năm 2003 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của
7


chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng về Nhà nước và Pháp luật về tự do tín ngưỡng về tôn giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên cơ sở đó,
tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp thống kê, so sánh;
- Phương pháp tiếp cận hệ thống;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm;
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của Luận văn
- Kết quả của Luận văn góp phần củng cố hệ thống lý luận về
thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như vấn đề về
khái niệm, đặc điểm, tính chất của các quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; nội dung, hình thức, phương pháp thực hiện pháp
luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các điều kiện bảo đảm thực hiện
pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
- Luận văn nêu, phân tích quan điểm, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các yếu

tố đặc thù của thành phố Đà Nẵng có ảnh hưởng tới thực hiện pháp
luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đánh giá về thực tiễn thực hiện
pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng, trong
đó chỉ ra được những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế trong thực
hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng,
từ đó nêu rõ nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục.
8


6.1. Ý nghĩa và thực tiễn của Luận văn
- Những đề xuất của Luận văn là luận cứ khoa học cho việc
ứng dụng trong thực tiễn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích
cho công tác nghiên cứu cũng như công tác tổng kết thực tiễn, hoạch
định chính sách và pháp luật về quản lý nhà nước về tôn giáo nói
chung và ở thành phố Đà Nẵng nói riêng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, dự
kiến Luận văn được cấu trúc gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về tự
do tín ngưỡng, tôn giáo
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng,
tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Quan điểm và giải pháp tăng cường thực hiện pháp
luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền tự do tín

ngƣỡng, tôn giáo
1.1.1. Khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Theo Từ điển Luật học (Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp Nhà Xuất bản Tư pháp, Nhà Xuất bản từ điển Bách khoa), “quyền” là
khái niệm khoa học pháp lí, dùng để chỉ những điều mà pháp luật
9


công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó
cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn
cản, hạn chế.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử
nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng động người trong
lịch sử hàng ngàn năm qua. Về cơ bản, bất cứ tôn giáo nào, với hình
thái phát triển đầy đủ của nó cũng đều bao gồm hai bộ phận cấu
thành là ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng
liêng cùng những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo
với những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự
nhiên và lịch sử cụ thể, xác định.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo là quyền được theo đuổi, thực hiện các hành vi tín ngưỡng,
tôn giáo của cá nhân, cộng đồng một cách tự do. Quyền này cũng bao
hàm cả ý nghĩa tự do thay đổi, theo hoặc không theo một tín ngưỡng,
tôn giáo nào đó.
1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Thứ nhất, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền dân sự
gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao cho chủ thể khác và
không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự giữa các cá
nhân.Thứ hai, mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.Thứ ba, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền

mang tính chất phi tài sản, theo đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
không phải là tài sản và không định giá được thành tiền.Thứ tư,
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền dân sự, thường được ghi
nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành.
Thứ nhất, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà nước tôn
10


trọng, bảo đảm và thực hiện nhằm xóa bỏ mọi sự phân biệt tín
ngưỡng, tôn giáo; các tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật; mọi hành vi vi phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều
bị xử lý theo quy định của pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ của
hành vi. Thứ hai, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà nước bảo
đảm thực hiện theo quy định của pháp luật. Thứ ba, Nhà nước không
ngừng giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tôn giáo phát triển.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật
về tự do tín ngƣỡng, tôn giáo
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng,
tôn giáo
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng cụ thể [17, tr.18]
Pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được hiểu là
tổng thể các quy định của pháp luật (quy phạm pháp luật) do Nhà
nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền được thực
hiện các hành vi tôn giáo, theo đuổi tín ngưỡng của một cá nhân một cách tự
do đi theo đúng mục tiêu, định hướng của Nhà nước đặt ra.
1.2.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
là nghĩa vụ của tất cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân; mọi cơ quan, tổ

chức, cá nhân trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của
pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
11


được tiến hành thông qua nhiều hình thức, quy trình khác nhau như tuân
thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật
về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
1.2.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng,
tôn giáo
Thứ nhất, giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận thức đúng
đắn, đầy đủ hơn về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Về
nguyên tắc, để thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì
trước hết các chủ thể pháp luật phải nhận thức đúng đắn, hiểu biết đầy
đủ về các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Thứ hai, thực hiện
pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo sẽ giúp các chủ thể hiểu rõ bản
chất, tầm quan trọng của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và vai trò, ý
nghĩa của việc thực hiện các quyền này. Thứ ba, từ sự nhận thức, hiểu
biết về vai trò, ý nghĩa cũng như các quy định của pháp luật về tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, các chủ thể sẽ chủ động, tích cực hơn trong việc
tuân thủ, thi hành, chấp hành và sử dụng pháp luật để bảo vệ các lợi
ích của Nhà nước, cộng đồng và các quyền, lợi ích hợp pháp của
người dân.Thứ tư, khi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo
đảm thì quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
cũng được bảo đảm.Thứ năm, thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo là động lực, công cụ để xác định định hướng hoàn thiện hệ thống pháp

luật.
1.3. Nội dung, hình thức, phƣơng pháp thực hiện pháp luật về tự
do tín ngƣỡng, tôn giáo
1.3.1. Nội dung thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm đến vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; khẳng định tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Quyền tự do tín
12


ngưỡng, tôn giáo của nhân dân đã được thể hiện rõ trong các Hiến pháp của
Việt Nam qua các thời kỳ (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013).
Như vậy, Hiến pháp và Luật tín ngưỡng, tôn giáo là những văn
bản quy phạm pháp luật quan trọng, chủ yếu, điều chỉnh trực tiếp
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay cũng như quy
định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ trong việc tổ chức
thực hiện các chính sách tôn giáo.
Nội dung thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
chính là việc tuân thủ, thi hành, áp dụng và sử dụng các quy định của
Hiến pháp, Luật tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan trong thực tiễn, nhằm đưa các quy định này đi vào cuộc sống.
1.3.2. Hình thức thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo
Việc thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được
thể hiện thông qua bốn hình thức là tuân thủ pháp luật, thi hành pháp
luật, áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật. Thứ nhất, tuân thủ
pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là hình thức thực hiện
pháp luật trong đó các chủ thể kiềm chế, giữ mình để không thực
hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Thứ hai, thi hành pháp luật về
tự do tín ngưỡng, tôn giáo (chấp hành pháp luật): Là hình thức thực

hiện pháp luật trong đó các chủ thể thực hiện các nghĩa vụ pháp lý
của mình bằng hành động tích cực. Thứ ba, áp dụng pháp luật về tự
do tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ tư, sử dụng pháp luật về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ
thể thực hiện quyền chủ thể của mình, tức là thực hiện những hành vi
mà pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho phép.
1.3.3. Phương thức thực hiện
1.3.1.1. Ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi
13


1.3.1.2. Tuyên truyền, phổ biến về Luật tín ngưỡng, tôn giáo
1.3.1.3. Các điều kiện đảm bảo thi hành Luật
1.3.1.4. Tác động chính sách của Luật đến người dân, xã hội
1.3.4. Chủ Thể và tổ chức thực Hiện Pháp Luật về tự do tín
ngưỡng tôn giáo
1.3.5. Chủ Thể tổ chức Thực hiện Pháp Luật về tự do tín
ngưỡng tôn giáo
1.4. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về tự do tín
ngƣỡng, tôn giáo
1.4.1. Điều kiện chính trị
Điều kiện chính trị được bảo đảm ở mức độ cao thì sẽ góp
phần thúc đẩy sự phát triển của tín ngưỡng, tôn giáo theo chiều
hướng ổn định, gắn với mục tiêu, định hướng của Đảng và Nhà nước
đề ra.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo đặt trong mối quan hệ với điều kiện
chính trị luôn được xem là vấn đề phức tạp và tương đối nhạy cảm.
1.4.2. Điều kiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là hoạt động có ý nghĩa, quyết định hiệu lực,
hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Những phản

hồi của xã hội trong quá trình thực hiện pháp luật chính là thước đo hiệu
quả công tác xây dựng pháp luật, giúp cho việc phát hiện kịp thời những
tồn tại, hạn chế và những vấn đề mới phát sinh nhằm có giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật và nâng cao chất lượng công tác xây
dựng pháp luật.
Đặc biệt, pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo muốn phát
huy được vai trò, giá trị trong quá trình thực hiện thì phải bảo đảm
tính khả thi; nếu không khả thi thì pháp luật sẽ không thực hiện được
và sẽ không đi vào cuộc sống.
14


1.4.3. Điều kiện về kinh tế - xã hội
Thứ nhất, điều kiện kinh tế - xã hội có ảnh hưởng rất quan
trọng đến lợi ích và do đó, tác động đến tư tưởng, quan điểm, thái độ,
niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với pháp luật về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Thứ hai, cơ chế kinh tế cũng có ảnh hưởng tới hoạt động thực
hiện pháp luật. Cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây đã tạo ra
tâm lý thụ động, ỷ lại; do đó, nhận thức pháp luật và hoạt động thực
hiện pháp luật thường mang tính phiến diện, một chiều theo kiểu mệnh
lệnh – chấp hành mệnh lệnh.
Thứ ba, việc thực hiện các chính sách xã hội, đảm bảo các
nguyên tắc của công bằng xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với việc thực hiện pháp luật.
1.4.4. Điều kiện về tổ chức thực hiện (tổ chức bộ máy, biên
chế, cán bộ, nguồn lực tài chính…)
Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi Nghị định số
92/2012/NĐ-CP được ban hành, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ
trung ương tới địa phương đã tổ chức triển khai, thực hiện tốt các chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
tín ngưỡng, tôn giáo. Qua 05 năm thực hiện Nghị định số
92/2012/NĐ-CP của Chính phủ, các ngành, các cấp đã có nhiều nỗ
lực và đạt được một số kết quả quan trọng..
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ DO TÍN
NGƢỠNG, TÔN GIÁO TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nƣớc Việt Nam về tự do tín ngƣỡng, tôn giáo
15


2.1.1. Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam
được xây dựng một mặt dựa trên quan điểm cơ bản của học thuyết MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác căn cứ
vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Thứ nhất, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của
pháp luật.Thứ hai, chủ động phòng ngừa với những hành vi lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân
tộc. Thứ ba,tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các
tôn giáo. Thứ tư, động viên các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp
đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.Thứ năm, quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn
giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã
được nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Thứ sáu,
tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù
hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước.
2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về tự do

tín ngưỡng, tôn giáo
- Về chủ thể thực hiện quyền tín ngưỡng, tôn giáo
Cụ thể hóa quy định tại Điều 24 Hiến pháp năm 2013 "Mọi
người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào", Luật quy định chủ thể thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là mọi người (khoản 1 Điều 6).
- Về hoạt động tín ngưỡng
Hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng khi thực hiện phải
đảm bảo nguyên tắc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
16


thống tốt đẹp của dân tộc; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
tiết kiệm, bảo vệ môi trường.
- Về tổ chức tôn giáo
Một trong những điều kiện tiên quyết để một tổ chức được
công nhận là tổ chức tôn giáo đó là tổ chức phải hoạt động tôn giáo
ổn định, liên tục từ đủ 05 năm trở lên kể từ ngày được cấp chứng
nhận đăng ký hoạt động tôn giáo.
2.2. Các yếu tố đặc thù của thành phố Đà Nẵng có ảnh
hƣởng tới thực hiện pháp luật về tự do tín ngƣỡng, tôn giáo
2.2.1. Khái quát về thành phố Đà Nẵng
Trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước, Đà Nẵng tiếp
tục phát huy truyền thống cách mạng, năng động, sáng tạo, xây dựng
thành phố phát triển khá trên nhiều mặt, trở thành một thành phố
cảng biển lớn, là đô thị trung tâm cấp quốc gia, là một trong những
trọng điểm phát triển của đất nước, góp phần quan trọng thúc đẩy các
tỉnh khác trong khu vực phát triển và trở thành trung tâm kinh tế - xã
hội của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên” [12].
2.2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

Thành phố Đà Nẵng có diện tích tự nhiên là 1.283,42 km2;
trong đó, các quận nội thành chiếm diện tích 241,51 km2, các huyện
ngoại thành chiếm diện tích 1.041,91 km2. Thành phố Đà Nẵng gồm
vùng đất liền và vùng quần đảo trên biển Đông. Vùng đất liền nằm ở
15055' đến 16014' vĩ độ Bắc, 107018' đến 108020' kinh độ Đông,
Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam,
Đông giáp Biển Đông. Nằm ngay trên một trong những tuyến đường
biển và đường hàng không quốc tế, thành phố Đà Nẵng có một vị trí
địa lý đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững.
2.2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
17


Với vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên như đã nêu ở trên, Đà
Nẵng có những ưu thế nhất định về kinh tế - xã hội. Cụ thể:
* Về vị trí chiến lược
* Về cơ sở hạ tầng
* Về kinh tế và du lịch
* Về nguồn nhân lực
* Về môi trường đầu tư
2.2.1.3. Đặc điểm về văn hóa
Đây là những yếu tố văn hóa lịch sử hình thành nên đặc thù
trong tín ngưỡng, tôn giáo của thành phố Đà Nẵng.
2.2.2. Tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tại thành
phố Đà Nẵng
Đến năm 2016, trên địa bàn Thành phố có 11 tổ chức tôn giáo
được Nhà nước công nhận (Phật giáo, Công giáo, Hội thánh Tin lành
Việt Nam (miền Nam), Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam, Giáo hội
Cơ đốc phục lâm Việt Nam, Hội thánh Bắp tít Việt Nam (Nam
Phương), Hội thánh Truyền giáo Cao đài, Họ đạo Cao đài Hòa Phong

– Cao đài Tây Ninh, Cộng đồng tôn giáo Baha’I, Giáo hội Phật
đường Nam tông Minh sư đạo, Pháp tạng Phật giáo Việt Nam).
2.2.3. Bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng
Thời kỳ 2008 đến nay, thực hiện Nghị định số 13/2008/NĐ-CP
ngày 04/02/2008 của Chính phủ về việc Quy định tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, UBND thành phố Đà Nẵng ban hành Quyết định
5791/QĐ-UBND ngày 18/7/2008 về việc thành lập Ban Tôn giáo
thành phố Đà Nẵng. Tại Điều 1 nêu rõ: “Ban Tôn giáo thành phố Đà
Nẵng là đơn vị trực thuộc Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng. Ban Tôn
18


giáo thành phố Đà Nẵng là cơ quan chuyên môn (tương đương Chi
cục) có chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở Nội vụ tổ chức thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương. Ban Tôn
giáo thành phố Đà Nẵng chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Giám
đốc Sở Nội vụ, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về
chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Tôn giáo Chính phủ”.
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về tự do tín ngƣỡng, tôn
giáo tại thành phố Đà Nẵng
2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân
2.3.1.1. Công tác xây dựng và ban hành văn bản để thực hiện
pháp luật về tôn giáo ở thành phố Đà Nẵng
Để đưa quy định của pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo đi
vào đời sống, đồng thời đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng
của công dân thành phố trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, Ủy ban
nhân dân thành phố Đà Nẵng và Ủy ban nhân dân các quận, huyện đã
xây dựng, ban hành nhiều văn bản nhằm tổ chức thực hiện pháp luật

về tín ngưỡng, tôn giáo, phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế tại
địa phương
2.3.1.2. Công tác quán triệt, phổ biến, tuyên truyền pháp luật
về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Để triển khai thi hành pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
UBND thành phố Đà Nẵng đã chỉ đạo chặt chẽ các sở, ban, ngành,
đoàn thể; các quận, huyện xây dựng kế hoạch và tổ chức tuyên
truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về công tác tôn giáo, đặc biệt là quy định của Pháp lệnh
Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005
của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo. Đối tượng phổ biến là cán bộ, công chức các cơ
19


quan từ tỉnh, huyện, đến cơ sở và quần chúng nhân dân, chức sắc nhà
tu hành, tín đồ các tôn giáo trên địa bàn Thành phố.
2.3.1.3. Công tác quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên
địa bàn
* Công tác quản lý hoạt động tín ngưỡng
* Công tác quản lý hoạt động tôn giáo
2.3.1.4. Công tác xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo
Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, chính quyền
thành phố Đà Nẵng đã kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các
hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo xảy ra trên địa bàn,
qua đó góp phần duy trì trật tự xã hội, bảo đảm cho các quan hệ xã
hội về tín ngưỡng, tôn giáo phát triển theo đúng định hướng, mục tiêu
mà Nhà nước đặt ra.
2.3.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

* Việc tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về tự
do tín ngưỡng, tôn giáo tuy đã được triển khai sâu rộng trong hệ
thống chính trị, hệ thống chức sắc, chức việc các tôn giáo, tuy nhiên
còn có không ít cấp ủy và chính quyền cơ sở vẫn còn xem nhẹ, chưa
xác định được đây là nhiệm vụ chính trị lâu dài, chưa nhận thức đầy
đủ về tính nhạy cảm, phức tạp và các mối quan hệ quốc tế khác liên
quan; có nơi còn máy móc, tâm lý còn ngại tiếp xúc với chức sắc tôn
giáo; có nơi quản lý tốt nhưng cũng có nơi còn buông lỏng, thả nổi,
gây phức tạp cho công tác quản lý và xử lý, nhất là ở cấp phường, xã.
* Một số hình thức tín ngưỡng mới, hiện tượng tôn giáo phản
văn hóa cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị văn hóa tín ngưỡng
truyền thống, nhiều tổ chức cá nhân đã lợi dụng hoạt động tín ngưỡng
để thương mại hóa, hành nghề mê tín dị đoan, đan xen với các hoạt
20


động tín ngưỡng lành mạnh để trục lợi cá nhân làm ảnh hưởng không
nhỏ đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
* Vẫn còn tình trạng hoạt động tôn giáo trái pháp luật; một số
tổ chức tôn giáo hợp pháp có những hoạt động ngoài cơ sở thờ tự, tổ
chức truyền đạo, sinh hoạt trái pháp luật.
* Tình trạng khiếu kiện, tranh chấp về đất đai, cơ sở thờ tự vẫn
còn xảy ra, chưa được giải quyết một cách triệt để.
* Việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về tự
do tín ngưỡng, tôn giáo có lúc còn chưa kịp thời, lúng túng trong việc
xác định căn cứ và chế tài xử lý hoặc xử lý một cách cứng nhắc, thiếu
thận trọng, chưa linh hoạt.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ một số nguyên
nhân sau đây:
* Quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đã bộc lộ

nhiều bất cập, vướng mắc, đặc biệt là quy định của Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo.
* Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức, của các tổ
chức tôn giáo, tín đồ tôn giáo và của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan về vai trò của tự do tín ngưỡng, tôn giáo và các quy định
của pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn hạn chế.
* Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo còn hạn
chế về số lượng và chất lượng; hầu hết đều không được đào tạo
chuyên sâu về công tác tôn giáo; một bộ phận cán bộ, công chức
chưa qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tôn giáo, chưa có kinh
nghiệm nên công tác tham mưu, đề xuất giải quyết, xử lý một số vụ
việc chưa hiệu quả.
* Việc tranh thủ vai trò của các chức sắc, chức việc còn hạn
chế, lãnh đạo chính quyền một số nơi còn e ngại, chưa tự tin khi tiếp
21


xúc với chức sắc, chức việc, dẫn đến chưa phát huy đầy đủ, mạnh mẽ
vai trò của các chủ thể này trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về tự do, tín ngưỡng trên địa bàn.
* Kinh phí tổ chức triển khai, thi hành các văn bản quy phạm
pháp luật còn hạn chế. Kinh phí để triển khai, tuyền truyền các văn
bản quy phạm pháp luật cho đội ngũ cán bộ làm tôn giáo, chức sắc
các tôn giáo đều do địa phương chủ động tự cân đối.
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. Dự báo tình hình
- Các thế lực thù địch tiếp tục triển khai chiến lược “diễn biến

hòa bình” để chống phá cách mạng, tiếp tục sử dụng chiêu bài “tự do
tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”; hỗ trợ vật chất cho một số phản
động, cực đoan trong nước để tập hợp lực lượng, gây rối an ninh,
biểu tình chống Đảng và Nhà nước ta.
- Tình trạng mâu thuẫn nội bộ các tôn giáo tiếp tục xảy ra, hiện
tượng tranh giành tín đồ, hoạt động lấn lướt chính quyền, yêu sách,
tạo sự đã rồi, tạo cớ cho bên ngoài can thiệp, gây sức ép.
- Các “hiện tượng tôn giáo mới”, “tà đạo”, đạo lạ diễn biến
phức tạp, gây mất an ninh trật tự diễn ra trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng, chưa có cơ sở pháp lý để đấu tranh, xử lý triệt để.
- Theo thống kê, ở Việt Nam hiện có khoảng 60 hiện tượng tín
ngưỡng, tôn giáo mới, du nhập từ nước ngoài hoặc nội sinh (thực chất là
các tổ chức tín ngưỡng mang màu sắc tôn giáo). Một số hiện tượng tín
ngưỡng đang hình thành tổ chức, tiến tới đăng ký hoạt động tôn giáo
22


mới.
- Tình trạng lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, dân
chủ, nhân quyền, nhiều hiện tượng tín ngưỡng mang màu sắc tôn
giáo phát triển mạnh, kéo theo số lượng tín đồ với nhiều hoạt động
phức tạp…
- Mặc dù số lượng tín đồ tôn giáo là người dân tộc thiểu số trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng là tương đối ít, tuy nhiên, đây lại là đối
tượng dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để lôi kéo, dụ dỗ, mua
chuộc, kích động để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
3.2. Quan điểm tăng cƣờng thực hiện pháp luật về tự do tín
ngƣỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Một là, pháp luật phải được nhận thức và thực hiện thống nhất
trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và ở tất cả các ngành, các lĩnh vực,

trong đó có lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, mọi chủ thể đều có nghĩa vụ phải chấp hành pháp luật về
tự do tín ngưỡng, tôn gián, bình đẳng trước pháp luật.
Ba là, giải quyết vấn đề tôn giáo phải dựa trên yêu cầu, nhiệm
vụ chính trị là chính; phải vận dụng đường lối của Đảng về vấn đề
dân tộc, tôn giáo, quốc tế một cách sáng tạo trong khi áp dụng các
biện pháp pháp luật.
Bốn là, gắn kết giữa công tác xây dựng pháp luật và thực hiện
pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm pháp luật về tự do
tín ngưỡng, tôn giáo được triển khai có hiệu quả trong thực tiễn và
kết quả của việc thực hiện pháp luật sẽ góp phần cho việc xây dựng,
hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Năm là, coi trọng công tác vận động quần chúng, tôn trọng đức
tin và vấn đề sinh hoạt tôn giáo hợp pháp của công dân trong quá
trình thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3.3. Giải pháp tăng cƣờng thực hiện pháp luật về tự do tín
23


ngƣỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
3.3.1. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ
thống pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế cũng như phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của
Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng
Xây dựng pháp luật là bước khởi đầu để tạo ra sản phẩm là
pháp luật. Sau khi tạo ra pháp luật thì cần phải tổ chức thực hiện
pháp luật, nhằm đưa pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống. Hiệu quả
của hoạt động xây dựng pháp luật, chất lượng của văn bản quy phạm
pháp luật sẽ tác động đến hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật.
Chất lượng hệ thống pháp luật được nâng cao sẽ tạo điều kiện cho

các chủ thể thực hiện pháp luật có thể tuân thủ pháp luật một cách dễ
dàng và nhanh chóng. Một hệ thống pháp luật có chất lượng thì phải
đảm bảo tính ổn định, đồng bộ, thống nhất, đặc biệt là tính khả khi.
3.3.2. Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật
nhằm nâng cao ý thức thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân sẽ không thể thực hiện pháp luật về
tự do, tín ngưỡng, tôn giáo một cách nghiêm túc, đúng đắn nếu thiếu
kiến thức, hiểu biết pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nếu đa số
người dân có một trình độ hiểu biết nhất định về pháp luật thì họ sẽ tích
cực tham gia các sự kiện pháp lý đang diễn ra dựa trên các chuẩn mực
pháp luật từ đó sẽ thực hiện pháp luật đúng đắn, hợp lý.
3.3.3. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức
năng trong hoạt động thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo.
- Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp của thành phố
Đà Nẵng, các Ban, ngành của Hội đồng nhân dân, các cơ quan
chuyên môn của Ủy ban nhân dân phải nghiêm chỉnh thực hiện các
24


quy phạm pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, giữ đúng vị trí, vai
trò, chức năng và nhiệm vụ của mình, tích cực tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Các cơ quan chức năng cần phát hiện và xử lý nghiêm minh
các hành vi vi phạm pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, góp
phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với pháp luật.
- Bản thân mỗi cán bộ, công chức của thành phố Đà Nẵng phải
luôn luôn gương mẫu trong việc thực hiện pháp luật; thường xuyên học

tập, nâng cao trình độ hiểu biết về văn hóa, pháp luật; nâng cao trình độ
học vấn, năng lực chuyên môn nghiệp vụ
3.3.4. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nƣớc về hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo
Thứ nhất, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác
quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo của thành phố Đà Nẵng.
Thứ hai, về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo
đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về tôn giáo và công tác tôn
giáo. Thứ ba, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, tổ
chức liên quan trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ tư,
nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Công
tác thanh tra, kiểm tra cần bám sát những nhiệm vụ trọng tâm của cấp ủy,
chính quyền, tránh chồng chéo, trùng lặp. Thứ năm, tăng cường, bố trí
kinh phí đầy đủ, kịp thời, bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật,
trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho việc thực hiện công tác quản lý nhà
nước về tôn giáo. Thứ sáu, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công
nhận theo quy định của pháp luật. Thứ bảy, chú trọng công tác đối ngoại
tôn giáo. Theo đó, cần nghiên cứu, xem xét mở rộng mặt trận đối ngoại
25


×