Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp áp dụng trên địa bàn tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 114 trang )

1

MỞ ĐẦU
1.

đề à
Toàn cầu hoá là một xu thế hiện đang phát triển mạnh và lan rộng ra hầu

hết các nước trên toàn thế giới. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế tạo cơ hội để
các quốc gia có thể tận dụng và phát huy lợi thế so sánh của mình, thúc đẩy,
duy trì tăng trưởng bền vững, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội nhờ việc
phân bổ các nguồn lực có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, cần nhận thức rằng toàn
cầu hoá là quá trình phân chia lại thị trường thế giới bằng biện pháp kinh tế.
Mức độ cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài ngày càng gay
gắt do thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường. Chính vì vậy, khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ là yếu tố quan trọng nhất quyết định một quốc
gia sẽ là “người hưởng lợi” hay “kẻ chịu thiệt” trong quá trình toàn cầu hoá.
Như vậy thì nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu
khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới, và nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là một nội dung cần được quan
tâm. Nếu không làm được điều này, doanh nghiệp không chỉ thất bại trên “sân
khách” mà còn gánh chịu hậu quả tương tự trên chính “sân nhà”.
Trải qua hơn 20 năm đổi mới, ngành xây dựng đã có những bước tiến
đáng kể theo hướng hiện đại. Không chỉ trong lĩnh vực xây dựng công trình,
vật liệu xây dựng, kiến trúc và quy hoạch xây dựng mà còn cả những lĩnh vực
khác: phát triển đô thị và nhà ở, năng lực xây dựng công trình có nhiều tiến
bộ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu xây dựng. Tuy đã lớn mạnh về nhiều
mặt, nhưng nhìn chung khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng nước
ta còn yếu kém vì: Phần lớn các doanh nghiệp trong ngành xây dựng Việt
Nam hiện có quy mô không lớn; công tác nghiên cứu thị trường, thực hiện
xúc tiến thương mại, quảng bá, khuếch trương sản phẩm và hình ảnh của




2

doanh nghiệp chưa được chú trọng đầu tư đúng mức ... Do đó cần phải nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng.
Đối với các nhà thầu xây dựng thì hoạt động đấu thầu là rất quan trọng,
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của nhà thầu. Mặt khác, hoạt động đấu
thầu kích thích cạnh tranh giữa các nhà thầu, thúc đẩy lực lượng sản xuất,
khoa học công nghệ phát triển. Với sự kiện Việt Nam đã gia nhập WTO thì
thị trường xây dựng nói chung và hoạt động đấu thầu nói riêng diễn ra rất sôi
động, ngày càng xuất hiện những nhà thầu mạnh, thi công những công trình
quy mô lớn, hiện đại. Do đó cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh
trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng.
Xuất phát từ thực tế trên đây, tác giả chọn đề tài luận văn là: “Nghiên
cứu đề xuất một số giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong đấu
thầu xây lắp áp dụng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”
2. Mụ đ

đề à

Trên cơ sở lý luận về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung
và khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng nói riêng
và trên cơ sở phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình đấu
thầu của các doanh nghiệp chuyên hoạt động về thi công xây lắp để đề xuất
một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu cho doanh
nghiệp xây dựng.
3. Đố ượ




ạm v

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là khả năng cạnh tranh trong đấu thầu
của doanh nghiệp xây dựng.
- Phạm vi nghiên cứu là khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của một số
doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.


3

4. P ươ

á

Trên cơ sở lý luận chung về đấu thầu: Luật Đấu thầu, hệ thống các văn
bản, chế độ, chính sách hiện hành về đấu thầu của Nhà nước và tình hình triển
khai thực hiện các dự án đầu tư xây dựng trong những năm vừa qua. Đề tài áp
dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp thống kê, điều tra, khảo
sát số liệu, phân tích - tổng hợp, tham khảo ý kiến của các chuyên gia để giải
quyết các vấn đề liên quan đến quá trình đấu thầu.
5. Ý ng ĩ k o

ọ và





đề à


Hệ thống hoá các cơ sở lý luận về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
nói chung và khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp của doanh nghiệp
xây dựng nói riêng từ đó tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp của các doanh nghiệp này.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các
doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong tiến trình phấn
đấu nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp.
6. K

l ậ vă
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương:
Chương 1 :

Những vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm về khả năng cạnh
tranh trong đấu thầu xây lắp của doanh nghiệp xây dựng.

Chương 2 :

Phân tích và đánh giá khả năng cạnh tranh của các nhà thầu
xây lắp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

Chương 3 :

Các giải pháp và điều kiện nhằm tăng khả năng cạnh tranh
trong đấu thầu xây lắp của doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.



4

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
RONG ĐẤU THẦU CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG

1.1. Bản ch t và vai trò c

đ u thầu xây dựng

Có nhiều quan niệm khác nhau của đấu thầu xây dựng.
Đứng trên góc độ nhà thầu, đấu thầu là một trong những phương thức
chủ yếu để có được dự án giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Thực chất
của đấu thầu là quá trình cạnh tranh với các nhà thầu khác, đảm bảo tính công
bằng đối với các thành phần kinh tế về khả năng đáp ứng các yêu cầu về chất
lượng, tiến độ, chi phí xây dựng do bên mời thầu đặt ra; Do cạnh tranh, mỗi
nhà thầu phải luôn quan tâm đến việc cải tiến công nghệ, trang bị sản xuất và
phương tiện quản lý nhằm nâng cao chất lưọng và hạ giá thành sản phẩm; Để
thắng thầu, các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện về tổ chức sản xuất, tổ chức
quản lý, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên đặc biệt là đội
ngũ lập hồ sơ dự thầu; Có trách nhiệm cao đối với công việc thắng thầu để
giữ uy tín với khách hàng.
Đối với chủ đầu tư, đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu có khả năng
đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về chất lượng, tiến độ và chi phí xây dựng công
trình; Chống được tình trạng độc quyền của Nhà thầu (nhất là về giá); Tăng
cường hiệu quả quản lý vốn đầu tư, tránh tình trạng lãng phí, thất thoát vốn
đầu tư ở các khâu của quá trình thi công xây lắp; Tạo cơ hội nâng cao trình độ
năng lực của đội ngũ cán bộ kinh tế, kỹ thuật và bản thân Chủ đầu tư. Theo
Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 thì Đấu thầu là quá trình

lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói thầu
thuộc các dự án quy định tại Điều 1 của Luật này trên cơ sở bảo đảm tính
cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế (khoản 2 Điều 4 Luật


5

Đấu thầu). Mục tiêu của đấu thầu là tạo nên sự cạnh tranh công bằng và minh
bạch trong quá trình lựa chọn nhà thầu phù hợp, bảo đảm hiệu quả kinh tế của
dự án đầu tư.
Đối với Nhà nước, đấu thầu là phương thức quản lý các hoạt động xây
dựng thông qua việc uỷ quyền cho chủ đầu tư (bên mời thầu) theo chế độ
công khai tuyển chọn nhà thầu; Đấu thầu góp phần nâng cao hiệu quả công
tác quản lý Nhà nước về đầu tư xây dựng, hạn chế và loại trừ được các tình
trạng như: thất thoát, lãng phí vốn đầu tư và các hiện tượng tiêu cực khác
trong xây dựng cơ bản; Đấu thầu xây lắp góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của ngành xây lắp; Đấu thầu xây lắp là động cơ, điều kiện cho các
doanh nghiệp trong ngành xây dựng cơ bản cạnh tranh lành mạnh với nhau
trong cơ chế thị trường, thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp xây lắp
nước ta.
Theo đó, trong quá trình đấu thầu có sự tham dự của 2 chủ thể có liên
quan đến dự án (gói thầu):
- Chủ đầu tư là bên mời thầu để thực hiện có hiệu quả dự án đầu tư của
mình.
- Các nhà thầu là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có khả năng thực
hiện nhiệm vụ của dự án đầu tư.
Đấu thầu xây dựng (xây lắp) được thực hiện qua các hình thức sau đây:
- Đấu thầu rộng rãi: việc tổ chức đấu thầu không hạn chế số lượng các
nhà thầu tham gia.
- Đấu thầu hạn chế: bên mời thầu phải mời tối thiểu 05 nhà thầu có đủ

năng lực tham dự đấu thầu trường hợp thực tế có ít hơn 05 nhà thầu phải trình
người có thẩm quyền xem xét, quyết định.


6

- Chỉ định thầu: là hình thức lựa chọn trực tiếp 01 nhà thầu được xác
định là có đủ năng lực và kinh nghiệm đáp ứng được các yêu cầu của gói thầu
để thương thảo hợp đồng.
Các phương thức đấu thầu xây dựng:
- Đấu thầu một giai đoạn: nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ
thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu
được tiến hành một lần.
- Đấu thầu hai giai đoạn:
Phương thức đấu thầu hai giai đoạn được áp dụng đối với hình thức đấu
thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói
thầu EPC có kỹ thuật, công nghệ mới, phức tạp, đa dạng và được thực hiện
theo trỡnh tự sau đây:
+ Trong giai đoạn một, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn một, các nhà
thầu nộp đề xuất về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có giá dự
thầu; trên cơ sở trao đổi với từng nhà thầu tham gia giai đoạn này sẽ xác
định hồ sơ mời thầu giai đoạn hai;
+ Trong giai đoạn hai, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà
thầu đó tham gia giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn
hai bao gồm: đề xuất về kỹ thuật; đề xuất về tài chính, trong đó có giá dự
thầu; biện pháp bảo đảm dự thầu.
Việc đấu thầu phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Cạnh tranh với những điều kiện ngang nhau.
- Dự liệu đầy đủ.
- Đánh giá công bằng.

- Trách nhiệm phân minh.
- Bí mật.
- Ba chủ thể.


7

Đấu thầu là chế độ được áp dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế thị
trường. Việc đấu thầu mang lại những lợi ích thiết thực với chủ đầu tư, nhà
thầu và cả nền kinh tế quốc dân.
Đối với chủ đầu tư, thông qua việc thực hiện đấu thầu, chủ đầu tư sẽ tìm
được nhà thầu có khả năng đáp ứng cao nhất các yêu cầu thực hiện dự án đầu
tư trên cả phương diện chất lượng, tiến độ và chi phí. Hiệu quả vốn đầu tư
được tăng cường nhờ vốn được quản lý chặt chẽ, khắc phục được tình trạng
thất thoát vốn. Đấu thầu cũng giúp chủ đầu tư giải quyết được tình trạng phụ
thuộc vào một nhà thầu như trong hình thức giao thầu hoặc chỉ định thầu. Tuy
nhiên, để bảo đảm hiệu quả thiết thực của đấu thầu, chủ đầu tư phải am hiểu
sâu sắc quy chế đấu thầu và có được đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn
tốt, có đạo đức nghề nghiệp để lập hồ sơ mời thầu có chất lượng, đánh giá
đúng các hồ sơ dự thầu và lựa chọn đúng nhà thầu có đủ năng lực thực hiện
yêu cầu công trình.
Đối với nhà thầu, việc thực hiện chế độ đấu thầu sẽ phát huy được tính
chủ động, sáng tạo và linh hoạt tìm kiếm việc làm thông qua việc nắm bắt
thông tin về dự án, về đối thủ cạnh tranh, thiết lập quan hệ với các chủ thể
kinh tế khác. Đấu thầu cũng tạo nên sức ép với các nhà thầu trong việc đổi
mới công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ và công nhân viên, qua đó nâng cao
khả năng cạnh tranh để tăng xác suất trúng thầu. Thông qua đấu thầu, các nhà
thầu cũng sẽ tích luỹ được thêm kinh nghiệm thi công, kinh nghiệm lập hồ sơ
dự thầu và xác định chiến lược phát triển dài hạn của mình.
Đối với Nhà nước, thông qua đấu thầu, các cơ quan quản lý Nhà nước có

đủ thông tin thực tế và cơ sở khoa học để đánh giá đúng thực lực của các chủ
đầu tư và các nhà thầu. Những điều đó giúp Nhà nước phát huy đúng được vai
trò của mình trong nền kinh tế thị trường: tổ chức thị trường xây dựng, tạo sự


8

cạnh tranh lành mạnh và tăng cường trật tự, kỷ cương trong thực hiện quá
trình đầu tư.
1.2. Cạnh tranh và khả ă



r

ro

đ u thầu c a các doanh

nghiệp xây dựng
Cạ

r

là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham

gia phát triển sản xuất-kinh doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận
lợi trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để thu được nhiều
lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, giành lợi nhuận
lớn nhất, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh.

Cạ

r

r

d

là hoạt động ganh đua giữa những người

sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, giữa các nhà kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung-cầu, nhằm giành các điều kiện
sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất.
Qu

ệm về ạ

r

r



ế

ị rườ

: Cạnh tranh là

quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp

để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường,
giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất thị trường có lợi nhất.
Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối
đa hoá lợi ích, đối với người sản xuất- kinh doanh là lợi nhuận, đối với người
tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Cạ

r



á d

ệp là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp

trên thị trường nhằm tạo lợi thế cho mình và thu được nhiều lợi nhuận hơn, là
sự tranh giành về lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị trường, bao gồm những
người mua và những người bán.
Theo C.Marx, cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh giữa các nhà tư
bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng


9

hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Ông cũng coi cạnh tranh là một trong
những quy luật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
P.A.Samuelson cho rằng, cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh
nghiệp để giành khách hàng hoặc thị trường.
Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1) định nghĩa: canh tranh trong kinh
doanh là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các

thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi
quan hệ cung - cầu, nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có
lợi nhất.
Các quan niệm nêu trên có sự khác nhau về cách tiếp cận và diễn giải,
song có nhiều điểm chung. Đó là:
- Khi nói đến cạnh tranh tức là nói đến một quá trình có sự tham gia của
nhiều chủ thể có cùng mục tiêu (đối tượng mà các chủ thể đều hướng tới
chiếm đoạt).
- Có ràng buộc chung mà các chủ thể phải tuân thủ. Đó là đặc điểm nhu
cầu của khách hàng, ràng buộc của luật pháp và thông lệ trên thị trường.
- Về thời gian và không gian, cạnh tranh diễn ra trong khoảng thời gian
và trong không gian không cố định.
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường có những mặt tích cực và những
mặt tiêu cực nhất định. Vấn đề đặt ra không phải là thủ tiêu cạnh tranh, mà
phải để cạnh tranh diễn ra trong điều kiện bình đẳng và minh bạch, tránh dùng
những thủ đoạn không lành mạnh, phải phát huy được mặt tích cực và hạn chế
đến mức tối đa những mặt tiêu cực của cạnh tranh. Đó là trách nhiệm của Nhà
nước và của tất cả các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1. Tiếp cận và phân loại cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp
xây dựng
1.2.1.1. Tiếp cận về cạ

r

r

đấu thầu của doanh nghiệp xây d ng


10


Cạnh tranh trong đấu thầu có thể tiếp cận theo 2 cách:
Theo nghĩa hẹp: cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là quá trình các
doanh nghiệp xây dựng ganh đua nhau đưa ra các giải pháp về kỹ thuật, tài
chính, tiến độ thi công để xây dựng công trình thoả mãn một cách tối ưu các
yêu cầu của bên mời thầu.
Quan niệm này cho thấy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là sự ganh
đua hết sức gay gắt nhằm mục đích trúng thầu. Tuy nhiên, quan niệm này vẫn
chỉ bó hẹp ở khâu đấu thầu mà chưa chỉ ra được sự cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong suốt quá trình sản xuất - kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều
tham gia đấu thầu rất nhiều công trình khác nhau với những đối thủ khác nhau
trong những khoảng thời gian, địa điểm khác nhau, do đó quan niệm theo
nghĩa hẹp này sẽ khó xác định được toàn diện các vấn đề cạnh tranh trong đấu
thầu
Theo nghĩa rộng: cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là sự đấu tranh gay
gắt giữa các doanh nghiệp xây dựng kể từ khi bắt đầu tìm kiếm thông tin, đưa
ra các giải pháp tham gia đấu thầu, bảo đảm trúng thầu và thực hiện hợp đồng
cho tới khi hoàn thành công trình và bàn giao theo yêu cầu của chủ đầu tư. Có
thể hiểu cạnh tranh theo nghĩa rộng trong đấu thầu xây dựng theo sơ đồ 1.1:

Tìm kiếm thông
tin

Hoàn thành bàn
giao

Chuẩn bị và đưa ra biện pháp

Thực hiện
hợp đồng


Tham gia đấu
thầu

Ký hợp đồng

Sơ đồ 1.1: Quá trình cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng


11

Doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm thông tin về các cuộc đấu thầu để
có sự chuẩn bị tham gia đấu thầu.
Khi doanh nghiệp tham gia đấu thầu, có hai trường hợp xảy ra là trượt
thầu hoặc trúng thầu. Trong trường hợp nào thì doanh nghiệp cũng luôn luôn
phải tìm kiếm các thông tin để tiếp cận các cuộc đấu thầu. Phân tích và đánh
giá thông tin để đưa ra các quyết sách đúng đắn trong việc tham gia đấu thầu.
1.2.1.2. Phân loại cạnh tranh r

đấu thầu xây d ng

Cạnh tranh trong đấu thầu có nhiều loại, trong đó chủ yếu là:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Người mua dịch vụ xây dựng
(chủ đầu tư- bên mời thầu) và người bán dịch vụ xây dựng công trình (doanh
nghiệp xây dựng - nhà thầu) với những mục tiêu khác nhau, tạo ra sự sôi động
của thị trường xây dựng. Mục tiêu của chủ đầu tư là các công trình có chất
lượng cao, thời gian xây dựng ngắn và chi phí xây dựng (giá cả hợp lý). Còn
mục tiêu của nhà thầu là đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả
nhất và ít rủi ro nhất.
- Cạnh tranh giữa người mua dịch vụ xây dựng với nhau: Chỉ xảy ra khi

có nhiều chủ đầu tư có công trình cần xây dựng nhưng chỉ có một doanh
nghiệp xây dựng hoặc một ít tổ chức xây dựng tham gia đấu thầu có khả năng
công nghệ độc quyền để xây dựng các công trình ấy. Trường hợp này hiếm
xảy ra trong nền kinh tế thị trường, nhất là trong đấu thầu.
- Cạnh tranh giữa những người cung ứng dịch vụ xây dựng với nhau
(cạnh tranh giữa các nhà thầu - doanh nghiệp xây dựng) đó là cuộc cạnh tranh
khốc liệt nhất, gay go nhất của cạnh tranh trên thị trường xây dựng.
Cạnh tranh là quá trình đấu tranh giữa các doanh nghiệp khác nhau nhằm
đứng vững trên thị trường và tăng lợi nhuận trên cơ sở tạo ra, sử dụng ưu thế
của mình về chất lượng, thời gian thi công và chi phí xây dựng công trình.
Cạnh tranh, một mặt, sẽ trừng phạt các doanh nghiệp có chi phí cao bằng các


12

hình thức như loại bỏ doanh nghiệp ra khỏi thị trường hoặc doanh nghiệp chỉ
thu được lợi nhuận thấp; mặt khác, sẽ khuyến khích những doanh nghiệp có
chi phí thấp. Chính nguyên tắc trừng phạt và khuyến khích của cạnh tranh sẽ
tạo áp lực buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để giảm chi phí sản
xuất - kinh doanh, vì đó là cơ ở cho sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp.
Một trong những vấn đề qyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp xây dựng trong điều kiện cơ chế thị trường là phải giành được lợi thế
cạnh tranh trên thị trường, ký được nhiều hợp đồng có khả năng mang lại lợi
nhuận cao. Vì thế, đấu thầu xây dựng có thể xem là một trong những hoạt
động rất quan trọng đối với các doanh nghiệp xây dựng.
Để thắng thầu được nhiều dự án đầu tư, doanh nghiệp phải có thực lực
cạnh tranh, phải có chiến lược và chiến thuật hợp lý và cần phải có chữ tín với
chủ đầu tư, tạo dựng các mối quan hệ thường xuyên với chủ đầu tư hiện tại và
chủ đầu tư tiềm năng.
Để dự thầu doanh nghiệp phải tiếp cận với hàng loạt vấn đề, từ khâu

thiết kế đến thi công, bàn giao đưa công trình vào sử dụng. Hoạt động thi
công phải được triển khai thực hiện theo một trình tự công nghệ nghiêm ngặt
(kỹ thuật và tổ chức thi công) đảm bảo cho quá trình thi công diễn ra thuận lợi
và tiết kiệm nhất. Để thi công xây dựng công trình đúng tiến độ, đạt hiệu quả
kinh tế mong muốn thì d xây dựng phải có bộ máy quản lý đủ năng lực để
điều hành sản xuất. Nếu hoạt động đấu thầu xây dựng được xem là hoạt động
đầu tiên trong quan hệ giữa doanh nghiệp xây dựng với chủ đầu tư, thì hoạt
động bàn giao công trình hoàn thành có thể xem là hoạt động cuối cùng.
Những công trình bàn giao cho chủ đầu tư được xem là những sản phẩm đã
được thị trường chấp nhận. Hoạt động này có quan hệ tích cực hoặc tiêu cực
tới hoạt động thầu xây dựng của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp bàn giao
công trình đảm bảo kỹ thuật, mỹ thuật, thời gian xây dựng thì uy tín cua


13

doanh nghiệp trên thị trường xây dựng được đề cao. Ngược lại, nếu doanh
nghiệp bàn giao những công trình xây dựng không đảm bảo như cam kết hợp
đồng thì uy tín của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút.
1.2.2. Khả năng và phương thức cạnh tranh trong đấu thầu của doanh
nghiệp xây dựng
1.2.2.1. Khái quát về khả ă



r

r

đấu thầu của doanh nghiệp


xây d ng
Khi nói đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là nói đến nội lực
(bên trong) của doanh nghiệp, trong dó có các năng lực về tài chính, kỹ thuật
công nghệ, marketing, tổ chức quản lý, đội ngũ lao động của doanh nghiệp.
Có nội lực là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là doanh nghiệp phải biết sử
dụng, phát huy tất cả các nội lực đó để phục vụ cho các cuộc cạnh tranh khác
nhau tạo ra lợi thế hơn hẳn so với các doanh nghiệp khác. Như vậy, khả nưng
cạnh tranh của doanh nghiệp là toàn bộ năng lực và việc sử dụng các năng lực
đó để tạo ra lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác nhằm
thoả mãn đến mức tối đa các đòi hỏi của thị trường.
Khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là toàn bộ những năng lực
về tài chính, thiết bị, công nghệ, marketing, tổ chức quản lý mà doanh nghiệp
có thể sử dụng để tạo ra các lợi thế của mình so với các doanh nghiệp khác.
Khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp không
chỉ là lợi thế về sản phẩm (chất lượng, giá cả) mà còn có các lợi thế về nguồn
lực để đảm bảo sản xuất ra sản phẩm đó (tài chính, công nghệ, nhân lực). Để
tồn tại và phát triển bền vững phải không ngừng nâng cao nội lực của doanh
nghiệp nhằm tạo ưu thế về mọi mặt như chất lượng công trình, tiến độ thi
công, biện pháp thi công, giá cả v.v.. so với các đối thủ. Trước yêu cầu ngày
càng cao và đa dạng của khách hàng, nếu doanh nghiệp không vươn lên đáp
ứng được thì sự thất bại trong cạnh tranh là điều khó tránh khỏi. Trên thực tế,


14

sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt, buộc các nhà
thầu phải tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là việc các doanh nghiệp sử dụng
toàn bộ năng lực có thể để giành lấy phần thắng, phần hơn trước các đối thủ

cùng tham dự thầu.
1 2 2 2 P ươ

ức cạ

r

r

đấu thầu của doanh nghiệp xây d ng

Vì đặc điểm của thị trường xây dựng khác với thị trường tiêu thụ hàng
hoá bình thường, quá trình mua và bán sản phẩm thường diễn ra trước quá
trình sản xuất thông qua đấu thầu, đàm phán ký kết hợp đồng nên người mua
không lựa chọn hàng hoá trực tiếp mà lựa chọn nhà thầu có khả năng tạo ra
sản phẩm, đồng thời thoả mãn tốt nhất những yêu cầu về chất lượng, thời
gian, giá cả. Để đánh giá, cho điểm và lựa chọn nhà thầu, chủ đầu tư căn cứ
vào những chỉ tiêu chủ yếu sau của nhà thầu sau:
- Kinh nghiệm và năng lực của nhà thầu;
- Tài chính;
- Tiến độ thi công;
- Giá dự thầu.
Do đó, phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng có 3 phương
thức:
Phương thức 1: Cạnh tranh bằng giá dự thầu
Trong đấu thầu, chỉ tiêu giá bỏ thầu có vai trò quyết định việc doanh
nghiệp có trúng thầu hay không. Nếu xây dựng được mức giá bỏ thầu tốt đảm
bảo được hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp vừa đảm bảo khả năng trúng
thấu cao.
Chất lượng của việc xây dựng mức giá bỏ thầu liên quan đến rất nhiều

yếu tố nó thể hiện tổng hợp các phẩm chất của doanh nghiệp xây dựng như:
- Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp;


15

- Kỹ thuật thi công, khả năng áp dụng công nghệ tiên tiến;
- Phẩm chất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để giá bỏ thầu của doanh nghiệp có ưu thế cạnh tranh đòi hỏi phải có
chính sách về giá một cách linh hoạt dựa trên cơ sở: Năng lực thực sự của
doanh nghiệp; mục tiêu tham gia đấu thầu; quy mô, đặc điểm của dự án, địa
điểm của dự án, phong tục tập quán của địa phương có dự án được thi công.
Việc xây dựng giá bỏ thầu phụ thuộc lớn vào mục tiêu đấu thầu của nhà
thầu như để kiếm lợi nhuận, công ăn việc làm hay mở ra thị trường mới. Một
nhà thầu thường xây dựng các mức giá khác nhau với những mục tiêu đạt
được khác nhau. Tuỳ theo từng công trình cụ thể, tiềm lực nguồn lao động,
khả năng về vốn, thiết bị máy móc v.v.. mục tiêu tham gia đấu thầu có chính
sách định giá khác nhau trong việc quyết định giá bỏ thầu.
- Chính sách giá cao: Doanh nghiệp xây dựng có khả năng công nghệ
đặc biệt hoặc độc quyền.
- Chính sách giá thấp: Doanh nghiệp phải tận dụng năng lực sản xuất và
giảm chi phí xây dựng công trình.
- Chính sách giá linh hoạt theo thị trường: tuỳ vào tình hình thị trường
mà doanh nghiệp đưa ra giá dự thầu thích hợp.
- Chính sách giá phân biệt: phân biệt theo khu vực địa lý, theo kế hoạch,
theo mùa, theo phương thức thanh toán...
Phương thức 2: Cạnh tranh bằng chất lượng công trình
Chất lượng công trình là tập hợp các thuộc tính của công trình trong điều
kiện nhất định về kinh tế kĩ thuật. Chất lượng là một chỉ tiêu tổng hợp thể
hiện ở nhiều mặt khác nhau về tính cơ, lý, hoá của công trình mà chủ đầu tư

đặt ra.
Doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vững và không ngừng nâng cao chất
lượng công trình. Đó là điều kiện không thể thiếu nếu doanh nghiệp muốn


16

giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Do vậy, chất lượng công trình là vấn
đề sống còn đối với doanh nghiệp xây dựng. Nâng cao chất lượng công trình
có ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện trên các giác độ:
- Chất lượng công trình tăng lên sẽ góp phần tăng uy tín của doanh
nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng được thị trường.
- Nâng cao chất lượng công trình góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu
mà doanh nghiệp đã đề ra.
Trong phương thức cạnh tranh bằng chất lượng công trình, các nhà thầu
xây dựng cạnh tranh với nhau không chỉ bằng chất lượng cam kết thực hiện
của công trình đang được tổ chức đấu thầu xây dựng mà còn cạnh tranh với
nhau qua chất lượng các công trình khác đã và đang được xây dựng.
Chất lượng là một trong những yêu cầu chủ yếu đối với mỗi loại sản
phẩm được sản xuất ra, chất lượng của sản phẩm là công trình xây dựng lại
càng là một yếu tố quan trọng, cũng chính vì vậy mà chất lượng công trình là
một công cụ mạnh để cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng.
Phương thức 3: Cạnh tranh bằng tiến độ thi công
Tiến độ thi công thể hiện ở việc bố trí tổng thể của doanh nghiệp trong
công tác thi công công trình. Chịu sự ảnh hưởng về sự cam kết đối với chất
lượng, an toàn lao động và thời hạn bàn giao công trình. Tuỳ thuộc vào quy
mô, tính chất công trình và khả năng của nhà thầu mà nhà thầu đưa ra kế
hoạch tiến độ thi công. Từ tiến độ thi công, chủ đầu tư có thể đánh giá nhà
thầu về khía cạnh trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật thi công và năng lực máy
móc thiết bị, nhân lực của nhà thầu.

Thông thường, chủ đầu tư đánh giá tiến độ thi công của nhà thầu theo hai
nội dung:
- Mức độ đảm bảo tổng tiến độ thi công quy định trong hồ sơ mời thầu.


17

Nhà thầu nào có khả năng đưa ra các biện pháp kỹ thuật nhằm rút ngắn thời
gian thi công thì khả năng thắng thầu càng lớn.
- Đánh giá về sự hợp lý về tiến độ hoàn thành giữa các hạng mục công
trình có liên quan. Tiến độ hoàn thành hạng mục công trình có liên quan đến
việc tạm ứng vốn thi công cho nhà thầu, liên quan đến sử dụng các hạng mục
sau khi hoàn thành.
Do đó, nhà thầu nào có khả năng đảm bảo được tiến độ thi công công
trình và có giải pháp thi công các hạng mục hợp lý sẽ chiếm ưu thế cạnh tranh
trong đấu thầu.
1.2.3. Các tiêu thức cơ bản đánh giá khả năng cạnh tranh trong đấu thầu
của doanh nghiệp xây dựng
1.2.3.1. Các tiêu thức thể hiện khả ă

ạnh tranh

Số lượng công trình trúng thầu và giá trị trúng thầu.
Chỉ tiêu này thể hiện khái quát tình hình dự thầu và kết quả dự thầu của
doanh nghiệp, qua đó có thể đánh giá được hiệu quả, chất lượng của việc dự
thầu trong năm, quy mô và giá trị hợp đồng của các công trình trúng thầu.
Tỷ lệ thắng thầu trong dự thầu.
Tỷ lệ này được tính như sau:
Tính theo số dự án (hoặc số gói thầu dự thầu)
T1 =

Trong đó:

Dtt
x 100 (%)
Ddt

(1.1)

T1: Là tỷ lệ trúng thầu theo số lần tham gia đấu thầu
Dtt: Là số dự án (số gói thầu) thắng thầu
Ddt: Là số dự án (số gói thầu) dự thầu

Tính theo giá trị dự án (hoặc gói thầu)
T2 =
Trong đó:

Gtt
x 100 (%)
Gdt

(1.2)

T2: Là tỷ lệ trúng thầu theo giá trị dự án (gói thầu)


18

Gtt: Là giá trị của các dự án (gói thầu) trúng thầu
Gdt: Là giá trị của các dự án (gói thầu) dự thầu
1.2.3.2. Các tiêu thứ đá


á

ả ă



ầu r

đấu thầu của

doanh nghiệp xây d ng
Về năng lực và kinh nghiệm.
Đây là chỉ tiêu xác định điều kiện đầu tiên đảm bảo nhà thầu được tham
gia cạnh tranh đấu thầu trong mỗi dự án (gói thầu). Chỉ tiêu này thể hiện khả
năng hiện có của mỗi một nhà thầu về tổng thể khả năng trên các mặt: Kinh
nghiệm, trình độ nhân lực, khả năng về tài chính với những tiêu chuẩn nhất
định tuỳ theo quy mô, yêu cầu kỹ thuật, tiến độ của từng dự án (gói thầu).
Tiêu chuẩn này được thể hiện qua bảng 1.1:
Bảng 1.1: Năng lực và kinh nghiệm của các nhà thầu
Tiêu chuẩn

Kinh nghiệm (K)

Nhân lực (N)

Tài chính (T)

NT1


K1

N1

T1

NT2

K2

N2

T2









NTn

Kn

Nn

Tn


Nhà thầu

Trong đó:
- K là tiêu chuẩn kinh nghiệm của nhà thầu: Được đánh giá bằng số năm
kinh nghiệm hoạt động hoặc số lượng các hợp đồng quy mô tương tự đã thực
hiện trong vòng 3 đến 5 năm gần đây với các điều kiện tương tự.
- N là tiêu chuẩn nhân lực của nhà thầu được đánh giá bằng số lượng,
trình độ của cán bộ và công nhân kỹ thuật.
- T là tiêu chuẩn năng lực tài chính của nhà thầu được đánh giá bằng chỉ
tiêu doanh thu, lợi nhuận trước và sau thuế, vốn lưu động trong vòng 3 đến 5
năm gần đây.


19

- n: Số nhà thầu tham dự, i = 1  n
Nhà thầu được xác định là đủ năng lực kinh nghiệm để tham gia dự thầu
khi:
Ki ≥ Ko

với (i = 1 n)

Ni ≥ Ko

với (i = 1 n)

Ti ≥ Ko

với (i = 1 n)


Trong đó:
Ko: Mức kinh nghiệm tối thiểu của nhà thầu
No: Số lượng và trình độ nhân lực tối thiểu của nhà thầu;
To: Khả năng về tài chính tối thiểu của nhà thầu.
Ko, No, To được bên mời thầu qui định cụ thể đối với từng gói thầu tuỳ
tính chất, qui mô, yêu cầu kỹ thuật, tiến độ thi công của từng dự án (gói thầu).
Về mặt kỹ thuật.
Chỉ tiêu này là tổng hợp của các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, biện
pháp thi công và tiến độ công trình.
- Yêu cầu về kỹ thuật và chất lượng: đòi hỏi nhà thầu dự thầu phải đưa
ra các giải pháp và biện pháp thi công, sử dụng máy móc thiết bị với tính hợp
lý và khả thi (được nêu cụ thể trong hồ sơ mời thầu). Trên cơ sở đáp ứng các
yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng của công trình. Đưa ra sơ đồ tổ chức hiện
trường, bố trí nhân lực, các biện pháp đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh môi
trường hợp lý.
- Tiến độ thi công là thời gian cần thiết để nhà thầu thi công hoàn thành
công trình. Tiến độ thi công phải được bố trí một cách tuần tự khoa học nhằm
sử dụng tối đa nguồn lực sẵn có của nhà thầu và mang tính khả thi cao. Tiến
độ thi công được quy định cụ thể trong hồ sơ mời thầu. Nhà thầu cần có sự
nghiên cứu địa bàn thi công, mặt bằng thi công, nguồn gốc vật liệu v.v.. qua
đó bố trí thi công các hạng mục, các phần việc hợp lý nhằm đưa ra được tổng


20

thời gian thi công công trình ngắn nhất. Mức độ đảm bảo tổng tiến độ quy
định và sự hợp lý về tiến độ hoàn thành giữa các hạng mục, phân việc công
trình có liên quan.
Về mặt giá.
Chỉ tiêu về giá là một chỉ tiêu kinh tế, có vai trò quan trọng nhất trong

việc quyết định nhà thầu trúng thầu hay không và ảnh hưởng lớn đến hiệu quả
hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Các nhà thầu khi xây dựng giá bỏ thầu đều dựa trên cơ sở của định mức
dự toán, đơn giá ca máy, giá vật liệu, chi phí nhân công và các chi phí khác.
Nếu tất cả các nhà thầu đều tính đúng, tính đủ theo chế độ quy định thì sẽ có
giá dự thầu giống nhau (có sai khác phần nào là do phương pháp kỹ năng tính
toán) và điều này sẽ làm mất đi tính cạnh tranh trong đấu thầu. Vấn đề đặt ra
là nhà thầu phải định ra được giá dự thầu thấp hơn, đây chính là khả năng
cạnh tranh về giá của các nhà thầu.
Khả năng cạnh tranh về giá của các nhà thầu có thể xác định qua công
thức sau:
KG =

Gi
GA

(1.3)

Trong đó:
KG: Là hệ số cạnh tranh về giá của nhà thầu
GA: Là giá gói thầu (giá dự toán được duyệt)
Gi: Là giá dự thầu của nhà thầu thứ i [(i = 1  n)]
Với quy chế đấu thầu hiện nay, nhà thầu thứ j muốn thắng trong cuộc
cạnh tranh về giá phải có:
KGj ≤ KG và KGj < KGi  i [i = 1 (n-1)] n: là số nhà thầu dự thầu
điều này cũng đồng nghĩa với:
KGj ≤ GA và KGj < KGi  i [i = 1 (n-1)]


21


Trong thực tế việc xây dựng giá dự thầu để có thể trúng thầu là cực kỳ
quan trọng và phức tạp vì nó liên quan đến nhiều yếu tố bao gồm:
- Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của khu vực thực hiện dự án như
nguồn vật tư, vật liệu, hệ thống giao thông, điện nước, đời sống và dân trí của
nhân dân trong khu vực có công trình xây dựng. Đây là những yếu tố khá
quan trọng trong việc xem xét giá bỏ thầu.
- Đặc điểm yêu cầu của dự án: Các tiêu chuẩn kỹ thuật, mức độ cụ thể
về mã hiệu, chủng loại vật tư, loại hình dự án cũng là những yếu tố để các nhà
thầu cân nhắc đưa ra tỷ lệ giảm giá hợp lý.
Tiêu chí về giá thực chất là tổng thể của hai tiêu chí trên. Bởi vì năng
lực kinh nghiệm; trình độ kỹ thuật là những vấn đề có tính quyết định đến
việc đưa ra mức giá dự thầu của nhà thầu.
1.3. Các nhân tố ả

ưở

đ n khả ă



r

ro

đ u thầu

c a doanh nghiệp xây dựng
1.3.1. Nhóm nhân tố bên trong
1.3.1.1. Tài chính

Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, kỹ thuật,
công nghệ, lao động phát sinh trong quá trình kinh doanh dưới hình thức giá
trị. Hoạt động sản xuất - kinh doanh ảnh hưởng đến tình hình tài chính, ngược
lại tình hình tài chính tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy hay cản trở quá
trình sản xuất - kinh doanh.
Trước hết khả năng tài chính của một doanh nghiệp được thể hiện ở qui
mô về nguồn vốn tự có, khả năng huy động các nguồn vốn phục vụ cho sản
xuất - kinh doanh và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó. Mặt khác, để đánh
giá khả năng tài chính của một doanh nghiệp xây dựng, cần xem xét cơ cấu
giữa vốn cố định và vốn lưu động.


22

Một doanh nghiệp xây dựng với khả năng tài chính cao, có thể tham gia
đấu thầu nhiều công trình trong một năm, có nhiều cơ hội để đầu tư tăng thiết
bị, máy móc nhằm đáp ứng yêu cầu thi công và đòi hỏi của qui trình công
nghệ hiện đại. Đồng thời giữ luôn được uy tín đối với nhà cung cấp vật tư và
các tổ chức tín dụng.
Năng lực tài chính mang tác dụng tích cực đến quá trình đấu thầu. Nó
được xét trên hai phương diện:
- Với những công trình đã thắng thầu, năng lực tài chính mạnh giúp cho
doanh nghiệp hoàn thành nhiệm vụ thi công, đảm bảo công trình có kỹ thuật,
chất lượng tốt, tiến độ thi công đảm bảo tạo uy tín và niềm tin cho chủ đầu tư.
- Trong đấu thầu, khả năng tài chính là một trong những tiêu chuẩn để
đánh giá nhà thầu. Điều quan trọng hơn là một doanh nghiệp với khả năng tài
chính mạnh, cho phép đưa ra quyết định giá bỏ thầu một cách sáng suốt và
hợp lý hơn.
1.3.1.2. Máy móc, thiết bị, công nghệ thi công

Năng lực máy móc thiết bị trong hồ sơ dự thầu thể hiện khả năng huy
động nguồn lực về xe máy cho thi công công trình.
Nguồn lực máy móc thiết bị và xe máy thi công của doanh nghiệp: được
thể hiện thông qua tổng giá trị các tài sản là máy móc thiết bị thi công hiện có
của doanh nghiệp về số lượng, chủng loại. Máy móc thiết bị là bộ phận chủ
yếu và quan trọng nhất trong tài sản cố định của doanh nghiệp. Nó là thước đo
cho trình độ kỹ thuật là thể hiện năng lực sản xuất hiện có, là nhân tố quan
trọng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong đấu thầu.
Năng lực về máy móc thiết bị được chủ đầu tư đánh giá cao, bởi nó liên
quan nhiều đến chất lượng và tiến độ thi công. Để đánh giá về năng lực máy
móc thiết bị và công nghệ có thể dựa vào các đặc tính sau:


23

- Tính hiện đại của thiết bị, công nghệ: Biểu hiện ở các thông số như
hãng sản xuất, năm sản xuất, công suất, giá trị còn lại của thiết bị.
- Tính đồng bộ: Thiết bị đồng bộ là điều kiện để đảm bảo sự phù hợp
giữa thiết bị, công nghệ với phương pháp sản xuất; giữa chất lượng, độ phức
tạp của sản phẩm do công nghệ đó sản xuất ra.
- Tính hiệu quả: Thể hiện trình độ sử dụng máy móc thiết bị của doanh
nghiệp, từ đó nó có tác dụng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng
huy động tối đa nguồn lực về máy móc thiết bị sẵn có phục vụ cho mục đích
cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tính đổi mới: là sự đáp ứng yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh
doanh và cũng là một trong những yếu tố tăng cường khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Trong sản xuất kinh doanh yếu tố này quyết định việc lựa chọn
tính toán các giải pháp hợp lý trong tổ chức thi công. Trong đấu thầu, năng
lực máy móc thiết bị là một trong những tiêu chuẩn đánh giá của chủ đầu tư.
Một nhà thầu có năng lực máy móc thiết bị mạnh mẽ sẽ làm tăng khả năng

cạnh tranh và đặc biệt là trong việc xây dựng giá bỏ thầu hợp lý.
1 3 1 3 Cơ ấu tổ chức và nguồn nhân l c của doanh nghiệp
Đây là yếu tố cơ bản và đặc biệt quan trọng của doanh nghiệp trong sản
xuất kinh doanh.
- Cơ cấu tổ chức:
Một cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý sẽ cho phép doanh nghiệp nâng cao
hiệu quả của mọi hoạt động trong doanh nghiệp, ứng phó với kịp thời với các
thay đổi của môi trường.
- Nguồn nhân lực của doanh nghiệp:
Đánh giá nguồn nhân lực của doanh nghiệp chủ đầu tư đặc biệt chú
trọng đến vấn đề:


24

Cán bộ quản trị cấp cao (Ban Giám đốc doanh nghiệp). Là những cán
bộ quản trị cấp cao, họ quyết định sự thành công hay thất bị của doanh nghiệp
và chịu trách nhiệm về những quyết định kinh doanh của mình. Một trong
những chức năng chính của các quản trị viên cao cấp là xây dựng chiến lược
hành động và phát triển của doanh nghiệp. Khi đánh giá bộ máy lãnh đạo,
trình độ các hoạt động của doanh nghiệp, phẩm chất kinh doanh của doanh
nghiệp và các mối quan hệ; sâu xa hơn nữa là tinh thần đoàn kết, hợp lòng của
cán bộ công nhân cũng như của êkíp lãnh đạo. Điều này vừa tăng sức mạnh
của chính doanh nghiệp, vừa tạo ra uy tín đối với chủ đầu tư.
Cán bộ quản trị cấp trung gian. Đội ngũ cấp chỉ huy trung gian đứng
trên cấp quản trị viên cơ sở và dưới cấp quản trị cao cấp. Với cương vị này,
họ vừa quản trị các quản trị cấp cơ sở thuộc quyền, vừa đồng thời điều khiển
các nhân viên khác. Ở cấp này các quản trị viên có chức năng thực hiện các
kế hoạch và chính sách của tổ chức bằng cách phối hợp các công việc được
thực hiện nhằm dẫn đến sự hoàn thành mục tiêu chung.

Để đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ cán bộ quản trị, chủ đầu
tư thường tiếp cận trên các khía cạnh: một là, trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm công tác, tác phong làm việc, sự am hiểu về kinh doanh và luật pháp
của từng thành viên trong ê kíp quản lý và hai là, cơ cấu về các chuyên ngành
đào tạo phân theo trình độ sẽ cho biết khả năng chuyên môn hoá cũng như
khả năng đa dạng hoá của doanh nghiệp.
Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý có thể được đánh giá thông qua số
lượng người tốt nghiệp đại học, số lượng người được đào tạo về quản trị, kinh
nghiệm của họ trong tham gia thi công các công trình.
Cán bộ quản trị cấp ơ sở. Đây là đội ngũ các nhà quản trị ở cấp bậc
cuối cùng trong hệ thống cấp bậc của các nhà quản trị của một doanh nghiệp.
Thông thường họ được gọi là đốc công, tổ trưởng, đội trưởng thi công, trưởng


25

ca. Nhiệm vụ của họ là hướng dẫn, đốc thúc, điều khiển công nhân trong các
công việc cụ thể hàng ngày để đưa đến hoàn thành mục tiêu chung của cả
doanh nghiệp. Đội ngũ quản trị này lãnh đạo lực lượng lao động trực tiếp, tạo
nên sức mạnh tổng hợp của doanh nghiệp trên các khía cạnh như chất lượng,
tiến độ thi công công trình.
Độ

ũ ô

â

Bao gồm toàn bộ nội dung về quản lý và sử dụng

con người thể hiện qua các nội dung sau: Trình độ tay nghề của người công

nhân được đánh giá qua bậc thợ nó phản ánh khả năng và kinh nghiệm làm
việc của công nhân; Sự đoàn kết của tập thể người lao động, sự trung thành
của họ đối với doanh nghiệp; Khả năng sử dụng các biện pháp để kích thích
động viên người lao động: biện pháp kích thích dựa trên lợi ích vật chất như
tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp ... biện pháp kích thích dựa trên các giá trị
tinh thần, nhất là các biện pháp giáo dục dưới các hình thức khác nhau, biện
pháp thi đua, phong trào người tốt,việc tốt…
Người phụ trách đơn vị phải có trình độ quản trị (tổ chức điều phối lao
động và thiết bị hợp lý, tránh lãng phí nhằm hạ thấp giá thành, tăng lợi nhuận
nhưng đảm bảo chất lượng), am hiểu sâu về công việc mà đơn vị đang thực
hiện, biết chăm lo quyền lợi người lao động, mới tạo ra được sự ủng hộ, lòng
nhiệt thành từ phía người lao động, mới tạo ra được sự ủng hộ. Tuy nhiên,
lãnh đạo đơn vị giỏi cũng chưa đủ, mà còn cần có đội ngũ lao động với trình
độ tay nghề chuyên sâu, có khả năng sáng tạo, trung thực trong công việc. Họ
chính là những người trực tiếp thực hiện những ý tưởng, chiến lược và chiến
thuật kinh doanh của đội ngũ lãnh đạo cấp trên, những người tạo nên chất
lượng công trình và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.1.4. Hoạ động marketing
Chiến lược marketing là một chiến lược bộ phận đóng vai trò quan
trọng trong việc giành ưu thế trong cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của


×