Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Chạy cự lý trung bình, việt dã và trò chới vận động dành cho hệ cao đẳng chính quy chuyên ngành sinh – giáo dục thể chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.74 KB, 45 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT & QUỐC PHÒNG

GIÁO TRÌNH
(Lƣu hành nội bộ)

CHẠY CỰ LY TRUNG BÌNH, VIỆT DÃ VÀ
TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG
(Dành cho hệ Cao đẳng chính quy chuyên ngành Sinh – Giáo dục thể chất)

Tác giả: Nguyễn Anh Tuấn

Năm 2015


PHẦN I. CHẠY CỰ LY TRUNG BÌNH VÀ VIỆT DÃ
I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN, Ý NGHĨA, TÁC DỤNG CỦA CHẠY CỰ LY
TRUNG BÌNH VÀ VIỆT DÃ
1. Lịch sử phát triển
Trong điền kinh, các cự ly từ 500 đến 2000m được gọi là cự ly trung bình.
Như vậy, có rất nhiều cự ly thuộc CLTB nhưng trong các cuộc thi lớn người ta chỉ
chọn 2 cự ly chính là 800m và 1500m để thi đấu và công nhận kỉ lục.
Khi chạy các cự ly từ 500m trở lên, trong các điều kiện tự nhiên (đường, địa
hình thời tiết), người ta gọi đó là chạy việt dã. Cũng có người gọi CVD là chạy
"băng đồng", vì người ta phải vượt qua những cánh đồng bất chấp có đường hay
không, bất chấp gồ ghề, mấp mô, khúc khuỷu, bất chấp đồng khô hay ngập nước…
Chạy CLTB và CVD có lịch sử phát triển rất lâu và có thể nói rằng các loại
chạy này được tổ chức thi đấu sớm hơn so với các cự ly khác. Theo các nhà nghiên
cứu, điền kinh hiện đại được phát triển sớm nhất ở nước Anh, mà môn chạy dai
sức được tổ chức thi sớm nhất. ngay từ năm 1837, HS trường Cao đẳng của thành
phố Rebi đã tổ chức thi chạy gần 2km. Sau đó các cự ly chạy khác được bổ sung


thêm trong các cuộc thi tiếp theo.
Tại các đại hội Olimpic ở CLTB người ta cũng chỉ chọn cho thi 2 cự ly 800m,
1500m.
Kỉ lục quốc gia ở chạy CLTB của Việt Nam:
So với nhiều môn Điền kinh và các môn thể thao khác, việc đào tạo các VĐV
chạy CLTB ở nước ta khá thuận tiện. Nhiều tỉnh thành, ngành gặp khó khăn trong
đào tạo VĐV các môn khác, nhưng đào tạo các VĐV chạy CLTB khá dễ dàng; bởi
vậy thi đấu chạy CLTB thường có đông VĐV tham gia nhất. Tuy nhiên, kỉ lục
quốc gia của Việt Nam so với kỉ lục của khu vực và thế giới vẫn còn có khoảng
cách khó vượt. Chỉ lấy ví dụ: Kỉ lục thế giới và Châu á ở chạy 1500m nữ là
3'50"46; của Sea Games là 2'03"75 nhưng của Việt Nam là 2'06"81. Để đuổi kịp
khu vực, châu Á… các VĐV, HLV còn phải hao tổn nhiều tâm trí, sức lực; Nhà
nước và nhân dân còn phải đầu tư nhiều tiền của.
Đặc biệt từ năm 1959, hàng năm nước ta có Giải Việt dã Báo Tiền Phong.
Đây là một giải lớn thu hút nhiều VĐV của cả nước tham gia. Cũng từ giải này,
nhiều tài năng được phát hiện, tôi luyện và bước đầu cũng đã mang lại vinh dự cho
Tổ quốc trong thi đấu quốc tế.
Kỉ lục Việt Nam chạy CLTB tính đến năm 2007
Cự ly Thành tích
Người lập kỉ lục
Ngày lập
Địa điểm
800m
1'49"86
Phan Văn Hoá (Quảng Trị) 11-12-1995
Chiang
Mai
1500m
3'45"31
Nguyễn Đình Cương

12-2007
800m
2'02"39
Trương Thanh Hằng
12-2007
Seagames
24
1500m
4'11"60
Trương Thanh Hằng
12-2007
2. Ý nghĩa và tác dụng của chạy cự ly trung bình và chạy việt dã
Chạy CLTB
Đặc điểm của chạy CLTB là chạy với tốc độ dưới cực đại. Người chạy thực
hiện tốc độ tương đối cao trong thời gian tương đối dài (2 - 5 phút). Quá trình chạy
2


xảy ra hiện tượng nợ oxy, kết thúc cự ly chạy có thể nợ oxy từ 20 - 25lít; lượng
axit lactic trong máu tăng lên đáng kể 200 - 270mg, cuối cự ly chạy nhu cầu oxy
đạt cực đại.
Chính vì vậy mà người chạy ở giai đoạn cuối cự ly thường chịu sự căng thẳng
của thần kinh, sự mệt mỏi rã rời của cơ bắp… nếu không có ý chí rất dễ chuyển
sang đi bộ hoặc chạy quá chậm ảnh hưởng đến thành tích chạy thậm chí bỏ cuộc.
Để đạt thành tích cao trong chạy CLTB ngoài việc có kỹ thuật chạy hợp lý,
có mối quan hệ giữa độ dài và tần số bước chạy phù hợp theo nguyên lý kỹ thuật
người chạy cần có trình độ thể lực nhất định để duy trì được kỹ thuật chạy cần thiết
và duy trì tần số và độ dài bước thích hợp đã nêu trên trong suốt quá trình chạy trên
cự ly, thậm chí khi gần về đích, khi cơ thể đã rất mệt mỏi lại còn phải tăng tốc độ.
Chính vì vậy, đối với người chạy CLTB cần có sức bền chung và sức bền chuyên

môn tốt. Sức bền chung giúp cho người tập hoàn thành được nhiệm vụ từng buổi
tập trong quá trình luyện tập, nó cũng là cơ sở để phát triển sức bền tốc độ (với
chạy CLTB sức bền tốc độ đồng nghĩa với sức bền chuyên môn). Sức bền tốc độ
tốt cho phép người chạy có tốc độ trung bình trên toàn cự ly cao. Nếu các nam
VĐV cấp 3 chạy 1500m chỉ có tốc độ trung bình 4,8m/s trên toàn cự ly, thì con số
đó ở các VĐV kiện tướng là 6m/s. ở chạy CLTB, yếu tố chủ yếu gây mệt mỏi, làm
giảm thành tích chạy là những biến đổi của môi trường bên trong cơ thể như tăng
lượng axit lactic và dioxit cacbon trong máu… Quá trình tập luyện chính là quá
trình rèn luyện, phát triển nhiều mặt cho người tập, trong đó có việc giúp cho cơ
thể quen dần và chịu đựng được mệt mỏi, dễ dàng vượt qua trạng thái "cực điểm"
duy trì được tốc độ trung bình cao hoặc thực hiện được các phương án chiến thuật
trong thi đấu…
Do phải chạy trong thời gian dài, năng lượng cho cơ thể hoạt động chỉ tiêu
hao mà không được bù đắp đầy đủ, kịp thời, cho nên yếu tố tiết kiệm năng lượng
trong khi chạy cũng giúp cho VĐV có thành tích chạy tốt. Nói cụ thể hơn nếu kỹ
thuật chạy hợp lí được củng cố thành định hình, tự động hoá sẽ giúp cho VĐV
chạy vẫn đạt tốc độ cần thiết nhưng sự tiêu hao năng lượng của cơ thể lại ít, do vậy
VĐV đủ sức chạy hết cự ly với tốc độ cao, thậm chí còn có thể tăng tốc khi rút về
đích. Trong đó yếu tố thở sâu, thở tích cực để cung cấp đủ oxy, đặc biệt là luân
phiên dùng sức và thả lỏng cơ bắp (nhất là các cơ tham gia động tác đạp sau và
chống trước) cũng là cách để duy trì khả năng chạy với tốc độ cao trên cự ly tốt
hơn.
Ngoài ra, tập chạy CLTB còn rèn luyện cho người tập cảm giác tốc độ. Có
cảm giác tốc độ tốc nghĩa là tuy không dùng đồng hồ để theo dõi hoặc không có
người theo dõi giúp và thông báo kịp thời nhưng người chạy vẫn biết được khá
chính xác rằng mình (hoặc đối thủ của mình) đang chạy với tốc độ nào để chủ
động chạy theo tốc độ cũ hoặc tăng hoặc giảm tốc độ đảm bảo thực hiện đúng
phương án, chiến thuật đã vạch ra. Việc không chủ động được tốc độ chạy sẽ dẫn
tới việc không đủ sức để về đích với thành tích thấp trong khi cơ thể vẫn dồi dào
sức lực.


3


CVD có những chỉ số đặc trưng, khi chạy nhu cầu oxy của cơ thể tăng cao (4
- 5lít) và được thoã mãn trong quá trình chạy nhờ nâng cao tần số hô hấp, giữa tần
số hô hấp và tần số chạy trong chạy CLD, CVD có mối quan hệ rõ rệt.
Tốc độ chạy không cao trên toàn cự ly chạy. Người chạy phải vận động từ
một vài chục phút đến vài giờ, do đó đòi hỏi VĐV phải có ý chí cao, sức chịu đựng
rất lớn và có độ bền bỉ dẻo dai. Nói cách khác VĐV ở môn này thường có hệ hô
hấp, tuần hoàn tốt cùng với khả năng hoạt động bền bỉ của cơ bắp.
Nhìn chung ý nghĩa, tác dụng của CVD cũng như ở chạy CLTB; tuy nhiên do
tập luyện và thi đấu CVD thường ở các cự ly dài hơn, lại luôn gắn với các điều
kiện môi trường tự nhiên, hấp dẫn người tập hơn, tác dụng rèn luyện cũng hơn và ý
nghĩa thực dụng cũng hơn. Người ta tập CVD không chỉ vì sức khoẻ hoặc để thi
đấu, mà còn để rèn luyện thể lực, làm cơ sở cho việc đạt thành tích tập luyện và thi
đấu cao của VĐV hầu hết các môn thể thao khác.
Tập luyện và thi đấu ở chạy CLTB và CVD ngoài việc phải đáp ứng được các
yêu cầu chuyên môn, người tập còn phải có lòng dũng cảm kiên cường, trước hết
phải chiến thắng bản thân.
II. KỸ THUẬT CHẠY CỰ LY TRUNG BÌNH VÀ CHẠY VIỆT DÃ
1. Kỹ thuật chạy cự ly trung bình
Kỹ thuật chạy CLTB được chia thành các giai đoạn sau: xuất phát và tăng
tốc độ sau xuất phát, chạy giữa quãng và về đích. Do thành tích chạy một cự ly
được quyết định bởi thành tích đoạn chạy giữa quãng nên kỹ thuật của các giai
đoạn khác ít được chú ý.
1.1. Xuất phát và tăng tốc độ sau xuất phát
Trong chạy CLTB thường chỉ dùng kỹ thuật xuất phát cao có 2 điểm chống:
Khi có lệnh "Vào chỗ", từ phía sau VĐV tiến lên đặt chân thuận (khoẻ) sát phía
sau vạch xuất phát, chân kia chống phía sau, thân trên hơi ngã về trước, khuỵu gối.

Tiếp đó là tăng tốc độ ngã thân trên về trước và hạ thấp trọng tâm hơn nhưng
không làm mất thăng bằng dẫn tới phạm quy. Tay để so le với chân, mắt nhìn
thẳng, đầu hơi cúi. Khác với xuất phát ở chạy cự ly ngắn, sau khi được lệnh "vào
chỗ", người chạy phải về tư thế sẵn sàng để tiếp đó là nhận lệnh "xuất phát" ngay
(không có dự lệnh "sẵn sàng" như ở CCLN).
Khi súng phát lệnh nổ (hoặc có lệnh "chạy") thì lập tức xuất phát. Sau xuất
phát phải chú ý tăng tốc độ ngay. Độ ngã của thân trên tuỳ thuộc vào tốc độ chạy.
Khi đạt được tốc độ cần thiết thì ngừng tăng tốc độ và chuyển sang giai đoạn chạy
giữa quãng.
Với các cự ly 800m trở lại có thể dùng kỹ thuật xuất phát cao có 3 điểm
chống tựa (hai chân và tay khác bên chân thuận). Khi chạy 800m, xuất phát có thể
theo ô riêng hoặc chung.
Xuất phát nhanh trong CLTB tuy không có ý nghĩa lắm đối với thành tích,
nhưng xuất phát nhanh để chiếm được vị trí có lợi khi chạy lại là cần thiết. Khi
xuất phát ở đường vòng cũng như khi chạy ở đường vòng, cần chạy sát phía trong
của đường vòng.
1.2. Chạy giữa quãng
4


Độ dài và tần số bước chạy giữa quãng là tương đối đều (3,5 - 4,5
bước/giây).
- Tư thế thân người: Thân trên hơi ngã về trước không quá 4 - 50, hai vai lắc
không nhiều. Đầu và chân người giữ thẳng để các cơ cổ và mặt được thả lỏng tự
nhiên. Thực hiên như trên, cơ thể người chạy không bị căng thẳng quá làm cho tư
thế người chạy thoải mái hơn.
- Động tác của chân: Lực chủ yếu đẩy cơ thể về trước trong chạy là lực đạp
sau của hai chân. Nhưng để chạy được hết cự ly thì không đạp sau gắng sức ở từng
bước chạy và cũng không đạp sau với góc độ nhỏ như ở chạy giữa quãng của CLN
(50 - 550). Để tiết kiệm sức của hai chân cần đạp sau đúng hướng và phối hợp đạp

sau với độ ngã của thân trên và động tác của hai tay. Phải chú ý cho các cơ vừa
tham gia đạp sau được nghỉ ngơi bằng cách gập cẳng chân theo quán tính sau khi
chân rời đất. Kỹ thuật đó còn giúp cho đưa lăng chân về trước được nhanh hơn. Để
không phải tốn nhiều sức, hạn chế phản lực do chống trước, điểm đặt chân ở phía
trước cần gần điểm dọi của TTCT. Đạp chân có chú ý hoãn xung cũng là điều cần
thiết nên phải được thực hiện thuần thục, tự động hoá.
- Động tác của tay: Động tác đánh tay so le với động tác của chân. Đánh tay
để giữ thăng bằng và cùng với nhịp thở còn có tác dụng điều chỉnh tần số bước
chạy.
Trong chạy giữa quãng ở chạy CLTB, người chạy thường gặp hiện tượng
"cực điểm" - đó là những lúc tức thở, chân, tay cứng đờ tưởng như không thể chạy
tiếp được nữa. Khi gặp tình huống này cần có nghị lực chịu đựng, có thể giảm tốc
độ chạy, đồng thời tích cực thở sâu và trạng thái đó sẽ qua, cảm giác dễ chịu sẽ tới
- cơ thể bước vào trạng thái "hô hấp lần hai".
Khác với trong chạy CLN, thở trong chạy CLTB rất quan trọng, vì muốn
cung cấp đủ năng lượng cho cơ thể hoạt động phải sử dụng tối đa lượng oxy lấy
vào từ đường hô hấp. Do vậy, phải chủ động thở ngay từ đầu, nếu thở nông và thở
không theo nhịp điệu ổn định sẽ dẫn tới mệt mỏi, thành tích chạy kém. Trong chạy
CLTB hít vào bằng mũi và thở ra bằng miệng. Khi muốn tăng tốc độ cần phải tăng
nhịp thở.
1.3. Về đích
Khi gần tới đích, người chạy phải cố đem hết sức lực còn lại để rút về đích thứ hạng về đích vẫn có thể thay đổi do những bước cuối cùng này. Người chạy
cần tăng tần số bước, tăng độ ngã thân trên và tăng sức mạnh đánh tay. Sau khi đã
qua đích, không được dừng lại đột ngột mà cần chạy tiếp với tốc độ giảm dần rồi
chuyển qua đi bộ rồi mới dừng lại (sau đó phải hồi tĩnh kĩ).
2. Kỹ thuật chạy việt dã
Cự ly trong CVD có chạy CLTB và có cả CLD. CVD không tổ chức trong
sân vận động mà tổ chức trên địa hình tự nhiên. Trên đường bằng phẳng kỹ thuật
CVD không khác so với kỹ thuật chạy CLTB và chạy CLD. Sự khác biệt chỉ có khi
chạy trên các đoạn đường đặc biệt. Người chạy không những cần có kỹ năng mà

cần có kinh nghiệm để khi phải chạy trong các điều kiện đó, vừa ngăn ngừa được
các tai nạn chấn thương, vừa tiết kiệm được sức lực và tận dụng được các điều kiện
thuận lợi bên ngoài để có thành tích chạy tốt.
5


III. PHƢƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN SỨC BỀN BẰNG CHẠY CLTB VÀ
CHẠY VIỆT DÃ
1. Khái niệm sức bền
Sức bền mà ta đề cập tại đậy chỉ giới hạn trong phạm vị sức bền của con
người trong hoạt động thể lực của họ. Hiện nay trong các tài liệu chuyên môn
TDTT vẫn có sự không nhất quán trong việc định nghĩa về sức bền - một tố chất
thể lực rất cần thiết ở mỗi người. Rất nhiều người đồng ý với V.S.Farfel (nhà sinh
lý học) rằng: Sức bền - đó là khả năng của con người chống lại sự mệt mỏi. Năm
1971 hội nghị khoa học toàn Liên bang Nga (Liên Xô cũ) về các thuộc tính sinh
hoá và sư phạm của sức bền đã đưa ra định nghĩa: Sức bền - đó là khả năng duy trì
một công cho trước với thời gian dài.
Thực ra ở đây chỉ là ước lệ: nếu phải chạy với tần số bước tối đa thì mươi,
mười lăm giây đã là dài, nhưng nếu chỉ đi dạo mát thì hàng giờ vẫn có thể coi là
ngắn. Có một định nghĩa khác: Sức bền là năng lực của cơ thể chống lại mệt mỏi
trong một hoạt động nào đó. Ở mức chung nhất ta có thể chấp nhận định nghĩa:
Sức bền là năng lực thực hiện (hoặc duy trì) một hoạt động với cường độ
cho trước trong thời gian dài nhất mà cơ thể chịu đựng được.
Do sự phong phú và đa dạng của các hoạt động thể lực ở con người mà
người ta phân chia ra hai loại sức bền chính là sức bền chung và sức bền chuyên
môn. Sức bền chung là sức bền trong các hoạt động kéo dài với cường độ thấp và
có sự tham gia của phần lớn hệ cơ còn Sức bền chuyên môn là năng lực duy trì khả
năng vận động cao trong những loại hình bài tập nhất định. Như vậy, sức bền
chung là loại sức bền cần cho mọi người với ý nghĩa là một con người bình
thường. Còn sức bền chuyên môn là sức bền để con người có thể hoàn thành tốt

công việc mình đang đảm nhiệm hoặc rộng hơn là nghề nghiệp mình đã chọn.
Trong thể thao: Sức bền chuyên môn đó là khả năng thực hiện có hiệu quả một
công mang đặc thù chuyên môn đáp ứng những yêu cầu của môn thể thao lựa chọn
trong thời gian dài.
Riêng với các môn thể thao hoạt động theo chu kì người ta thấy: Sức bền
của hệ tuần hoàn và sức bền hệ cung cấp năng lượng có ý nghĩa đặc biệt.
2. Những yếu tố cơ bản trong việc phát triển sức bền
Sức bền của mỗi người phụ thuộc vào yếu tố di truyền sự rèn luyện và nhiều
yếu tố khác. Các bài tập dùng để phát triển sức bền chủ yếu là các bài tập chạy.
Nhìn chung các phương pháp phát triển sức bền ở các môn thể thao có chu kì
là nghệ thuật phối hợp 5 yếu tố cơ bản:
- Tốc độ (cường độ) thực hiện bài tập.
- Thời gian để hoàn thành bài tập.
- Thời gian nghỉ giữa hai lần thực hiện bài tập.
- Tính chất của sự nghỉ đó.
- Số lần lặp lại bài tập đó trong một buổi tập.
IV. MỘT SỐ ĐIỂM CƠ BẢN TRONG LUẬT ĐIỀN KINH
1. Quy cách đƣờng chạy
1.1. Chạy CLTB
6


a) Khác với chạy cự li ngắn, ở cự li này các vận động viên không phải chạy
theo ô riêng. Vạch xuất phát của các môn chạy theo đường chạy chung phải kẻ sao
cho bất kì một điểm nào trên vạch xuất phát cũng cách nơi dự kiến chạy “bắt” vào
đường vòng một đoạn bằng nhau. Riêng ở chạy 800m (và cả 600m và 1000m) khi
thi ở quy mô quốc gia và quốc tế, vận động viên phải xuất phát theo ô riêng, sau
khi chạy hết 300m đầu mới được phép chuyển vào đường chạy chung (ô trong
cùng của đường chạy). Vạch quy định cho phép chuyển đó là vạch ở cuối đường
vòng, nơi tiếp giáp với đường thẳng.

Phải kẻ vạch sao cho bất kì một điểm nào trên vạch cũng cách đường viền
trong, nơi chuyển từ đường thẳng sang đường vòng một đoạn bằng nhau (85,96m).
Vạch cũng rộng 5cm, hai đầu vạch cắm 2 cờ cao 1,5m.
b) Phục vụ cho công tác trọng tài ở chạy các cự li trung bình và dài cần có
chuông để báo cho vận động viên biết khi họ còn phải chạy một vòng sân nữa (nếu
không rung chuông thì có thể thay bằng một phát súng lệnh).
c) Khi có điều kiện, nên dùng cả máy ảnh hoặc máy ghi hình để tìm hiểu thứ
tự về đích trong các cuộc thi có nhiều vận động viên tham dự. Mặt khác, trong
trường hợp các vận động viên về đích dồn dập không thể ghi kịp có thể dùng máy
ghi âm để ghi lại thứ tự các vận động viên về đích, khi trọng tài đọc.
1.2. Chạy việt dã
Chạy qua các địa hình tự nhiên: đồng ruộng, làng xóm, bãi cỏ, rừng, dốc…
nhưng hạn chế cho vận động viên chạy trên đường cứng. Có thể tự tạo các chướng
ngại trên đường chạy như rào (cao không quá 1m), hố nước… nhưng không được
gây nguy hiểm cho vận động viên. Cũng không nên bố trí đường chạy qua các địa
hình nguy hiểm (hố sâu, dốc cao…). Nếu có đông vận động viên dự thi thì ở
1500m đầu của đường đua không nên có các vật cản hoặc phải chạy qua các khe
hẹp. Đường chạy có thể là một vòng khép kín (xuất phát và đích ở cùng một địa
điểm). Vị trí xuất phát và đích của các cự li 2km trở lên có thể đặt trong sân vận
động, nhưng không để vận động viên phải chạy trong sân quá một vòng sau khi
xuất phát cũng như khi về đích. Đường chạy phải rõ, nếu có điều kiện thì cắm cờ
2 bên đường (cờ đỏ bên trái, cờ trắng bên phải) để vận động viên không chạy lạc
đường. Cần có các biển ghi cự li đoạn đường còn lại. Trên mặt đường chạy phải vẽ
các mũi tên chỉ đường màu trắng. Khi cho chạy trên đường không đánh dấu, phải
báo cho vận động viên biết các địa điểm và trạm kiểm tra trên đường chạy. Cự li
thi phải được công bố trước và được quyền có sai số + 500m cho nam và + 300m
cho nữ.
2. Luật thi đấu
Điều 39: Thứ tự tiến hành thi đấu các môn chạy
1. Đối với CLTB thì thi đấu được tiến hành trên vòng sân vận động theo

hướng ngược chiều kim đồng hồ (trừ CVD, chạy đường trường ở ngoài sân vận
động).
Bình thường ở những cự ly từ 400m trở xuống khi thi đấu, VĐV phải chạy
theo ô riêng. Khi thi đấu toàn quốc về các môn chạy 600m, 800m và 1000m đều
phải xuất phát theo ô riêng biệt ở đầu các đường vòng của sân chạy. VĐV phải
7


chạy theo các ô riêng biệt đó hết 300m đầu tiên mới được chạy chung ở ô trong
cùng của đường chạy.
Tất cả các cự ly khác, khi thi đấu, VĐV đều chạy theo đường chạy chung,
không chạy theo ô riêng.
2. Khi thi đấu theo ô riêng biệt thì số lượng VĐV trong một đợt chạy phụ
thuộc vào số lượng ô chạy đã có sẵn trong sân vận động. Khi xuất phát chung trên
một đường chạy hoặc xuất phát theo ô riêng biệt, sau đó chuyển sang chạy theo
đường chạy chung, thì số lượng VĐV xuất phát trong một đợt theo bảng dưới đây:
Giới tính
Cự ly
Số người
Nữ
500m
8
Nữ
600 - 1000m
8 - 10
Nữ
1500 - 2000m
20
Nam
600 - 1000m

10
Nam
1500 - 2000m
15
Khi thi đấu các môn chạy có cự ly từ 5000m trở lên trong sân vận động, thì số
lượng VĐV xuất phát trong một đợt không được vượt quá 25 người.
Ghi chú:
- Số lượng VĐV xuất phát chạy trong một đợt chạy của môn Chạy 600m,
800m và 1000m phụ thuộc vào số lượng ô chạy sẵn có trong sân.
- Trong một số cuộc thi đấu, ban trọng tài có thể cho chạy 400m theo đường
chạy chung (không theo ô riêng), số lượng mỗi đợt chạy không được quá 6 người.
3. Trong các cuộc thi đấu các môn chạy không có vòng loại cần tổ chức sao
cho các VĐV xuất sắc của cuộc thi đấu được trực tiếp gặp nhau cùng một đợt để
nâng cao thành tích và giành thắng lợi cuối cùng.
a. Nếu số lượng VĐV quá đông, không thể cho chạy cùng một đợt thì phải
chia số VĐV đó ra làm nhiều đợt. Đối với các cự li từ 1500m trở xuống của nam
và từ 800m trở xuống của nữ có thể cho thi đấu loại bán kết và chung kết, không
có thi đấu loại.
Có thể chọn môn chạy có đấu loại cự li dưới 400m (kể cả chạy vượt rào) và
trong các môn chạy tiếp sức, có thể dựa vào thành tích của cuộc thi đấu đã thể hiện
để chọn VĐV vào thi tiếp ở các vòng sau (bán kết hoặc chung kết).
b. Dựa vào thứ tự về đích của VĐV để chọn các VĐV vào các vòng thi đấu
tiếp theo.
Phải nêu rõ trong điều lệ thi đấu cách tuyển chọn VĐV vào thi đấu vòng tiếp
hay vào thi đấu chung kết và phải thông báo lại cho lãnh đạo đội và VĐV biết
trước khi thi đấu.
4. Tìm hiểu người thắng trong các cuộc thi đấu về môn chạy dựa vào thành
tích (thời gian) trong cuộc thi đấu chung kết, không phụ thuộc vào thành tích (thời
gian) ở các cuộc thi đấu khác (thi loại, bán kết v.v…). Thứ tự của các VĐV không
được vào chung kết dựa theo thành tích (thời gian) cao nhất của VĐV đó đã đạt

được trong các cuộc thi ở vòng ngoài.

8


Nếu tổ chức ngay các đợt chạy chung kết thì thứ hạng của VĐV được xếp
theo thành tích (thời gian) của VĐV đạt được trong các đợt chạy chung kết đó,
không phụ thuộc vào thứ hạng, vị trí của các đợt chạy.
Ví dụ: Trong môn Chạy 100m, VĐV A về thứ hai trong đợt chạy thứ nhất với
thành tích 11 giây, VĐV B về thứ nhất trong đợt chạy thứ ba với thành tích 11 giây
2/10 thì khi xếp hạng chung, VĐV A vẫn xếp hạng trên VĐV B, mặc dù VĐV B
về nhất đợt chạy thứ ba.
5. Những VĐV có thành tích cao được xếp vào các đợt chạy theo nguyên tắc
sau:
Nếu thể hiện 3 đợt chạy thì VĐV có thành tích cao nhất xếp vào đợt 3, VĐV
có thành tích thứ hai xếp vào đợt 2, VĐV có thành tích thứ ba chạy vào đợt 1,
VĐV có thành tích thứ tư xếp vào đợt 1 và VĐV có thành tích thứ năm được xếp
vào đợt 2, VĐV có thành tích thứ sáu thì xếp vào đợt 3, VĐV có thành tích thứ bảy
xếp vào đợt 3 v.v…
Trừ ở trường hợp đã nêu ở mục 3 – 6, (Điều 39) cần xếp các VĐV có thành
tích ngang nhau vào các đợt chạy chung kết.
Ghi chú: Có thể chia các VĐV vào các đợt chạy bằng cách rút thăm, nếu số
lượng tham gia thi đấu quá đông.
6. Xếp VĐV vào các đợt chạy của vòng tứ kết và bán kết dựa vào thành tích
thời gian đã đạt được ở các vòng thi đấu trước theo nguyên tắc đã nêu ở mục 5
(Điều 39).
7. Thi đấu tứ kết, bán kết và chung kết các môn Chạy cự li 200 - 500m của
nữ, 200 – 1000m của nam, phải cho VĐV nghỉ từ 1 giờ 30 phút trở lên mới được
tiếp tục tham gia thi đấu vòng sau. Thi bán kết và chung kết các cự li dài hơn chỉ
được thể hiện sau khi VĐV đã được nghỉ 3 giờ hoặc phải chuyển sang ngày hôm

sau.
8. Trong một ngày thi đấu, VĐV chỉ được quyền tham gia chạy một cự li
trung bình hoặc một cự li ngắn với cự li dài (trong ở trường hợp này, cự li 400m
của nam và 300m của nữ được tính là cự li trung bình). Đối với VĐV cấp I và kiện
tướng thì không hạn chế.
9. Khi bắt đầu thi đấu, do thời tiết xấu hoặc vì các nguyên nhân khác (không
phải do trọng tài và VĐV gây ra), có thể để cuộc thi đấu lùi lại vài giờ hoặc chuyển
sang ngày khác. Tiếp tục thi đấu hoặc lùi thời gian thi đấu hay chuyển thi đấu sang
ngày khác là do trưởng ban trọng tài quyết định.
Điều 40: Xuất phát
1. Việc sắp xếp ô chạy là do ban tổ chức sắp xếp trên nguyên tắc ưu tiên hạt
giống ở các đợt chạy khác nhau.
2. Thời gian chuẩn bị xuất phát là 2 phút (đào hố hoặc đóng bàn đạp), tính từ
lúc gọi tên. Sau đó theo lệnh của trọng tài phát lệnh VĐV về xếp hàng ở vạch
chuẩn hoặc đứng sau hố (bàn đạp) xuất phát của mình.
Ghi chú: Nếu VĐV không chuẩn bị xuất phát kịp theo thời gian quy định,
trọng tài phát lệnh chấm dứt việc chuẩn bị và ra lệnh cho VĐV vào vị trí xuất phát.

9


Nếu VĐV không chạy vào vị trí xuất phát sau khi có lệnh gọi của trọng tài
phát lệnh thì bị cảnh cáo. Nếu sau khi gọi lần thứ hai vẫn không vào vị trí xuất
phát, thì trọng tài phát lệnh loại ra khỏi cuộc thi đấu.
3. Khi thi đấu các môn chạy từ 800m trở lên (kể cả các môn chạy tiếp sức các
cự li 800m trở lên), thì không dùng dự lệnh “Sẵn sàng”. Trọng tài phát lệnh chỉ hô
“Vào chỗ” và khi thấy VĐV đã chuẩn bị sẵn sàng thì phát lệnh chạy bằng súng
hoặc lời hô. Trọng tài chỉ ra lệnh chạy khi VĐV ở tư thế bất động.
4. Trước khi có lệnh “Chạy” tiếng súng (hoặc lời hô), nếu trọng tài phát lệnh
hay trọng tài kiểm tra xuất phát thấy VĐV thực hiện xuất phát không đúng luật thì

phải dùng tiếng súng thứ hai, tiếng còi hoặc lời nói để các VĐV dừng lại và trở về
vạch chuẩn bị xuất phát, sau đó cảnh cáo VĐV đã phạm luật thi đấu.
Ghi chú: Trước khi xuất phát, trọng tài phát lệnh giải thích cho VĐV biết
hiệu lệnh xuất phát và hiệu lệnh phải dừng lại khi có VĐV xuất phát không đúng
(hiệu lệnh bằng súng hay bằng lời nói).
VĐV nào đã bị cảnh cáo một lần mà lại phạm luật xuất phát lần thứ hai thì bị
loại khỏi cuộc thi đấu ở cự li đó.
Điều 41: Chạy trong sân vận động
1. Khi thể hiện thi đấu các môn chạy trên một đường chạy chung, không theo
ô riêng thì trong lúc chạy VĐV không được gây trở ngại cho nhau. Người sau
muốn vuợt lên người trước phải vượt về phía bên phải người chạy trước. Nếu
người chạy trước không bám vào mép trong đường chạy mà chạy xa về phía bên
phải thì cho phép người chạy sau vượt người chạy trước về bên trái, nhưng cấm
không được chạm vào người hoặc gây trở ngại cho người chạy trước. Trong lúc
vượt nhau, cấm VĐV chạy sau xô đẩy VĐV chạy trước và VĐV chạy trước không
được cản trở VĐV chạy sau, VĐV nào phạm các điều trên sẽ bị loại khỏi cuộc thi
đấu.
Ghi chú: Căn cứ vào tình huống xảy ra, có thể loại VĐV gây ra cản trở và
cho phép VĐV bị cản trở được thi lại hoặc vào thi tiếp ở vòng trong.
2. Cấm không được chỉ đạo hoặc giúp đỡ VĐV đang thi đấu các môn chạy
(kể cả chạy theo để động viên). Nếu vi phạm sẽ bị loại khỏi cuộc thi đấu.
Chỉ cho phép tiếp thức ăn và báo cáo thời gian cho VĐV đúng với điều luật
đã quy định.
3. Khi thi đấu chạy theo ô riêng biệt, VĐV phải chạy đúng ô của mình.
VĐV bị loại khi:
- Chạy sang ô của người khác.
- Giẫm chân lên đường viền hay vạch kẻ phân chia các ô chạy.
Ghi chú: - Có thể châm chước cho VĐV chạy qua ô người khác do bị mất
thăng bằng hoặc bị ngã, nhưng với điều kiện không làm cản trở VĐV chạy ở ô đó.
- Khi đang tiến hành chạy VĐV nào rời đường chạy sẽ bị loại khỏi cuộc thi

đấu.
- Khi thi đấu từ 20km trở lên, VĐV có quyền rời khỏi đường chạy khi cần
thiết, vào trạm tiếp tế ăn uống hoặc thay đổi quần áo giày v.v… nhưng phải được

10


trọng tài đồng ý và khi tiếp tục tham gia thi đấu, VĐV này phải chạy đúng từ điểm
đã rời khỏi cuộc thi đấu.
Điều 42: Về đích
1. VĐV được công nhận là về tới đích khi một bộ phận thân người chạm vào
mặt phẳng tạo bởi vạch đích và dây đích (trừ đầu, cổ và tay chân).
2. VĐV được công nhận là chạy hết cự li (qua đích) khi toàn bộ cơ thể đã đi
qua mặt phẳng tạo bởi dây đích và vạch đích.
Ghi chú:
- Nếu VĐV bị ngã trước khi đến đích, nhưng nhờ quán tính nên toàn bộ cơ
thể đã lăn qua được vạch đích thì vẫn được công nhận đã chạy hết cự li.
- Nếu VĐV sau khi chạm thân người vào mặt phẳng đích mà bị ngã ngay ở
vạch đích nhưng đã nhanh chóng chuyển toàn bộ cơ thể qua vạch đích thì thời gian
và thứ tự về đích vẫn được công nhận.
3. Khi về đích, nếu có một số VĐV có cùng một thành tích, thì có thể cho tất
cả các VĐV này tiếp tục vào thi đấu vòng bán kết hoặc chung kết (nếu có thể bố trí
được). Nhưng nếu không có khả năng sắp xếp cho các VĐV đó vào thi đấu vòng
tiếp thì các VĐV đó phải thi lại. Các thành tích đạt được trong lần thi lại có thể
được công nhận là kỉ lục, đẳng cấp, nhưng không được tính vào điểm thi đấu đồng
đội.
4. Khi thi đấu các môn chạy, kết quả thời gian của mỗi VĐV khi về đích
được tìm hiểu bằng một đồng hồ bấm giờ, còn thời gian của VĐV về thứ nhất phải
được tìm hiểu bằng ba đồng hồ bấm giờ. Thành tích thời gian được công nhận là
thành tích của hai đồng hồ giống nhau. Nếu ba đồng hồ chỉ 3 thời gian khác nhau

thì thành tích lấy theo đồng hồ ở giữa. (Ví dụ: 3 đồng hồ chỉ: 49”4; 49”6; 49”7, thì
lấy thành tích 49”6). Nếu một trong ba đồng hồ bị dừng khi VĐV đang chạy thì lấy
thành tích theo đồng hồ có chỉ số thời gian nhiều hơn trong hai số đồng hồ còn lại.
Ghi chú:
a. Ban trọng tài phải kiểm tra các đồng hồ sẽ sử dụng trong thi đấu.
b. Phải dùng đồng hồ điện tử để tìm hiểu thành tích, những đồng hồ này phải
của Ban Tổ chức.
Khi dùng đồng hồ điện tử thì thành tích được công nhận như sau:
- Các cự li dưới 10.000m thành tích tính tròn tới 1/100 giây.
- Khi dùng đồng hồ bấm tay để tìm hiểu thành tích của các môn chạy trong
sân vận động thì đồng hồ phải chuẩn xác tới 1/10 giây.
- Làm tròn số đến 1/10 giây theo nguyên tắc tăng lên (10”41 = 10”5; 10”49 =
10”5).
5. Trong các cuộc thi thành tích tính theo độ dài cự li mà VĐV chạy được
trong một thời gian quy định thì một phút trước khi kết thúc cuộc thi trọng tài phát
lệnh phải bắn súng báo cho VĐV và trọng tài biết. Trọng tài bấm giờ trực tiếp chỉ
đạo trọng tài phát lệnh bắn súng báo hiệu kết thúc cuộc đua. Các trọng tài đánh dấu
VĐV đạt được. Đoạn đường đạt được sẽ đo tới phần cuối gót chân. Trong cuộc thi
này phải bố trí ít nhất 1 trọng tài theo dõi 1 VĐV từ đầu đến cuối cuộc thi để đánh
dấu được chính xác đoạn đường VĐV đó đã đạt được.
11


Điều 45: Chạy việt dã trên đường trường
1. Trong các cuộc thi chạy việt dã, tuỳ theo chiều dài của cự li và tính chất thi
đấu mà Ban Trọng tài sẽ quy định số lượng VĐV trong từng đợt chạy.
2) Những VĐV tham gia thi đấu các môn chạy từ cự li từ 20km trở lên phải
được phép của y tế. Ngoài ra trước khi thi đấu, y tế phải kiểm tra kĩ một lần nữa để
quyết định cho phép VĐV tham gia thi đấu hay không. Nếu trong lúc thi đấu, y,
bác sĩ có ý kiến không nên tiếp tục thi đấu thì VĐV đó phải ngừng thi đấu ngay.

3. Các VĐV tham gia thi đấu các môn chạy từ 20km trở lên có quyền nhận
thức ăn, nhưng ở những trạm tiếp tế quy định. Chỉ có nhân viên phục vụ ở các trạm
tiếp tế mới có quyền trao thức ăn cho VĐV. Các đơn vị có thể chuyển thức ăn cho
VĐV của mình qua nhân viên tiếp tế, nhưng phải được các y, bác sĩ có trách nhiệm
cho phép. VĐV nhận thức ăn ngoài chỗ quy định sẽ bị loại.
Ghi chú: Ban Trọng tài có thể cho phép 1 – 2 người đại diện đơn vị dự thi vào
phục vụ ở các trạm, nhưng những người này không được chạy hoặc đi theo VĐV
để tiếp tế thức ăn.
4. Cấm không được giúp đỡ VĐV trong lúc đang tham gia thi đấu (kể cả tiếp
thức ăn và báo thời gian cho VĐV biết). Nếu vi phạm kỉ luật này sẽ bị loại khỏi
các cuộc thi đấu.
V. PHƢƠNG PHÁP TRỌNG TÀI
1. Thành phần: Tổ trọng tài chạy gồm các bộ phận:
- Trọng tài xuất phát (tối thiểu phải có 1 trọng tài phát lệnh kiêm bắt phạm
quy khi xuất phát. Trong trường hợp xuất phát theo ô riêng mà số người chạy ở
mỗi đợt đông, cần có thêm 1 trọng tài chuyên bắt phạm quy khi xuất phát).
- Trọng tài đích: gồm các trọng tài bấm giờ và trọng tài xác định thứ tự về
đích và trọng tài báo vòng.
- Trọng tài kiểm soát trên đường chạy.
- Thư kí.
2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ: Sự phối hợp của các trọng tài trên trong mỗt đợt chạy của một cự
li như sau:
- Tổ trưởng trọng tài chạy: (hoặc thư kí hoặc trọng tài phát lệnh) tập trung
VĐV về vị trí xuất phát. Sau điểm danh là phổ biến các điều VĐV cần biết (bao
gồm luật lệ ở môn thi đó, đợt chạy, ô chạy…).
- Trọng tài phát lệnh: tập trung VĐV của đợt chạy đã đến lượt về vị trí chuẩn
bị, kiểm tra, đối chiếu VĐV với danh sách của Ban Tổ chức. Dùng cờ hoặc còi liên
hệ với các bộ phận trọng tài khác (đích và trên đường chạy) nếu tất cả đã sẵn sàng
thì cho VĐV vào chỗ và xuất phát. Dù chưa có lệnh xuất phát nếu có VĐV phạm

quy thì lập tức cho dừng chạy, tập trung VĐV về tuyến chuẩn bị, cảnh cáo hoặc
loại vận động viên phạm quy, sau đó thể hiện lại việc cho đợt chạy đó xuất phát.
- Các trọng tài đích: Tổ trưởng trọng tài bấm giờ sau khi ổn định việc phân
công các trọng tài bấm giờ (bấm theo ô chạy hoặc theo thứ tự về đích), nhắc các
trọng tài đưa kim đồng hồ về số không (0), báo hiệu trả lời để trọng tài phát lệnh
cho xuất phát. Khi VĐV về đích, các trọng tài bấm giờ bấm dừng đồng hồ.
12


Trong khi đó các trọng tài tìm hiểu thứ tự về đích cũng phải lên được bảng
thứ tự về đích theo số đeo của VĐV. Thư kí sẽ khớp thành tích của VĐV ở trọng
tài bấm giờ với thứ tự về đích vào biên bản thi đấu. Trong biên bản tối thiểu phải
có: họ và tên, đơn vị, số đeo, đợt chạy, ô chạy, thành tích và thứ bậc của từng
VĐV, cuối cùng phải có chữ kí của tổ trưởng trọng tài và thư kí.
- Các trọng tài kiểm soát dọc đường: có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện luật
thi đấu để kịp thời phát hiện các ở trường hợp phạm quy, chen lấn, xô đẩy, chạy sai
ô, chạy tắt đường, không trao tín gậy trong khu quy định, thậm chí cả nhờ sự giúp
đỡ của bên ngoài trong chạy việt dã.
Đối với chạy cự li trung bình và dài, trọng tài phải báo số vòng còn phải chạy
cho VĐV. Khi VĐV dẫn đầu, bắt đầu chạy vào vòng cuối thì bắn súng lệnh hoặc
rung chuông để báo hiệu.
VI. PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Nhiệm vụ 1: Xây dựng khái niệm môn học Chạy cự li trung bình và Chạy
việt dã.
Các biện pháp giảng dạy chính:
- Biện pháp 1: Giới thiệu đặc điểm và yêu cầu học tập môn Chạy cự li trung
bình và Chạy việt dã (cho xem tranh, ảnh, băng hình môn Chạy).
- Biện pháp 2: Tập các động tác bổ trợ chạy và kĩ thuật đánh tay.
- Biện pháp 3: Chạy tăng tốc độ 60 - 80m.
- Biện pháp 4: Chạy lặp lại 3/4 sức các cự li từ 80 - 400m để sửa chữa kĩ

thuật và làm quen với cảm giác tốc độ. Cần phân tích cho người học biết mối quan
hệ giữa tần số và độ dài bước, cách thở trong quá trình chạy.
Nhiệm vụ 2: Dạy kĩ thuật chạy trên đường thẳng và đường vòng nhằm làm
quen với các biện pháp phát triển sức bền.
Các biện pháp giảng dạy chính:
Biện pháp 1: Ôn tập các động tác bổ trợ chạy, kĩ thuật đánh tay.
Biện pháp 2: Chạy tăng tốc độ các đoạn từ 100 đến 200m.
Biện pháp 3: Tập chạy ở đường vòng (vào đường vòng, ra đường vòng, trên
đường vòng) với các bán kính khác nhau, tốc độ chạy khác nhau.
Biện pháp 4: Chạy 400 - 800m nhằm xây dựng cảm giác tốc độ.
Biện pháp 5: Chạy việt dã 1000m đối với nữ, chạy 2000m đối với nam nhằm
phát triển sức bền.
Nhiệm vụ 3: Dạy kĩ thuật chạy trong các điều kiện tự nhiên. Học kĩ thuật
xuất phát cao, kĩ thuật về đích.
Các biện pháp giảng dạy chính:
Biện pháp 1: Giáo viên dạy lí thuyết và cho học sinh thực hành chạy tuỳ
theo điều kiện của cơ sở.
Biện pháp 2: Dạy kĩ thuật xuất phát cao 2 - 3 điểm chống. Sau lệnh xuất phát
học sinh chỉ cần chạy từ 3 đến 5m.
Biện pháp 3: Chạy lặp lại nhiều vòng sân (400m) để xây dựng cảm giác tốc
độ chạy có kết hợp tập kĩ thuật về đích đồng thời củng cố kĩ thuật chạy giữa quãng
ở cự li trung bình.
Biện pháp 4: Giới thiệu hiện tượng cực điểm và cách khắc phục.
13


Nhiệm vụ 4: Hoàn thiện kĩ thuật chạy cự li trung bình, cự li dài, đánh giá
kết quả học tập.
Các biện pháp giảng dạy chính:
Biện pháp 1: Ôn tập kĩ thuật các giai đoạn.

Biện pháp 2: Kiểm tra thành tích chạy.
* Những bài tập sử dụng trong chạy việt dã
Bài tập chủ yếu:
- Chạy trên địa hình tự nhiên với mục đích nghiên cứu kĩ thuật vượt qua các
chướng ngại vật tự nhiên.
Những bài tập dẫn dắt:
- Chạy lên dốc, chạy xuống dốc.
- Chạy trên cát, chạy trên cỏ rậm.
- Chạy qua mương, rãnh nhỏ.
- Chạy vượt qua bụi cây thấp (bằng chạy vượt rào).
- Chạy thay đổi hướng.
Những bài tập chuẩn bị:
- Những bài tập tạo điều kiện cho giảng dạy và hoàn thiện kĩ thuật chạy trên
đường bằng phẳng, chạy qua chướng ngại vật và nhảy.
Những bài tập hoàn thiện kĩ thuật:
- Chạy việt dã luân phiên với đi bộ.
- Chạy qua các đoạn của cự li việt dã.

14


PHẦN II. TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG
CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. LỊCH SỬ PHÁT SINH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRÒ CHƠI VẬN
ĐỘNG
1. Nguồn gốc ra đời của trò chơi
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, con người đã trải qua cả một
thời kỳ triền miên sinh sống chủ yếu bằng săn bắn và hái lượm. Để tồn tại và phát
triển con người đã phải lao động, tự đấu tranh chống lại những khắc nghiệt của
thiên nhiên và thú dữ, chống lại bệnh tật tấn công từ mọi phía. Để duy trì sự sống

của mình con người đã trải qua biết bao gian khổ đôi khi phải trả giá bằng cả sinh
mạng của mình. Tuy nhiên cũng từ thực tế nghiệt ngã ấy con người đã vươn lên, tự
cải tạo chính mình, với sức mạnh và tài trí con người đã lần lượt chinh phục được
tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ chính mình. Từ các hoạt động có tính chất bản năng
ban đầu con người đã tìm ra lửa, tìm ra tiếng nói và chữ viết, các hoạt động dần
dần có ý thức nhờ vậy loài người cho đến nay ngày càng khẳng định được sự tồn
tại và phát triển của mình.
Trong những buổi ban đầu của xã hội loài người, bằng săn bắn và hái lượm,
con người đã vượt lên mọi hiểm nguy, đạt được những hiệu quả nhất định trong lao
động để duy trì sự sống. Sau những ngày làm việc con người lại tụ tập nhau bày tỏ
niềm hân hoan giành được thắng lợi, người ta kể cho nhau nghe và diễn lại những
chiến tích của mình qua săn bắn và hái lượm. Những người khác cũng tập bắt
chước các bậc đàn anh như phóng lao, đuổi bắt, leo trèo sao cho có hiệu quả hơn.
Sự bắt chước các thao tác đó đã dần dần biến thành trò chơi đó là các trò chơi với
hình thức diễn lại các thao tác đơn giản trong lao động thường ngày.
Có nhiều quan điểm giải thích sự phát sinh và phát triển của trò chơi. Quan
điểm duy tâm cho rằng mọi vật sinh ra tồn tại trên thế gian này đều do đấng tối cao
sắp đặt. Người ta cho rằng ý thức có trước vật chất có sau, ý thức quyết định vật
chất. Do vậy việc trò chơi ra đời cũng được xem như việc con ông biết múa, con cá
biết bơi, con chim biết hót... chỉ là sự tồn tại một cách khách quan không gì phủ
nhận được.
Từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, việc giải thích sự phát sinh của
trò chơi được hiểu một cách toàn diện hơn. Như chúng ta đã nghiên cứu, sự xuất
hiện cuả trò chơi gắn liền một cách hữu cơ với sự tồn tại và phát triển loài người.
Lao động sáng tạo là nguyên nhân sâu xa làm cho con người thoát khỏi cuộc sống
bản năng của các loài vật và tồn tại cho tới ngày nay. Sự cần thiết của việc con
người phải truyền lại cho nhau từ thé hệ này qua thế hệ khác về kinh nghiệm sống
để chinh phục thế giới tự nhiên, bắt nó phục vụ lợi ích cho con người. Con người
đã tím ra lửa, tiếng nói, chử viết, hoạt động ý thức chỉ có ở con người đã làm cho
con người trở thành chủ thể cao nhất trong xã hội. Việc ra đời của trò chơi chính là

sự thoả mãn tất yếu nhu cầu về mặt tinh thần của con người. Chủ nghĩa duy vật
biẹn chứng khẳng định "vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý
thức". Trong xã hội phát triển trò chơi không chỉ thoã mãn cho con người nhu cầu
về tinh thần mà thực chất nó đã là một trong những phương tiện để giáo dục và
giáo dưỡng thể chất.
15


2. Khái niệm và phân loại trò chơi vận động
Trên cơ sở mục đích tác dụng và những đặc tính của trò chơi vận động ta có
thể khái niệm nó như sau:
a. Khái niệm: Trò chơi vận động là hoạt động của con người, nó được cấu
thành bởi 2 yếu tố:
- Vui chơi giải trí, thoã mãn nhu cầu về mặt tinh thần.
- Giáo dục giáo dưỡng thể chất (góp phần giáo dục đạo đức, ý chí, hình thành
và phát triển các tố chất, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống).
b. Phân loại trò chơi
Có rất nhiều các tác giả và những quan điểm khác nhau về việc phân loại trò
chơi nói chung và trò chơi vận động nói riêng. Tuy nhiên ở đây chúng tôi khái quát
việc phân loại cách hoạt động vui chơi và trò chơi vận động theo khuynh hướng
đặc điểm tính chất hoạt động vui chơi và trò chơi vận động theo khuynh hướng đặc
điểm tính chất hoạt động của nó đối với từng lĩnh vực cụ thể:
Hoạt động vui chơi

Trò chơi

Trò vui

Giải trí


Tiêu khiển

Trò chơi vận động

Trò chơi trí tuệ

Ở trong phạm vi tài liệu này chúng tôi chủ yếu đặt vấn đề nghiên cứu trò chơi
vận động, một lĩnh vực vui chơi tương đối toàn diện nhằm đặt được mục đích của
người giáo dục nhất là trong lĩnh vực giáo dục thể chất.
Việc phân loại trò chơi vận động cũng có rất nhiều quan điểm của các tác giả
khác nhau, kế thừa các quan điểm đó chúng tôi phân loại TCVĐ trên cơ sở một số
căn cứ sau:
- Căn cứ vào đặc điểm thao tác của hoạt động ta phân trò chơi thành các loại:
Đi bộ, chạy, nhảy, ném, leo trèo, mang vác... cách phân loại này nhằm phát triển
những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống.
- Căn cứ vào mục đích giáo dưỡng các tố chất thể lực như: sức nhanh, sức
mạnh, mềm dẻo, sức bền và tính khéo léo. Cách phân loại này nhằm cũng cố và
phát triển những tố chất cần thiết riêng biệt tuỳ vào mục đích của người hướng dẫn
vui chơi, góp phần hoàn thiện những kỹ năng kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống.
- Căn cứ vào nghề nghiệp mà ta có các trò chơi bổ trợ cho một nghề nghiệp
hay một môn thể thao nào đó như: Trò chơi bổ trợ bóng chuyền, bóng rổ, điền
kinh..., trò chơi xây dựng, trò chơi quân sự.
- Căn cứ vào môi trường hoạt động mà ta có các trò chơi dưới nước, các trò
chơi trên cạn...
Có nhiều tác giả lại căn cứ vào khối lượng vận động để phân chia các nhóm
trò chơi tĩnh, trò chơi vận động hoặc phân theo các nhóm chính, phụ...
16


Nói tóm lại sự phân loại trong trò chơi vận động là rất đa dạng và tương đối

phức tạp bởi tính mục đích và tác dụng rất rộng rải trong các lĩnh vực hoạt động
khác nhau. Do vậy chúng tôi đưa ra một số cách phân loại như trên cũng chỉ là
tương đối, trong thực tế tuỳ thuộc vào các khuynh hướng vận dụng mà người điều
khiển làm sao cho trò chơi vận động đạt được mục đích ý nghĩa của nó như một
phương tiện để giáo dục thể chất và giải trí cho con người.
3. Đặc điểm của trò chơi vận động
Các đặc điểm chính của trò chơi vận động (TCVĐ)
Nghiên cứu quá trình phát sinh và phát triển của trò chơi vận động ta thấy nó
có một số đặc điểm chính như sau:
- Tính mô phỏng của trò chơi vận động: Hầu hết các trò chơi được sáng tác
đều mang màu sắc các hoạt động thường ngày của con người. Bằng các hoạt động
của các loài vật, con người đã biết nhân cách hoá, thay đối các cấu trúc bên ngoài
của thao tác để đạt được mục đích giáo dục, giáo dưỡng của mình.
- Tính tư tưởng của trò chơi vận động
Với ý nghĩa giáo dục của mình ngoài tác dụng vui chơi giải trí, trò chơi vận
động đã góp phần hình thành nhân cách và giáo dục các phẩm chất đạo đức quý giá
như: tính tập thể, tính đoàn kết, tính kỷ luật, lòng dũng cảm và ý chí quyết thắng
trong hoạt động vui chơi. Trong khi chơi làm nảy sinh tính sáng tạo, tính đồng đội
và ý thức tự chủ rất cao.
- Tính thi đua và định mức lượng vận động cho từng cá nhân:
Tham gia vui chơi là biểu lộ đa dạng tình cảm, của ý chí và thể lực. Nhất là
đối với các đối tượng ở tuổi nhỏ sự ganh đua rất quyết kiệt và rõ ràng, tuy nhiên
chính vì sự ganh đua này nên người điều khiển vui chơi phải có phương pháp quản
lý và giáo dục tính tự giác cho các em, tránh các biểu hiện quá ham chơi dẫn đến
quá sức hay ngược lại quá thờ ơ dẫn đến lười biếng và trốn tránh trách nhiệm (thực
tế trong trò chơi sự kiểm soát lượng vận động hoàn toàn phụ thuộc vào tính tự giác
của người chơi). Cả hai ý nghĩa quá tích cực (ham chơi) và tiêu cực trong trò chơi
vận động đều không đạt được mục đích giáo dục với đúng nghĩa của nó.
- Bản chất xã hội và tính giai cấp trong trò chơi vận động: "Tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội", ở mỗi một xã hội khác nhau sử dụng trò chơi với các

mục đích khác nhau. Trong xã hội phong kiến đế quốc, trò chơi được tổ chức dưới
dạng các trò vui, trò tiêu khiển nhằm mục đích mua vui cho một nhóm người có
quyền lực của giai cấp thống trị, đôi khi mua vui trên sự đau khổ của người khác...
(ví dụ như một số trò vui: leo cột mở, liếm chảo...).
Trong xã hội ta, trò chơi nói chung và trò chơi vận động nói riêng đã trở
thành một trong những phương tiện để giáo dục thể chất và hướng dẩn sự phát
triển của con người. Trò chơi vận động được phổ biến rộng rải trong học đường,
các tổ chức câu lạc bộ, vùng đông đân cư thực chất đã góp phần làm phong phú đời
sống tinh thần của con người. Thông qua vui chơi con người được cũng cố các kỹ
năng, kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống, con người vui hơn sống lành mạnh và có ích
cho xã hội. Bản chất một xã hội tiến bộ đã trả lại đích thực ý nghĩa chân chính của
trò chơi và nó đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống của
con người.
17


4. Phân biệt trò chơi vận động với các hoạt động khác
Chúng ta cần phân biệt trò chơi vận động với một số hoạt động thường ngày
mà ta hay gặp hoặc nhận biết tương tự. Đó là lao động sản xuất, các bài tập thể
thao để từ đó sử dụng trò chơi nhằm đạt được mục đíchcủa người giáo dục.
Để phân biệt các hoạt động này ta cần căn cứ vào một số đặc điểm sau:
- Căn cứ vào mục đích tác dụng.
- Căn cứ vào đặc điểm hoạt động.
- Căn cứ kết quả hoạt động.
Trên cơ sở 3 căn cứ đã nêu ta có thể khái quát phân biệt chúng qua bảng sau:
Phân biệt TCVĐ với các hoạt động khác
TT

Các hoạt
động


Trò chơi vận động

Bài tập thể lực

Lao động sản
xuất

Các
căn cứ

1

2

3

Mục đích
dụng

tác - Vui chơi giải trí. - Đạt thành tích
- Giáo dục giáo cao.
dưỡng.
- Giáo dục, giáo
dưỡng.
Đặc điểm hoạt - Giải trí là chính. - LVĐ lớn.
động (LVĐ)
- LVĐ không định
mức chặt chẽ.
- LVĐ không

định mức chặt
chẽ.
Kết quả hoạt - Phát triển cũng cố - Phát triển thể
động
thể chất.
chất.
- Thoả mãn tinh - Đạt thành tích
thần.
thể thao cao.

- Sản xuất của
cải vật chất.
- Đa dạng.
- Nổ lực ý chí.
- Tuỳ thuộc
năng lực cá
nhân.
- Sản xuất nhiều
của cải cho xã
hội.

II. CÁC KHUYNH HƢỚNG VẬN DỤNG TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG
Căn cứ vào tính mục đích và các đặc điểm cơ bản của nó mà hiện nay trò
chơi vận động đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chúng ta có thể đưa ra một số khuynh hướng vận dụng cơ bản trò chơi vận động
như sau:
1. Trò chơi đƣợc đƣa vào phổ biến rộng rãi trong hệ thống giáo dục
Giáo dục là một hệ thống rất rộng lớn bao gồm từ mầm non đến đại học. Sự
phát triển thể chất đối với học đường thực tế là công việc rất hệ trọng có tác dụng
rất sâu sắc và lâu dài đến các thế hệ tương lai của một dân tộc. Cùng với các

phương tiện khác như bài tập thể chất, các điều kiện vệ sinh, dinh dưỡng, lành
mạnh của tự nhiên, trò chơi vận động đã góp phần cải thiện thể chất của thế hệ
ngày nay. Việc tổ chức tập luyện theo hình thức trò chơi đã ăn sâu vào tiềm thức
của từng gia đình, tế bào của xã hội, thành một hệ thống thi đấu đa dạng phong phú
có tính chất xã hội hoá rất cao.
2. Trò chơi vận động đƣợc đƣa vào trong các lực lƣợng vũ trang
18


Hệ thống quân đội là một lực lượng to lớn bảo vệ thành quả lao động, bảo vệ
tổ quốc. Việc bồi dưỡng thể lực cho bộ đội cũng là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó
trò chơi vận động được phổ biến một cách rộng rãi đa dạng và phong phú.
3. Trò chơi vận động đƣợc đƣa vào các vùng đông dân cƣ, các lễ hội
truyền thống, trở thành hoạt động vui chơi rất bổ ích cho ngƣời dân lao động.
4. Trò chơi vận động đƣợc đƣa vào các khu an dƣỡng nghỉ mát với vai
trò là phƣơng tiện để hồi phục sức khoẻ, giải trí, thoã mãn nhu cầu hoạt động
tinh thần góp phần phát triển thể chất sau một thời gian nghỉ ngơi tỉnh
dƣỡng.
5. Trong lĩnh vực thể dục thể thao
Trong hệ thống giáo dục thể chất mà chủ yếu trong các trường chuyên nghiệp
TDTT, các trung tâm thể thao... trò chơi đã trở thành một trong các phương tiện
giáo dục có hiệu quả.
Trong trường TDTT, trò chơi vận động đã trở thành một môn học bắt buộc
trong đó trò chơi vận động đã được khai thác một cách triệt để, căn cứ vào mục
đích tác dụng đa năng của nó.
- Là một phương tiện bổ trợ cho việc phát triển các tố chất (sức nhanh, sức
mạnh, sức bền, khéo léo...) bổ trợ trực tiếp cho các môn thể thao làm rút ngắn quá
trình hình thành và phát triển kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho một môn thể thao nhất
định.
Trong một giờ học, trò chơi vận động có thể thay thế các bài khởi động

chuyên môn và ở một chừng mực nhất định, đưa người tập từ trạng thái yên tỉnh
bước vào hoạt động một cách tích cực, tránh được các chấn thương đáng tiếc.
- Trò chơi vận động là một phương tiện hồi phục sau tập luyện có tác dụng
như các bài tập thả lỏng cơ bắp.
- Xác định các đặc tính tâm lý hiếu động và tính tự giác, vô tư, hiếu thắng của
trẻ em. Ngoài ra người ta còn sử dụng trò chơi như một phương tiện góp phần
tuyển chọn VĐV trẻ cho một số môn thể thao như: Điền kinh, bóng đá...
III. PHƢƠNG PHÁP BIÊN SOẠN VÀ SÁNG TÁC TRÒ CHƠI VẬN
ĐỘNG
1. Xác định các căn cứ khi biên soạn và sáng tác một trò chơi vận động
Thực tế trò chơi vận động hiện nay rất nhiều, đa dạng và phong phú. Tuy
nhiên không nhất thiết chúng ta phải vận dụng một cách máy móc, dập khuôn. Căn
cứ vào đặc điểm, mục đích tác dụng của nó chúng ta có thể biên soạn và sáng tác
các trò chơi mới phục vụ cho công tác giảng dạy và huấn luyện của mình.
a. Căn cứ vào mục đích và tác dụng: Phải căn cứ vào mục đích và tác dụng
của nó khi chúng ta sáng tác trò chơi vận động, khi ấy trò chơi vận động mới đáp
ứng được yêu cầu của người hướng dẩn vui chơi.
b. Căn cứ vào đối tượng: phải căn cứ vào lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp của
người chơi để sáng tác trò chơi phù hợp với mục đích của đối tượng tập luyện.
Không thể cho người lớn chơi các trò chơi của các cháu mẩu giáo và ngược lại...
c. Căn cứ vào điều kiện cơ sở vật chất

19


Đó chính là địa điểm, sân bãi, dụng cụ, và các điều kiện tập luyện khác. Khi
sáng một trò chơi phải thoả mãn các điều kiện đảm bảo để trò chơi có thể được
thực hiện một cách triệt để.
2. Các bƣớc tiến hành khi biên soạn và sáng tác một trò chơi vận động
a. Đặt tên cho trò chơi: Tên trò chơi phải ngắn gọn thể hiện được trò chơi mà

chúng ta sẻ tiến hành, đôi khi tên trò chơi rất ngộ nghĩnh và gây cười.
b. Mục đích tác dụng: Nêu mục đích, tác dụng cụ thể của trò chơi nhằm giáo
dục tố chất hay bổ trợ chuyên môn cho một môn thể thao nào chẳng hạn...
c. Chuẩn bị: Nêu rõ trò chơi cần phải chuẩn bị những điều kiện vật chất như
thế nào: Sân bãi, kích thước, dụng cụ: bóng, lưới, khăn, còi... để trò chơi có thể
tiến hành được.
d. Phương pháp tiến hành một trò chơi: tuần tự thực hiện các bước: chia
đội, phương hướng di chuyển, thao tác, thực hiện các yêu cầu của giáo viên đề ra.
Kết thúc một lần chơi ra sao?
e. Luật chơi: Là những quy ước của người điều khiển vui chơi, bắt buộc
người chơi phải thực hiện một cách nghiêm ngặt. Luật đôi khi là một biện pháp để
giáo dục, cũng có đôi khi là một hình phạt mang tính chất vui vẻ bắt buộc người
tập phải chấp hành như một cuộc đấu thể thao thực sự.
g. Một số chú ý cần thiết: Đôi khi một trò chơi cũng cần lưu ý người chơi
tránh những chấn thương đáng tiếc xảy ra hoặc nhắc nhở người chơi phải tuân theo
luật (mỗi lần chơi chúng ta có thể thay đổi chút ít về luật để cuộc chơi hấp dẩn
hơn).
3. Phƣơng pháp hƣớng dẩn tổ chức lên lớp trò chơi vận động
Lên lớp trò chơi vận động cũng được tiến hành tương tự như một giờ lên lớp
thể thao bao gồm 3 phần:
a. Chuẩn bị: - Khởi động chung và chuyên môn.
b. Cơ bản:
- Giáo viên tập trung phổ biến mục đích yêu cầu nội dung của trò chơi vận
động (trò chơi này đã được biên soạn chi tiết trong giáo án giảng dạy).
- Giới thiệu và giải thích trò chơi.
- Xếp sắp đội hình và cho chơi thử, giáo viên nhắc nhở những sai lầm thường
mắc. Sau đó chia đội và tiến hành điều khiển vui chơi.
- Đánh giá kết quả sau mỗi lần chơi: Đặt ra những quy ước với các đội thắng
và thua.
Cứ tương tự mỗi trò chơi mới, giáo viên cần giảng giải, chia đội và tiến hành

theo các bước như trên.
c. Phần kết thúc
Kết thúc một buổi lên lớp trò chơi giáo viên cần có nhận xét đánh giá chất
lượng buổi tập, ra bài tập về nhà và chuẩn bị cơ sở vật chất cho các buổi lên lớp
tiếp theo.
4. Một số quy ƣớc sử dụng trong khi biên soạn và sáng tác trò chơi vận
động
a. Ký hiệu sử dụng khi sáng tác trò chơi
20


- Ký hiệu dùng cho người hướng dẩn trò chơi (giáo viên, người điều khiển):

- Người tập:

- Hướng di chuyển của người tập:

Ví dụ:

- Vạch xuất phát hoặc đích:
I
- Bóng (hay dụng cụ nào đó):

- Hướng di chuyển của bóng:
 
- Vật mốc:
x
Tuy nhiên trong biên soạn và sáng tác trò chơi nếu chúng ta thể hiện được
bằng hình vẻ người là tốt nhất. Vì vậy người chơi dể hình dung ra cách chơi, người
hướng dẩn trò chơi thuận lợi hơn khi tổ chức vui chơi cho các đối tượng.

b. Mẫu trình bày một trò chơi vận động
Trong quá trình học tập môn trò chơi vận động, người tập cần phải làm quen
với công tác biên soạn và sáng tác trò chơi, nhất là các trò chơi bổ trợ cho công tác
chuyên môn của mình sau này. Việc quy định người tập phải tìm hiểu và sáng tác
các trò chơi vận động chính là để họ vận dụng những kiến thức đã được tiếp thu
thông qua các giờ lên lớp lý thuyết và thực hành trò chơi vận động, tổ chức thực
tập hướng dẩn đồng nghiệp vui chơi với những trò chơi do chính mình biên soạn.
Để tạo ra sự thống nhất chung, chúng tôi đả tạm quy định một mẫu có tính chất văn
bản để người tập biên soạn và sáng tác một trò chơi bổ trợ chuyên môn của mình
trong thời gian học tập môn này.

TÊN TRÒ CHƠI
1. Mục đích tác dụng của trò chơi.
2. Công tác chuẩn bị.
3. Diễn biến của trò chơi (phương pháp tiến hành).
4. Luật chơi.
Những chú ý cần thiết:
Phê duyệt của bộ môn

Ngày tháng năm 200...
Người biên soạn

21


CHƢƠNG II. MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG CHỦ YẾU
Trong lĩnh vực giảng dạy và huấn luyện thể thao có rất nhiều trò chơi mà
chúng ta có thể lựa chọn hướng dẫn cho người tập tuỳ thuộc vào đặc diểm hoạt
động của các môn thể thao khác nhau. ở đây chúng tôi chỉ lựa chọn và biên soạn
một số trò chơi chủ yếu với mục đích phát triển ở người tập một số tố chất, kỹ

năng cơ bản nhằm bổ trợ cho các môn thể thao góp phần đạt hiệu quả cao trong
quá trình giáo dục thể chất và huấn luyện thể thao.
Trên cơ sở những trò chơi đã được biên soạn, giáo viên có thể sử dụng các trò
chơi do chính người tập biên soạn và bố trí hướng dẫn trong chương trình thực tập
lên lớp của học sinh. (Phần thực tập này có trong chương trình môn học).
1. Chuyền bóng qua đầu
1. Mục đích, tác dụng
Rèn luyện phản xạ nhanh nhẹn, khéo léo, chính xác trong sự phối hợp đồng
đội.
2. Chuẩn bị
- Sân rộng khoảng từ 10m x 20m trở lên.
- Bóng cần 2 quả.
- Người tham gia khoảng 20 - 30 người, chia làm 2 đội đều nhau đứng theo
hàng dọc dưới vạch xuất phát. Trước đầu hàng của mỗi đội đặt một quả bóng (trình
độ cao có thể 2, 3 quả).
3. Phương pháp tiến hành
Khi trọng tài ra lệnh bắt đầu, người đầu hàng nhanh chóng hai tay ôm bóng
lên và đưa qua đầu cho người thứ hai, người thứ hai lại tiếp tục đưa qua đầu cho
người thứ 3, cứ liên tiếp như thế cho đến người cuối cùng.
Sau khi nhận được bóng, người cuối cùng mau chóng chạy lên đầu hàng,
đứng cách người thứ nhất 1m và lại đưa bóng qua đầu cho người sau mình. Trò
chơi được tiếp tục cho đến khi mỗi người trong hàng thực hiện xong một lần chạy
ôm bóng từ dưới lên.
Khi đó người đầu hàng lúc đầu chính là người thực hiện cuối cùng, và hàng
ngũ trở lại đúng vị trí ban đầu. Đội nào xong trước là thắng cuộc.
4. Luật chơi
- Không được tung bóng qua đầu người đứng sau mình.
- Người cuối hàng chỉ được xuất phát chạy lên khi đã nhận được bóng trong
tay (không được chạy lên nhận bóng ở giữa hàng).
- Chỉ được công nhận là xong (hoàn thành nhiệm vụ) khi mỗi người trong

hàng đều có một lần chạy ôm bóng từ dưới lên và hàng ngủ chỉnh tề, bóng đủ và
đúng vị trí ban đầu.
2. Kéo co
1. Mục đích tác dụng
- Phát triển tố chất sức mạnh toàn thân, nhất là đôi tay.
- Rèn luyện ý chí quyết tâm, tinh thần đồng đội.
2. Công tác chuẩn bị
22


- Sân chơi rộng rãi, bằng phẳng, sạch sẽ, giữa sân kẻ một đoạn thẳng làm
vạch giới hạn.
- Có một dây kéo co to, chắc chắn, dài 20m hoặc 30m, 40m, giữa dây quấn
một băng vải đỏ rộng khoảng 5 đến 10m làm điểm giới hạn. Dây được kéo thẳng,
đặt xuống đất vuông góc với đoạn thẳng đã kẻ, điển quấn băng giới hạn giữa dây
được đặt đúng vào giữa đoạn thẳng giới hạn trên sân.
3. Phương pháp tiến hành
- Chia lớp ra thành hai đôi đều nhau, cho mỗi đội đứng đều ra phía hai đầu
dây, người đầu hàng đứng cách vạch giới hạn khoảng 1m đến 1,5m. Mọi người đều
cầm vào dây thật chặt, đứng ở tư thế xoạc chân chèo, so le quay mặt vào nhau.
- Cách chơi: Trọng tài cho bắt đầu, hai đội gắng sức thi nhau bám chặt dây
kéo thật mạnh, khi nào kéo được người đầu hàng của đối phương qua khỏi vạch
giới hạn là thắng cuộc và kết thúc một lần chơi.
4. Yêu cầu và luật chơi
- Chia đội phải đều.
- Mọi người đều phải quyết tâm, gắng sức, cùng hô "hai ba" kéo thật mạnh.
- Đội nào kéo được đối phương vượt qua vạch giới hạn, hoặc kéo được toàn
bộ phần dây của đối phương sang bên mình là thắng cuộc.

3. Bóng qua hầm

1. Mục đích, tác dụng
Rèn luyện tính chính xác trong vận động của đôi tay, khả năng phối hợp
hoạt động nhanh nhẹn, khéo léo của từng người và trong phối hợp đồng đội, phát
triển trí nhớ vận động.
Giáo dục ý thức tố chức, kỹ luật, sự nổ lực quyết tâm và tinh thần tập thể....
2. Công tác chuẩn bị
Sân rộng tối thiểu 10m x 25m. Bóng cần cho mỗi đội tối thiểu 1 quả. Người
chơi 20 - 25, chia ra làm hai đội đều nhau, đứng theo hàng ngang đối diện nhau và
cách nhau khoảng 5m. Trong từng đội người nọ cách người kia một sãi tay. Tất cả
đều nằm sấp chống thẳng tay, người thẳng, hai mũi bàn chân chống xuống đất.
Người đầu hàng đứng cầm bóng mặt quay vào hàng.
23


3. Phương pháp tiến hành
Khi trọng tài ra lệnh bắt đầu, người cầm bóng khéo léo lăn bóng chính xác
qua bụng những người trong hàng của mình rồi cũng nằm chống tay như những
người khác. Nếu bóng lăn trong hầm đến đâu chậm lại thì người ở đó một tay vẫn
chống đất, còn tay kia đẩy bóng đi tiếp cho đến người cuối hàng.
Người cuối hàng nhận bóng nhanh chóng ôm bóng chạy lên đứng cách người
đầu hàng khoảng 1 sải tay và lại lăn bóng như người đâu. Cứ tuần tự như thế cho
đến khi nào mỗi người trong đội đều đã thực hiện xong một lần, người cuối cùng
của mỗi đợt chơi ôm bóng chạy lên đứng vào vị trí đầu hàng và giữ bóng lại. Đội
nào xong trước, hàng ngủ chỉnh tề là thắng cuộc.
4. Luật chơi
Bóng lăn phải đi theo đường thẳng trong đường hầm đã quy định. Nếu đến
chổ nào bóng bị dừng lại hoặc bật ra thì người ở nơi đó có trách nhiệm lấy bóng về
vị trí của mình và lăn tiếp. Trường hợp như thế vẫn là hợp lệ, không bị trừ điểm.
4. Chong chóng
1. Mục đích, tác dụng

- Phát triển sức mạnh, sức bền của cơ tay và thân người.
- Rèn luyện khả năng điều khiển và phối hợp hoạy động trong khi phải thực
hiện cả hai nhiệm vụ vận động của tay và của chân ở tư thế nằm sấp chống tay.
2. Công tác chuẩn bị
- Sân rộng tối thiểu từ 5m x 5m trở lên. Trên sân có vẽ các vòng tròn với bàn
kính chừng 1,5m. Tâm vòng tròn có chấm vôi tròn rộng, bán kính chừng 20cm.
- Người chơi từ 2 người trở lên và được chia thành từng cặp.
- Trọng tài cho từng đôi vào trong vòng tròn, thực hiện tư thế nằm sấp chống
tay, hai chân của mỗi người luôn ở trong chấm vôi, hai tay chống trên đường tròn.
Thân của hai người làm thành đường thẳng chia vòng tròn làm 2 phần bằng nhau.
3. Phương pháp tiến hành
Khi trọng tài ra lệnh bắt đầu thì hai người dùng tay để di chuyển thân mình
tiến về phía bên phải, trong khi đó chân cũng xoay theo nhưng không được ra khỏi
khu vực chấm vôi ở giữa. Trong khi di chuyển, ai nhanh đuổi kịp đối phương thì
được phép dùng tay đập vào người đối phương. Mỗi đợt chơi thực hiện đến khi
VĐV mỏi không còn sức chống tay thì thôi và nghỉ cho đôi khác vào thực hiện.
4. Luật chơi
- Trong khi di chuyển đuổi nhau, thân người lúc nào cũng phải thẳng và chân
không được ra khỏi chấm vôi.
- Hai người luôn phải đuổi nhau theo cùng một hướng.
- Sau mỗi đợt chơi từng đôi có thể đổi lại hướng di chuyển cho đỡ chống mặt
và tạo điều kiện rèn luyện phát triển toàn diện.
5. Chọi cóc
1. Mục đích tác dụng
- Phát triển sức mạnh, bền của cơ đùi, sự khéo léo, nhanh nhẹn, rèn luyện khả
năng giữ thăng bằng trong quá trình vận động, di chuyển bằng hai mũi bàn chân.
- Giáo dục tính tự giác, kiên trì và kỹ luật cho người chơi.
24



2. Công tác chuẩn bị
- Sân rộng tối thiểu 6m x 10m.
- Người chơi khoảng từ 10 người trở lên, đứng theo hai hàng ngang quay mặt
vào nhau theo từng đôi một.
- Chân rộng bằng vai, ngồi xổm trên hai mũi bàn chân, lưng thẳng, hai tay
xoè thẳng và giơ cao trước mặt, hai lòng bàn tay hướng ra phía trước.
3. Phương pháp tiến hành
Khi có lệnh của trọng tài, hai người đối diện của từng đôi di chuyển linh hoạt
bằng 2 mũi bàn chân, hai bàn tay vừa tấn công vừa phòng thủ làm sao cho khỏi
mất thăng bằng, không bị ngã. Trong khi tấn công, người nào bị ngã, hoặc chống
tay, chạm gót xuống đất là bị thua điểm. Từng đôi thi đấu với nhau liên tục trong 2
-3 phút, ai được nhiều điểm là thắng cuộc.
4. Luật chơi
- Trong khi chơi, không được dứng lên, không được chạm bất cứ bộ phận nào
của cơ thể xuống đất (trừ hai mũi bàn chân).
- Khi tấn công cũng như phòng thủ chỉ dừng bàn tay đẩy, chống đỡ. Không
được ôm, cầm, nắm...nhau.
- Đội, cá nhân thua phải tự giác chấp hành các hình phạt đã thoả thuận.
Ghi chú:
- Trò chơi này có thể tổ chức thi đấu cho từng cá nhân với nhau hoặc thi đấu
giữa các nhóm, các đội.
- Có thể áp dụng luật thi đấu tính điểm hoặc thi đấu loại trực tiếp.
- Có thể tổ chức thi đấu cho cả lớp nhưng không cần chia đội.
6. Cua đá bóng
1. Mục đích, tác dụng
Phát triển tố chất nhanh nhẹn, khéo léo và phát triển sức mạnh nhất là sức
mạnh của đôi tay.
2. Công tác chuẩn bị
- Sân chơi, trên sân chơi có kẻ thành một sân bóng đá mi ni (rộng hay hẹp là
tuỳ thuộc vào đối tượng và số lượng người chơi).

- Có một vài quả bóng đá hoặc bóng chuyền.
3. Phương pháp tiến hành
- Chia lớp ra thành hai đội đều nhau, mỗi đội một bên sân và dàn quân cho
đều để sẵn sàng đá bóng. Mọi người ở tư thế ngửa người, tay và chân chống đất để
di chuyển đá bóng. Mỗi đội cử một người làm thủ môn.
- Cách chơi: Trọng tài đứng giữa sân cho hai đội tranh bóng. Mọi người ở hai
đội di chuyển ở tư thế đã nói ở trên để đá bóng vào gôn đối phương.
- Cần bố trí một số người đứng ở phía ngoài hai bên sân nhặt bóng đưa váo
sân (nếu bóng bị đá ra ngoài).
4. Yêu cầu và luật chơi
- Chia đội phải đều.
- Chỉ được di chuyển ở tư thế ngửa người, không được chạy.
25


×