Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.64 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH THỊ BÍCH TRÂM

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH THỊ BÍCH TRÂM

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số
: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH



HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi. Các số
liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

Huỳnh Thị Bích Trâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM
XÃ HỘI TỰ NGUYỆN .............................................................................................5
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................................................5
1.2. Khái quát chung về pháp luật BHXH tự nguyện ...............................................11
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ
NGUYỆN QUA THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.......29
2.1. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện...............................................29
2.2. Thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện qua thực tiễn thành phố Đà
Nẵng .........................................................................................................................42
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO
HIỂM XÃ HỘI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN QUA THỰC TIỄN CỦA THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG.......................................................................................................58
3.1. Quan điểm, yêu cầu hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ..............58

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................60
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự
nguyện .......................................................................................................................64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BHYT

: Bảo hiểm y tế


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

2.1.


Số đối tượng tham gia qua các năm (2008-2016)

43

2.2.

Số thu BHXH tự nguyện qua các năm (2008-2016)

45

2.3.

Số chi BHXH tự nguyện qua các năm (2008-2016)

46

2.4.

Thống kê các trường hợp nhận trợ cấp theo 2 chế độ từ
2008 - 2016

48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề an sinh xã hội được xem là một trong những nền tảng vững chắc cho
sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở mọi quốc gia trên thế giới. Với tư cách là
một trụ cột trong hệ thống chính sách an sinh xã hội, BHXH thực sự đã trở thành

một công cụ đắc lực và hiệu quả giúp cho Nhà nước điều tiết xã hội trong nền kinh
tế thị trường, gắn kết giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng, tiến bộ và phát
triển xã hội bền vững.
Tại Việt Nam, việc thực hiện BHXH cho mọi người lao động thông qua việc
mở rộng độ bao phủ và nâng cao hiệu quả của chính sách BHXH tự nguyện nhằm
phát huy đầy đủ vai trò trụ cột của BHXH, góp phần quan trọng không chỉ cho sự
phát triển kinh tế mà còn nhằm mục tiêu ổn định xã hội và an sinh cho mọi ngƣời
dân. Những nội dung này đã được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày
01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về một số vấn đề về chính sách
xã hội giai đoạn 2012 – 2020. Tiếp đó, tại Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày
22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
BHXH, BHYT giai đoạn 2012 – 2020 tiếp tục khẳng định và đặt ra mục tiêu “Thực
hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ BHXH, BHYT; tăng nhanh diện bao phủ
đối tượng tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện…”.
Nước ta hiện là một nước đang phát triển, lực lượng lao động khu vực phi
chính thức và lao động trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ trọng cao
(khoảng 70% lực lượng lao động của cả nước). Chính đội ngũ này đã góp phần
quan trọng vào phát triển nền kinh tế nước nhà. Chính vì vậy, việc thực hiện tốt
chính sách BHXH tự nguyện sẽ góp phần quan trọng vào việc bình đẳng, mở rộng
hơn quyền và nghĩa vụ tham gia BHXH cho người lao động.
Có thể nói việc xây dựng các quy định của pháp luật liên quan đến chế độ
BHXH tự nguyện có tầm đặc biệt quan trọng bởi hiện nay đối tượng lao động thuộc
diện tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 70% lực lượng lao động. Do đó việc
1


hoàn thiện pháp luật và thực hiện các quy định về BHXH tự nguyện có hiệu quả thì
hệ thống an sinh xã hội ở nước ta mới có thể phát triển thực sự vững chắc. Vì vậy
việc ban hành và thực hiện các quy định về BHXH tự nguyện là một vấn đề cấp
thiết và phù hợp với nguyện vọng của đại đa số người lao động. Đây là nhu cầu

chính đáng và thiết thực cần được Nhà nước và xã hội quan tâm thực hiện.
Việc nghiên cứu đề tài về thực trạng pháp luật của BHXH tự nguyện để từ đó
hoàn thiện các chính sách pháp luật có liên quan đến BHXH tự nguyện là hết sức
thiết thực và cần thiết. Xuất phát từ nhận thức về nhu cầu nói trên, với mong muốn
đóng góp một phần công sức của bản thân vào việc đánh giá thực trạng pháp luật,
đưa ra một số giải pháp thực hiện đối với BHXH tự nguyện của thành phố Đà Nẵng
hiện nay, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo và bạn bè, tác giả đã lựa
chọn đề tài: “Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện qua thực tiễn thành phố Đà
Nẵng” làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh nước ta đang tiến hành một loạt các
biện pháp an sinh xã hội nhằm đảm bảo đời sống của người lao động, các quy định
của pháp luật về an sinh xã hội liên quan đến BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
BHXH tự nguyện là một vấn đề mới tại Việt Nam nên những công trình
nghiên cứu đã được công bố về mảng đề tài này chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Tuy
nhiên nhìn chung các tác giả mới chỉ dừng lại ở một số vấn đề lý luận, tổng quan và
thực tiễn thực hiện mà chưa đi sâu vào nghiên cứu thực trạng pháp luật của Đà
Nẵng về BHXH tự nguyện. Vì vậy, với đề tài này tác giả sẽ tập trung đi sâu vào
nghiên cứu và phân tích thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về BHXH
tự nguyện để từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như thực hiện hiệu
quả chính sách BHXH tự nguyện qua thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp luận cứ khoa học cho việc đánh giá thực trạng pháp luật và đề xuất
giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật qua nghiên
2


cứu trường hợp thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận của BHXH tự nguyện; thực trạng pháp
luật về BHXH tự nguyện tại Việt Nam hiện nay; các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và thực hiện hiệu quả về BHXH tự nguyện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật
BHXH tự nguyện hiện hành, đánh giá thực trạng pháp luật BHXH tự nguyện nói
chung và việc áp dụng BHXH tự nguyện ở thành phố Đà Nẵng nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Số liệu phục vụ phân tích đánh giá thực trạng trong
thời kỳ 2008-2016 và số liệu do cơ quan BHXH thành phố Đà Nẵng cung cấp.
- Phạm vi về nội dung:
+ Các vấn đề liên quan tới việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự
nguyện, tại thành phố Đà Nẵng
+ Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới việc tham gia BHXH tự nguyện như:
Chính sách của nhà nước, thu nhập của người dân, sự quan tâm và nhận thức của
người tham gia, phí tham gia, tổ chức thực hiện và tuyên truyền, thủ tục tham gia.
- Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện ở thành phố Đà Nẵng
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, các văn bản pháp
luật của Nhà nước về BHXH tự nguyện và quan điểm của Tổ chức Lao Động Quốc
tế ILO về BHXH tự nguyện qua một số Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như:
phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, diễn giải, quy nạp ... những phương pháp
3



trên không sử dụng độc lập mà đan xen và kết hợp với nhau để làm cơ sở khoa học
cho việc nghiên cứu đề tài.
* Phương pháp tổng hợp thông tin
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả đã sử dụng
phương pháp này nhằm tổng hợp các thông tin, số liệu liên quan được dùng cho
việc phân tích, đánh giá tình hình tham gia BHXH tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng
được lấy trong khoảng thời gian từ năm 2008 – 2016.
* Phương pháp phân tích thông tin
Tác giả sử dụng phương pháp này dùng để so sánh đối chiếu các chỉ tiêu
thống kê, so sánh sự khác nhau về tình hình tham gia BHXH tự nguyện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã phân tích được những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH tự
nguyện như khái niệm, đặc điểm, vai trò, sự điều chỉnh của pháp luật đối với
BHXH tự nguyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã phân tích và đánh giá được thực trạng pháp luật về BHXH tự
nguyện tại Đà Nẵng hiện nay.
Luận văn cũng đã đưa ra những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện các
quy định pháp luật về BHXH tự nguyện đồng thời nâng cao hiệu quả việc thực hiện
BHXH tự nguyện.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ
cấu thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về pháp luật BHXH tự nguyện
Chương 2. Thực trạng pháp luật BHXH tự nguyện qua thực tiễn thực hiện ở
thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật BHXH tự nguyện qua thực tiễn của thành phố Đà Nẵng
4



CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa BHXH tự nguyện

Con người muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải lao động để tạo ra các giá
trị giúp thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, không
phải lúc nào cuộc sống của con người cũng thuận lợi, có thu nhập thường xuyên,
sức khỏe ổn định mà nó luôn tiềm ẩn những nguy cơ, rủi ro như: thiên tai, lũ lụt,
ốm đau, tai nạn, những biến động xã hội,… và không ai tránh được quy luật sinh lão
bệnh tử. Để tạo ra cơ chế hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị
giảm hoặc mất khả năng lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, các nước trên
thế giới ngay từ rất sớm đã xây dựng các loại hình BHXH.
BHXH bắt buộc là loại hình được áp dụng cho những người làm việc trong
khu vực chính thức, bao gồm: cán bộ, công chức Nhà nước và những người lao
động có quan hệ lao động ổn định. Đối với loại hình này, cả hai bên trong quan hệ
lao động (người lao động và người sử dụng lao động) đều có trách nhiệm tham gia
đóng góp tạo dựng quỹ BHXH bắt buộc. Ở Đức, người tham gia BHXH bắt buộc
gồm người lao động có mức thu nhập đạt tới mức quy định; người về hưu; người
thất nghiệp; học sinh, sinh viên; nông trang viên; người hoạt động nghệ thuật. Ở
quốc gia này, công chức Nhà nước không phải đóng BHXH theo tiền lương cá
nhân, nhưng phải đóng thuế chung, trong đó có phần để đảm bảo các chế độ hưu.
Công chức có thể tham gia vào hệ thống BHXH tư nhân để có mức thụ hưởng cao
hơn (ngoài mức do hệ thống của Nhà nước chi trả). Có nhiều tổ chức cùng tham gia
thực hiện các chế độ BHXH, trong đó có các tổ chức BHXH tư nhân, đã giúp cho
hoạt động BHXH có hiệu quả hơn, người lao động có cơ hội được thụ hưởng
BHXH tốt hơn. Với mô hình tự quản này, có thể có một số cơ quan BHXH khác

nhau, thực hiện cho các nhóm đối tượng khác nhau như BHXH cho những người
5


lao động trong ngành đường sắt, BHXH cho lao động ngành hàng không, BHXH
cho cảnh sát và quân đội…[25]
Với mong muốn đảm bảo cuộc sống tốt hơn cho người nông dân và lao động
tự do, BHXH tự nguyện đã ra đời và bắt đầu thực hiện từ năm 2008. Có thể nói
BHXH tự nguyện được kỳ vọng là chỗ dựa cho người thu nhập thấp, đem đến cơ
hội hưởng “lương hưu” cho hàng chục triệu người không nằm trong diện bảo hiểm
bắt buộc. Việc xây dựng chế độ BHXH tự nguyện là rất cần thiết, nhằm áp dụng
cho đối tượng không thuộc diện làm công ăn lương, không được bảo vệ bởi bảo
hiểm xã hội bắt buộc, những đối tượng làm nghề tự do, những người nông dân, ...
mà trong nền kinh tế thị trường của chúng ta hiện nay, đối tượng này rất rộng lớn.
Trải qua quá trình thực hiện BHXH tự nguyện càng chứng tỏ đây là chính sách quan
trọng của Đảng và Nhà nước. Mục tiêu thực hiện việc mở rộng độ bao phủ và nâng
cao hiệu quả của chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam chính là phát huy đầy đủ
vai trò trụ cột của BHXH, góp phần quan trọng không chỉ cho sự phát triển kinh tế
mà còn nhằm mục tiêu ổn định xã hội và an sinh cho mọi người dân.
Trong khoản 3 điều 3 Luật BHXH 2006 thì BHXH tự nguyện được định
nghĩa:
“Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình BHXH mà người lao động tự
nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu
nhập của mình để hưởng BHXH”.
Tuy nhiên, định nghĩa BHXH tự nguyện theo Luật BHXH 2006 lại chưa thực
sự chỉ rõ được tính chất, tầm quan trọng và tính cụ thể của loại hình này; gây khó
khăn nhất định trong việc hình dung cũng như nắm bắt của người tham gia đối với
loại hình này. Để giải quyết những vướng mắc còn tồn tại trong Luật BHXH 2006,
Luật BHXH 2014 đã có một quy định mới với nhiều nét cụ thể và rõ ràng hơn đó là:
“BHXH tự nguyện là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia,

được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và
Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để người tham gia hưởng chế độ
hưu trí và tử tuất”.
6


Như vậy, có thể xác định được rõ ràng chủ thể tổ chức thực hiện BHXH tự
nguyện là Nhà nước thông qua cơ chế đại diện là các cơ quan BHXH ở các cấp. Và
thực chất BHXH tự nguyện là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung
được tích lũy dần do sự đóng góp tự nguyện của người lao động nhằm đảm bảo thu
nhập để thoả mãn nhu cầu sinh sống thiết yếu cho người lao động và gia đình họ khi
gặp phải những rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập, góp phần đảm bảo an toàn xã
hội. Bên cạnh việc giữ nguyên quyền được chọn mức và phương thức đóng phù hợp
với thu nhập của người tham gia thì định nghĩa về BHXH tự nguyện theo Luật mới
còn đề cập đến chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm khuyến khích thêm nhiều các
đối tượng khác trong xã hội tham gia BHXH tự nguyện, đồng thời thể hiện đây là
một chính sách BHXH có ý nghĩa sâu sắc của Nhà nước nhằm tạo cơ hội cho người
tham gia đều có thể được hưởng hai chế độ cốt lõi của BHXH tự nguyện.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội tự nguyện

Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình BHXH, do đó mang đầy đủ các
đặc điểm của BHXH nói chung.
Thứ nhất, người lao động khi tham gia BHXH được đảm bảo thu nhập (bảo
hiểm) cả trong và sau quá trình lao động. Nói cách khác, khi tham gia vào quan hệ
BHXH và đảm bảo các điều kiện luật định, người lao động được bảo hiểm cho tới
lúc chết.
Thứ hai, các sự kiện bảo hiểm trong BHXH liên quan đến thu nhập của
người lao động gồm: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc
làm, già yếu, chết...
Thứ ba, người lao động khi tham gia BHXH có quyền được hưởng trợ cấp

BHXH, tuy nhiên quyền này chỉ có thể trở thành hiện thực khi họ thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ đóng BHXH.
Bên cạnh những đặc điểm trên, BHXH tự nguyện còn mang những nét đặc
trưng riêng có như sau:
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện thường không có quan hệ lao động
chính thức, đa phần là những người lao động tự tạo việc làm, nông dân, ngư dân và
7


lao động tự do.
Việc tham gia BHXH tự nguyện mang tính chất tự nguyện, phụ thuộc vào ý
chí của chủ thể tham gia.
BHXH tự nguyện còn có tính linh hoạt trong thiết kế chế độ, cách thức đóng
phí phù hợp với nhu cầu của người tham gia.
BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc đều là một bộ phận tạo thành hệ thống
chế độ chính sách BHXH hoàn chỉnh của Đảng và Nhà nước, cùng thực hiện các
chế độ BHXH do Nhà nước ban hành , quản lý, bảo hộ và cùng thực hiện. Hai chính
sách này cùng mục tiêu là bảo vệ che chắn, ổn định cuộc sống cho người lao động
khi họ bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập do khả năng lao động bị giảm hoặc mất ;
bằng nguồn trợ cấp từ quỹ BHXH , góp phần đảm bảo công bằng và an sinh xã hội
Tuy nhiên, 2 loại hình BHXH này cũng có sự khác biệt nhau về nguồn hình
thành quỹ và nội dung. BHXH bắt buộc do cả người sử dụng lao động và người lao
động đóng có sự bảo hộ của nhà nước nên nguồn quỹ này tương đối lớn và ổn định,
mức trợ cấp BHXH khá cao. BHXH tự nguyện chủ yếu do những người lao động có
thu nhập thấp và không ổn định đóng góp nên quỹ ban đầu nhỏ bé và lâu dài, kém
ổn định hơn. BHXH bắt buộc dành cho những người từ 40-45 tuổi tham gia BHXH
đủ thời gian tối thiểu đóng BHXH để được hưởng chế độ hưu trí. Khi về hưu, nếu
không đủ, họ sẽ tham gia BHXH tự nguyện để được hưởng chế độ hưu trí hàng
tháng. Khi tham gia BHXH tự nguyện thì quá trình tham gia có người lao động,
người sử dụng lao động và tổ chức BHXH. Còn chủ thể tham gia quá trình đóng

BHXH tự nguyện chỉ gồm người tham gia BHXH tự nguyện và tổ chức BHXH.
Mức đóng, phương thức đóng BHXH tự nguyện linh hoạt hơn BHXH bắt buộc và
người tham gia BHXH tự nguyện được tạm dừng đóng BHXH tự nguyện mà không
cần lý do.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện

BHXH là trụ cột chính, là xương sống trong hệ thống an sinh xã hội, đem lại
chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống của người lao động, góp phần đảm bảo an toàn xã
hội. Vì vậy, cùng với các loại hình BHXH khác, BHXH tự nguyện có vai trò quan
8


trọng đối với người lao động cũng như sự phát triển bền vững của xã hội nói chung.
Trước hết, BHXH tự nguyện có vai trò quan trọng đối với người lao động.
Do đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là những người lao động tự do, hầu như
không có quan hệ lao động với chủ sử dụng lao động, thu nhập thường thấp, không
ổn định như: nông dân, những người kinh doanh, buôn bán tự do,…
Thứ hai, việc tham gia BHXH tự nguyện còn giúp người lao động có ý thức
trong việc tiết kiệm đầu tư những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần
thiết chi dùng khi già cả, mất sức lao động, góp phần ổn định cuộc sống cho bản
thân và gia đình.
Thứ ba, BHXH tự nguyện tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng
đồng xã hội, cùng truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội và
góp phần thực hiện công bằng xã hội, phân phối lại thu nhập xã hội trên cơ sở sự
tương trợ để thiết lập hệ thống an sinh xã hội bền vững.
Thứ tư, người lao động có quyền lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù
hợp với thu nhập của mình và người lao động hoàn toàn tự nguyện tham gia BHXH
tự nguyện để được hưởng các chế độ bảo hiểm theo quy định của nhà nước. Khi
tham gia vào BHXH tự nguyện thì mức đóng góp được chia cho người sử dụng lao
động và người lao động; tỷ lệ đóng góp của các bên khác nhau tuỳ thuộc vào sự

thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia BHXH tự
nguyện thông qua việc người sử dụng lao động trả lương cho người lao động để
người lao động tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện.
1.1.4. Bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện

BHXH ra đời là nhu cầu khách quan và là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế.
Ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển như Nhật, Đức, Anh, Canada…, BHXH
phát triển vững mạnh, cùng với hệ thống BHXH đa dạng, với nhiều loại hình
BHXH phong phú.
Tính chất của BHXH là quá trình tổ chức đền bù hậu quả của những rủi ro xã
hội hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ
chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung, hình thành do sự đóng góp của các bên tham
9


gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH, nhằm: Bù đắp hoặc
thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng;
Góp phần bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp
phần bảo đảm an toàn xã hội.
BHXH nhằm bù đắp những thiệt hại, rủi ro cho người lao động và gia đình
họ khi gặp những biến cố trong cuộc sống, BHXH nói chung và BHXH nói riêng
mang bản chất kinh tế và mang bản chất xã hội.
- Tính kinh tế của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Bản chất kinh tế của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng thể
hiện ở việc người tham gia BHXH tự nguyện đóng góp một khoản tiền để hình
thành nên quỹ dự trữ. Nguồn quỹ dự trữ này được dùng để trợ cấp cho những người
tham gia BHXH tự nguyện khi gặp rủi ro dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập. BHXH
tự nguyện tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải
các rủi ro thuộc phạm vi BHXH mà họ tham gia. Chính vì vậy, về mặt kinh tế

BHXH tự nguyện là một hình thức tổ chức, phân phối lại thu nhập, góp phần thực
hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. Quỹ Bảo
hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành nên GDP của mỗi quốc gia, được phân phối
lại cho những thành viên trong xã hội khi phát sinh nhu cầu về BHXH như ốm đau,
sinh đẻ, già yếu, chết... sự phân phối thu nhập có thể thực hiện giữa người trẻ và
người già, giữa những người khỏe mạnh với người ốm đau, giữa người có thu nhập
cao với người có thu nhập thấp hoặc phân phối giữa bản thân người lao động và gia
đình họ. Chính nhờ sự phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và
gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội.
Tóm lại, bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện chính là việc hình thành và
sử dụng quỹ BHXH tự nguyện góp phần tổ chức, phân phối lại thu nhập, nhằm bảo
đảm đời sống của người lao động và gia đình họ trước những bất trắc, rủi ro xã hội.
- Tính xã hội của bảo hiểm xã hội tự nguyện
"BHXH và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính
10


của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội". Về mặt xã hội, BHXH
nói chung và BHXH tự nguyện với mục tiêu không vì lợi nhuận, mà vì mục tiêu xã
hội. Người tham gia BHXH tự nguyện được chia sẻ rủi ro và được thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Quỹ BHXH tự
nguyện thực hiện theo nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” đã góp phần trang trải
những rủi ro khi xảy ra cho người lao động và gia đình họ. Mặc dù người lao động
đóng một khoản tiền nhỏ trong thu nhập của mình, nhưng được bồi hoàn một khoản
thu nhập đủ lớn từ nguồn quỹ BHXH tự nguyện, nhờ đó đã chia sẻ, giúp cho người
lao động và gia đình họ trang trải rủi ro khi thu nhập của họ bị giảm hay bị mất.
Như vậy, về mặt xã hội, BHXH tự nguyện hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận, là một trong những chính sách xã hội, góp phần thực hiện chính sách xoá đói
giảm nghèo của đất nước, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần

ổn định đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, giữa bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH tự nguyện
đan xen lẫn nhau, không tách rời nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người
lao động và gia đình của họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH tự nguyện, và
ngược lại, khi nói đến sự đóng góp một khoản kinh phí nhỏ từ thu nhập nhưng lại
đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH tự
nguyện.
1.2. Khái quát chung về pháp luật BHXH tự nguyện
1.2.1. Nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.1.1. Nguyên tắc tự nguyện
Bảo hiểm xã hội tự nguyện thực hiện trên cơ sở tự nguyện của người tham
gia. Người tham gia BHXH tự nguyện được lựa chọn mức đóng và phương thức
đóng phù hợp với thu nhập của mình.
Theo nguyên tắc này, việc tham gia hay không tham gia là hoàn toàn do
người tham gia quyết định. Mức đóng được tính dựa trên cơ sở mức thu nhập tháng
do người tham gia lựa chọn, phương thức đóng theo nhu cầu và khả năng của bản
11


thân trên cơ sở những khung quy định.Với đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là
hầu hết người lao động không có quan hệ lao động, cho nên nguồn hình thành quỹ
BHXH tự nguyện không phải do nhiều bên đóng góp mà sự đóng góp của chính bản
thân người lao động và khả năng đầu tư phần tiền nhàn rỗi của Quỹ.
Luật BHXH 2014 quy định mức đóng và phương thức đóng BHXH tự
nguyện của người lao động cũng thể hiện rõ nguyên tắc tự do ý chí của người tham
gia BHXH tự nguyện.
Đây là nguyên tắc đặc trưng của BHXH tự nguyện xuất phát từ đối tượng
của loại hình BHXH này do rất khó quản lý những lao động ở khu vực phi chính
thức, cũng như các đối tượng này thường là những người có thu nhập không ổn
định, do đó cần tạo điều kiện để phù hợp với nhu cầu tham gia của họ.

Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng đóng
BHXH nhưng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 tháng
lương tối thiểu chung.
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện thường là những người nông dân,
người lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức và người nghèo, đời sống và
thu nhập của họ bấp bênh, không ổn định. Vì vậy, để tạo điều kiện cho những đối
tượng này có đủ điều kiện tham gia BHXH tự nguyện thì các quy định về BHXH tự
nguyện phải linh hoạt. Sự linh hoạt thể hiện rõ nhất ở các quy định về mức đóng,
phương thức đóng, và mức hưởng bảo hiểm.
Khác với BHXH bắt buộc, mức đóng được tính trên cơ sở tiền công, tiền
lương, mức đóng trong BHXH tự nguyện thường được tính trên cơ sử mức thu nhập
của người lao động. Người lao động tham gia BHXH tự nguyện thường có quan hệ
lao động không ổn định. Để có một mức thu nhập nhất định trong một tháng họ phải
làm nhiều công việc khác nhau, ở nhiều nơi khác nhau, thu nhập giữa các tháng
cũng khác nhau. Bởi vậy để thuận tiện cho người lao động thì việc quy định mức
đóng của BHXH tự nguyện dựa trên cơ sở mức thu nhập là phù hợp và linh hoạt.
Phương thức đóng cũng phải linh hoạt để người lao động tham gia có thể lựa chọn.
Họ có thể đóng bảo hiểm hàng tháng, hàng quý, hoặc sáu tháng một lần, thậm chí
12


một năm một lần. Vì thu nhập bấp bênh, nên họ không thể có mức đóng ổn định, họ
có thể tạm ngừng đóng BHXH mà không cần lý do. Chính vì vậy, mức hưởng của
người tham gia BHXH tự nguyện cũng rất đa dạng, cần được tính toán phù hợp,
đảm bảo lợi ích của người tham gia bảo hiểm. Mức hưởng BHXH tự nguyện cần
được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH. Quy định mức hưởng như
vậy mới phù hợp, vừa đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, vừa cân đối
được thu – chi của quỹ BHXH tự nguyện.
Tuy nhiên, không có quyền lợi nào là tuyệt đối, ngoài việc quy định về
BHXH tự nguyện một cách linh hoạt, cũng cần trong một giới hạn nhất định, như

vậy mới cân đối được lợi ích của các chủ thể trong quan hệ BHXH tự nguyện, lợi ích
của người lao động mới được lâu dài, bền vững. Ví dụ như theo quy định của Pháp
luật Việt Nam, mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng
đóng BHXH nhưng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng 20
mức lương tối thiểu chung. Sở dĩ phải quy định mức thấp nhất bằng mức lương tối
thiểu chung để tin tưởng rằng cuộc sống của người lao động khi về già và nghỉ hưu
vẫn được đảm bảo dù họ làm công việc giản đơn nhất. Pháp luật giới hạn mức đóng
bảo hiểm để tránh tình trạng hưởng bảo hiểm nhưng phải đóng thuế thu nhập.
Theo chỉ thị số 34/CT-TTg được ban hành ngày 26/12/2016, từ ngày
1/1/2018, người tham gia BHXH tự nguyện được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng bằng
10% của mức đóng theo chuẩn nghèo khu vực nông thôn. Trường hợp người lao
động thuộc diện cận nghèo thì mức hỗ trợ là 25% (tương ứng với 38.500
đồng/tháng); người lao động thuộc diện nghèo thì mức hỗ trợ là 30% (tương ứng
46.200 đồng/tháng)
1.2.1.2. Mức hưởng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH tự nguyện
Quyền được hưởng BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện
cụ thể của quyền con người. Biểu hiện cụ thể quyền được hưởng BHXH của người
lao động là việc họ được hưởng chế độ trợ cấp BHXH theo các chế độ xác định.
Các chế độ này gắn với các trường hợp người lao động hoặc bị giảm khả năng lao
13


động hoặc mất việc làm do đó bị giảm hoặc mất nguồn sinh sống. BHXH là thu
nhập khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất
hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát
triển đến mức nào đó. Nền kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn
thiện, càng chứng tỏ được những mặt ưu điểm hơn. Đóng vai trò như một vị cứu
tinh cho NLĐ khi họ gặp phải những rủi ro làm giảm thu nhập trong cuộc sống. Có
thể nói nhu cầu về BHXH thuộc về nhu cầu tự nhiên của con người. Xuất phát từ

nhu cầu cần thiết để đảm bảo cho các tiêu chuẩn hay giá trị cho cuộc sống tối thiểu.
Ý nghĩa xã hội của BHXH tự nguyện thể hiện ở chỗ người lao động có quyết
định tham gia hay không, chính vì lẽ đó BHXH tự nguyện được thực hiện với
nguyên tắc là không bắt buộc người lao động phải tham gia, đây vừa là nguyên tắc
vừa là mục tiêu chung hướng tới việc người lao động ai cũng có cơ hội được hưởng
BHXH. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho người lao động làm việc trong bất kỳ
thành phần kinh tế nào, bất kỳ loại hình tổ chức lao động nào. Khi có đủ điều kiện,
dấu hiệu phát sinh quan hệ BHXH thì đều được hưởng quyền lợi về BHXH không
phân biệt hình thức pháp lý làm phát sinh quan hệ lao động, giới tính, tuổi tác …
Mặt khác, việc quy định số lượng các chế độ BHXH hay nói cách khác khả
năng khống chế, khắc phục các rủi ro đến đâu còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế
xã hội cụ thể.
1.2.1.3. Người vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở tổng thời
gian đã đóng BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện
Theo đó thì đối với trường hợp người lao động vừa tham gia bảo hiểm bắt
buộc, vừa tham gia bảo hiểm tự nguyện thì sẽ được hưởng chế độ hưu trí và tử tuất
trên cơ sở thời gian đã đóng BHXH (gộp tất cả thời gian đã đóng BHXH tự nguyện
và bắt buộc lại sao cho đủ 20 năm đóng BHXH).
1.2.1.4. Quỹ BHXH tự nguyện được nhà nước quản lý thống nhất, dân chủ,
công khai, minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và hạch toán độc lập
BHXH là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội,
14


nó chứa đựng cả một nội dung kinh tế, nội dung xã hội và nội dung pháp lý. Để đảm
bảo thực hiện hài hoà các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu mà BHXH đặt ra
thì việc thực hiện BHXH trước hết là trách nhiệm thuộc về Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước đã thể hiện thông qua việc Nhà nước giữ vai trò trực
tiếp tổ chức, chỉ đạo và quản lý toàn bộ sự nghiệp BHXH trong đó có cả BHXH tự

nguyện và BHXH bắt buộc. Trách nhiệm đã thể hiện: Nhà nước là người trực tiếp tổ
chức, chỉ đạo và quản lý toàn bộ sự nghiệp BHXH thông qua việc ban hành các quy
định pháp luật về BHXH và kiểm tra việc thực hiện các quy định đó. Nhà nước tuỳ
theo điều kiện kinh tế xã hội định chính sách quốc gia về BHXH, nhằm từng bước ở
từng thời kỳ mà quy mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn định
đời sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động bị suy giảm khả
năng lao động hoặc gặp các rủi ro, khó khăn khác như: chết, tai nạn, thất nghiệp …
Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Hiến pháp 1992, điều 56. Tuy nhiên,
Điều 55, 56 Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung thành điều 35 Hiến pháp
2013 đã bỏ quy định “Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm
cho người lao động”. Điều này cho thấy, BHXH tự nguyện dựa trên sự tự nguyện
tham gia của người lao động là chủ yếu, mặc dù là tự nguyện nhưng theo quy định
của pháp luật thì Nhà nước vẫn nắm giữ vai trò quản lý và tổ chức thực hiện loại
hình BHXH này.
Như vậy, có thể nói người lao động được Nhà nước tạo đầy đủ các điều kiện
để có thể thực hiện tốt công việc của mình, ngoài việc tổ chức thực hiện BHXH tự
nguyện thì Nhà nước còn có chính sách hỗ trợ để người lao động để có thể thu hút
thêm số lượng người tham gia loại hình BHXH này, nhằm đảm bảo tốt hơn cho đời
sống của chính người lao động.
1.2.1.5. Việc thực hiện BHXH tự nguyện phải đơn giản, thuận tiện, bảo đảm
kịp thời và đầy đủ
Tích cực cải cách thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin vào quản lý BHXH, đổi mới phong cách phục vụ chuyển từ hành chính sang
phục vụ, người làm công tác BHXH phải tìm đến đối tượng phục vụ, giúp họ tiếp
15


cận tốt nhất với việc tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, đồng thời giảm thời
gian, chi phí thực hiện thủ tục BHXH; đa dạng hóa các hình thức chi trả lương hưu,
trợ cấp BHXH; mở rộng mạng lưới tổ chức dịch vụ phục vụ thuận lợi đối với cá

nhân, tổ chức khi giao dịch BHXH. Công tác thẩm định xét duyệt các chế độ
BHXH ngắn hạn luôn được thực hiện đúng quy định, tạo thuận lợi cho người lao
động, các đơn vị sử dụng lao động đến liên hệ làm việc được dễ dàng, nhanh gọn,
đúng thời gian.
1.2.2. Nội dung của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.2.1. Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện
BHXH là một trụ cột cơ bản nhất và có mối quan hệ mật thiết với các bộ
phận khác, nhằm góp phần thực hiện an sinh xã hội đất nước. Việc thực hiện chính
sách BHXH còn chịu tác động của nhiều yếu tố như: trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, khả năng tài chính, các yếu tố về cơ chế, chính sách, thể chế, pháp
luật và trình độ nhận thức của người dân. Khi dân số tăng hoặc giảm sẽ làm cho cơ
cấu dân số thay đổi. Điều này sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu, quy mô của đối tượng tham
gia BHXH.
BHXH tự nguyện cũng là một trong những bộ phận cấu thành nên chính sách
an sinh xã hội. Quan hệ BHXH tự nguyện cũng tương tự như BHXH nói chung đều
có sự tham gia của các chủ thể sau:
 Chủ thể tham gia BHXH tự nguyện.
 Chủ thể được hưởng BHXH tự nguyện.
 Chủ thể thực hiện BHXH tự nguyện.
Chủ thể tham gia BHXH tự nguyện
Chủ thể tham gia BHXH tự nguyện là người đóng góp phí BHXH để bảo
hiểm cho mình hoặc cho người khác được BHXH. Theo quy định của pháp luật
Việt Nam, chủ thể tham gia BHXH là người sử dụng lao động, người lao động và
trong chừng mực nào đó có cả nhà nước. Tuy nhiên hiểu theo nghĩa rộng thì người
sử dụng lao động cũng có thể là người gián tiếp tham gia BHXH tự nguyện.
Người sử dụng lao động có thể là tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ
16


trang trại, cá nhân có sử dụng lao động... Người sử dụng lao động tham gia gián tiếp

BHXH tự nguyện bằng hình thức là trả một khoản cố định với tiền lương tháng cho
người lao động để họ tham gia BHXH tự nguyện.
Chủ thể tham gia BHXH chủ yếu là người lao động. Người lao động có thể
tự nguyện lựa chọn tham gia một hoặc một vài chế độ hoặc tất cả các chế độ BHXH
tự nguyện mà Nhà nước tổ chức. Người lao động là tất cả những người trong độ
tuổi lao động, kể cả những người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Cụ thể gồm
các đối tượng chính sau đây:
- Người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc nhưng thực tế họ lại
không được tham gia vì nhiều lý do khác nhau.
- Lao động làm việc trong các đơn vị không có quan hệ lao động, có nguyện
vọng tham gia BHXH tự nguyện.
- Lao động làm việc trong các doanh nghiệp có quan hệ lao động, không
thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc; những người làm công ăn lương theo
hình thức hợp đồng lao động dưới 3 tháng.
Như vậy, đối tượng người lao động không thuộc diện BHXH bắt buộc chiếm
tỷ lệ khá cao. Do đó, đòi hỏi chính sách BHXH tự nguyện cần phù hợp với nhu cầu
và khả năng tham gia đóng góp của những người lao động. Đồng thời, cần nghiên
cứu cụ thể hơn những đặc điểm của từng ngành nghề, tính chất và mức độ thu nhập
của người lao động để xây dựng các chế độ BHXH tự nguyện phù hợp nhằm mở
rộng hơn nữa các chủ thể tham gia BHXH tự nguyện.
Chủ thể được hưởng BHXH tự nguyện
Chủ thể được hưởng BHXH là người lao động hoặc thành viên gia đình họ
khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Để
được hưởng một chế độ BHXH tự nguyện, người lao động hoặc thân nhân của
người lao động phải đảm bảo những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật
như căn cứ vào thời gian tham gia BHXH tự nguyện, độ tuổi của người lao động.
Khi đảm bảo được các điều kiện theo quy định thì người lao động hoặc thành viên
trong gia đình họ sẽ được hưởng các chế độ BHXH tự nguyện tương ứng. Khi tham
17



gia BHXH tự nguyện không chỉ bản thân người lao động được hưởng các chế độ
BHXH tự nguyện mà những thành viên trong gia đình họ cũng được hưởng các chế
độ tương ứng, với điều kiện những thành viên trong gia đình họ là người trực tiếp
được hưởng thu nhập của người lao động.
Chủ thể thực hiện BHXH tự nguyện
Chủ thể thực hiện BHXH tự nguyện là các cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức thực
hiện chức năng thu, quản lý và chi trả bảo hiểm cho người được BHXH tự nguyện
theo quy định của pháp luật. Ở nước ta chủ thể thực hiện BHXH tự nguyện là cơ
quan BHXH; hoạt động của cơ quan BHXH được nhà nước thống nhất quản lý, tổ
chức thực hiện và được kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Hiện nay, một số nước trên thế
giới, chủ thể tổ chức thực hiện BHXH chủ yếu do nhà nước thành lập hoặc có thể
do các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội hoặc tư nhân lập ra theo quy
định pháp luật của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam hệ thống cơ quan BHXH được thống
nhất từ trung ương đến địa phương. Trong đó, hệ thống bảo hiểm xã hội ở cơ sở, ở
địa phương có ý nghĩa, vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo đầy đủ, kịp thời
các khoản trợ cấp cho người được hưởng bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, cơ quan BHXH còn chịu trách nhiệm trước nhà nước về thực hiện BHXH
đối với người lao động theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về tài
chính, vật chất đối với người được bảo hiểm khi họ có đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật.
1.2.2.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện
Các chế độ BHXH tự nguyện là các quyền lợi mà người tham gia tự nguyện
được hưởng khi có đủ các điều kiện bảo hiểm phát sinh.
Việc xác định đối tượng tham gia, xác định các chế độ BHXH tự nguyện
thuộc nhu cầu tham gia và trình độ quản lý rủi ro của từng nước. Tuy nhiên, việc
xây dựng và thực hiện các chế độ BHXH tự nguyện ở các quốc gia đều dựa vào các
quy định của Công ước số 102 về các chế độ của BHXH đã được tổ chức lao động
quốc tế (ILO) thông qua ngày 28/6/1952 và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của
mỗi quốc gia.

18


Theo quy định của ILO trong Công ước 102, để đảm bảo mức tối thiểu, thì
trong BHXH các nước thành viên cần lựa chọn ít nhất là ba trong chín chế độ sau:
Chăm sóc y tế; trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp hưu trí; trợ cấp tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp thai sản; trợ cấp tàn tật; trợ
cấp tiền tuất. Trong đó, phải có ít nhất một trong các chế độ: bảo hiểm thất nghiệp,
hưu trí, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật và tiền tuất. Như vậy, ILO không
quy định rõ là BHXH tự nguyện phải áp dụng chế độ nào. Bởi vậy, các chế độ
BHXH tự nguyện được áp dụng linh hoạt tùy theo điều kiện của từng nước. Tuy
nhiên đa số các nước trên thế giới đều lựa chọn chế độ hưu trí và chế độ tử tuất cho
BHXH tự nguyện. Bởi đây là hai chế độ BHXH mang tính dài hạn và thu hút được
nhiều người tham gia.
* Chế độ hưu trí
Đúng như tên gọi của nó, bảo hiểm hưu trí tự nguyện hoạt động dựa trên
nguyên tắc tự nguyện. Trên cơ sở đóng phí, người được bảo hiểm bắt đầu nhận
quyền lợi bảo hiểm hưu trí khi đạt đến tuổi theo quy định của Pháp luật. Nữ giới sẽ
bắt đầu nhận quyền lợi của mình ở tuổi 55 và nam giới là 60 tuổi.
Độ tuổi nhận quyền lợi hưu trí này cũng trùng với độ tuổi nhận lương hưu từ
quỹ bảo hiểm hưu trí bắt buộc. Số tiền bảo hiểm sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm chi
trả định kỳ đến khi người được bảo hiểm tử vong hoặc tối thiểu trong 15 năm, tùy
theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm. Mức hưởng quyền lợi bảo hiểm mỗi kỳ và
số kỳ nhận tiền bảo hiểm cũng rất linh hoạt, tùy theo thỏa thuận giữa người mua bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Khi tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện, mỗi
người lao động sẽ có một tài khoản bảo hiểm hưu trí riêng. Phần quyền lợi hưu trí
chưa chi trả cho bên mua bảo hiểm sẽ được tính lãi tích lũy. Theo quy định của Bộ
Tài chính, lãi này không được thấp hơn lãi suất đầu tư cam kết tối thiểu thoả thuận
tại hợp đồng bảo hiểm.
Bên cạnh đó, khi tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện, tùy theo nhu cầu và

khả năng tài chính của bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể nhận thêm
các quyền lợi bảo hiểm hỗ trợ như: Quyền lợi điều chỉnh mức hưởng quyền lợi hưu
19


×