Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Giải pháp thu hút vốn đầu tư trong nước vào việc phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Kon Tum.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.77 MB, 109 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn đầu tư là tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc
gia. Khơng có vốn đầu tư thì cũng khơng thể sử dụng được các nguồn lực khác như:
tài nguyên, lao động, khoa học công nghệ… để tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ngày nay ở các nước đang phát triển do thiếu vốn nên luôn bị tụt hậu và nằm trong
vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ. Việt Nam đang trong q trình đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa vấn đề này lại càng đặc biệt quan trọng và cấp thiết. Việc
huy động và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả để thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước ta.
Kon Tum là một tỉnh miền núi, vùng cao, biên giới của Tây Nguyên, có 22
dân tộc anh em cùng sinh sống. Đất đai mầu mỡ, khí hậu thuận lợi cho nhiều loại
cây trồng, có nhiều loại khống sản, tài ngun phong phú, thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế. Ngoài các tài ngun, khống sản, mảnh đất Kon Tum cịn được thiên
nhiên ban tặng nhiều lâm đặc sản, tiềm năng phát triển thuỷ điện và tài nguyên du
lịch. Với hệ thống giao thông đường bộ, nối liền các tỉnh Tây Nguyên với các tỉnh
Duyên hải miền Trung và nước bạn Lào qua cửa khẩu quốc tế Bờ Y. Điều đó tạo
cho Kon Tum có điều kiện thuận lợi để phát huy khả năng trong việc thu hút vốn
đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh theo hướng CNH, HĐH.
Tuy nhiên, Kon Tum vẫn còn là tỉnh nghèo kém phát triển, là tỉnh nằm sâu
trong nội địa và là một trong năm tỉnh của Tây Nguyên, không nằm trong vùng
động lực phát triển của cả nước, trình độ dân trí chưa cao… nên Kon Tum hiện nay
đang tụt hậu so với các tỉnh trong khu vực và cả nước.
Từ đặc điểm trên đây việc thu hút vốn đầu tư nói chung vốn đầu tư trong nước
nói riêng càng trở nên bức thiết, có ý nghĩa to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh
quốc phịng đối với một tỉnh nằm ở vùng sâu, vùng xa, biên giới của Tổ quốc.
Do đó, việc nghiên cứu vấn đề “thu hút vốn đầu tư trong nước vào phát triển
KT-XH tỉnh Kon Tum” là cách nhìn nhận nghiêm túc, trong việc thực hiện Nghị

1



quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ 14, nhằm sớm đưa
Kon Tum thoát ra khỏi tỉnh nghèo và là nền tảng để đưa Kon Tum sớm trở thành
tỉnh công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại hố.
Với ý nghĩa đó tác giả lựa chọn đề tài: “Giải pháp thu hút vốn đầu tư trong
nước vào việc phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum” làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Để có những chủ trương, chính sách cho miền núi, đặc biệt là vùng núi Tây
Nguyên và Tây Bắc các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương đã tổ
chức những hoạt động như điều tra, khảo sát, xây dựng nhiều đề án cụ thể về đầu tư
của nhà nước để phát triển KT-XH ở miền núi. Những hoạt động này chủ yếu để
giải quyết những vấn đề nổi cộm ở miền núi mà cuộc sống đòi hỏi phải giải quyết
ngay. Trong đó có vấn đề thu hút vốn đầu tư trong nước để phát triển KT-XH là một
vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
khoa học, bài viết luận văn thạc sĩ, tiến sĩ được công bố liên quan đến đề tài luận
văn. Cụ thể là:
- Cơng trình nghiên cứu các giải pháp tài chính huy động nguồn vốn đầu tư
trong nước của Viện Chiến lược phát triển (1996).
- Cơng trình nghiên cứu chính sách khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt
Nam và kinh nghiệm quốc tế của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
(1998).
- Cơng trình nghiên cứu chiến lược huy động và sử dụng vốn cho cơng nghiệp
hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam (2007) của Võ Trí Thành và cộng sự.
- Luận án tiến sĩ kinh tế của Đinh Văn Phượng (2000), Thu hút và sử dụng vốn
đầu tư để phát triển kinh tế miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Huy động vốn trong nước phát triển nông nghiệp vùng đồng bằng sơng Hồng,
của Phạm Thị Khanh (2004), Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.


2


- Nguyễn Văn Hiến: “Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA trong
tiến trình CNH, HĐH nền kinh tế ở nước ta”, Tạp chí Ngân hàng, số 10-2003, tr. 5862.
- Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Văn Hùng (2009), Tăng cường huy động
vốn đầu tư cho phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên, Viện Kinh tế Việt Nam, Hà Nội.
- Điều tiết sự di chuyển của dịng vốn tư nhân gián tiếp nước ngồi ở một số
nước đang phát triển, của TS. Nguyễn Hồng Sơn (2005), Viện Khoa học xã hội,
Viện Kinh tế chính trị thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Một số giải pháp tạo vốn trong kinh doanh, của TS. Trần Xuân Kiên (2005),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Luận án Tiến sĩ Khoa học kinh tế của Nguyễn Văn Lai (1996), Những giải
pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nhìn chung, các cơng trình khoa học đã phản ánh rất nhiều góc độ khác nhau
về tình hình thu hút vốn đầu tư nói chung, thu hút vốn đầu tư trong nước nói riêng.
Đặc biệt đã phản ánh sự cấp thiết cần có cơ chế, chính sách, giải pháp để huy động
và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả ở các địa phương cũng như trên bình diện cả
nước.
Mặc dù các tác phẩm, tác giả đã đề xuất được những giải pháp căn bản, nhưng
việc phản ánh thực trạng thu hút vốn đầu tư để phát triển KT-XH tại các địa phương
trong nước đã phần nào xới lên một trong những vấn đề hết sức gai góc, nóng bỏng
của tiến trình cơng nghiệp hố, đơ thị hố giúp cho các cấp chính quyền, những
người có trách nhiệm, những người quan tâm, thấy được sự cấp bách trong việc tìm
ra những giải pháp cơ bản nhằm thu hút vốn đầu tư có hiệu quả.
Các cơng trình trên tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về lý luận và
thực tiễn. Song chưa có cơng trình nào nghiên cứu dưới giác độ kinh tế phát triển về
thu hút vốn đầu tư trong nước để phát triển KT-XH ở tỉnh Kon Tum. Hơn nữa, vấn
đề thu hút vốn đầu tư trong nước ở một tỉnh như Kon Tum lại gặp rất nhiều khó

khăn. Các biện pháp huy động vốn, sử dụng vốn còn tỏ ra lúng túng, hiệu quả chưa

3


cao. Kon Tum cũng chưa đưa ra được các giải pháp hữu hiệu để thu hút các nguồn
vốn đầu tư trong nước.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trong
nước để phát triển KT-XH tỉnh Kon Tum. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút
vốn đầu tư trong nước có hiệu quả để phát triển KT-XH tỉnh Kon Tum thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thu hút vốn đầu tư trong nước
vào phát triển kinh tế - xã hội.
- Nghiên cứu kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của các tỉnh Gia Lai, Bình Định
và Thành phố Đà Nẵng để vận dụng cho tỉnh Kon Tum.
- Phân tích tình hình thu hút vốn đầu tư trong nước vào phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Kon Tum.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút vốn đầu tư trong nước có
hiệu quả để phát triển kinh tế-xã hội ở tỉnh Kon Tum.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài liên quan chủ yếu đến lĩnh vực thu hút vốn đầu
tư trong nước (vốn bằng tiền) để phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Kon Tum. Luận
văn tập trung nghiên cứu tình hình thu hút vốn đầu tư trong nước để phát triển kinh
tế-xã hội ở tỉnh Kon Tum giai đoạn 2001 - 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, các học thuyết kinh
tế, những luận điểm, quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về thu

hút vốn đầu tư trong nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong điều kiện thực tế cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh, logíc và lịch sử gắn lý luận với thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.

4


6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Trình bày một cách hệ thống lý luận về vốn đầu tư trong nước, chính sách
thu hút vốn đầu tư trong nước và vai trị của nó đối với q trình phát triển . Từ đó
phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trong nước để phát triển tỉnh Kon
Tum, phân tích các chính sách và nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư vào
tỉnh Kon Tum, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm huy động và sử dụng
vốn có hiệu quả để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum.
- Với tỉnh Kon Tum luận văn được coi như một nội dung của sự vận dụng lý
luận vào thực tiễn để cung cấp cho tỉnh chỉ đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội XI của Đảng và Nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ 14, góp phần tháo gỡ khó khăn
sớm đưa Kon Tum thốt ra khỏi tỉnh nghèo làm nền tảng để đưa Kon Tum trở thành
tỉnh công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1, trình bày cơ sở lý luận về thu hút vốn đầu tư trong nước.
Chương 2, nêu thực trạng thu hút vốn đầu tư trong nước vào việc phát triển
KT-XH tỉnh Kon Tum.
Chương 3, đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư
trong nước vào phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum.

5



CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
TRONG NƯỚC
1.1. Đầu tư và vốn đầu tư
1.1.1. Đầu tư
Thuật ngữ đầu tư được hiểu và trình bày trong sách báo kinh tế ở nước ta chưa
đạt tới sự nhất quán. Đầu tư là hành động “bỏ vốn vào một doanh nghiệp, một cơng
trình hay một sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như cấp phát ngân sách, vốn tự có,
liên doanh hoặc vay dài hạn để mưa sắm thiết bị mới, hoặc thực hiện việc hiện đại
hóa, mở rộng xí nghiệp nhằm thu doanh lợi hay phát triển phúc lợi công cộng”
[39,176]. Định nghĩa này nhấn mạnh vào đầu tư phát triển, vào hình thái biểu hiện
và động lực của đầu tư, nhưng không làm rõ bản chất của đầu tư cũng như chưa
phản ánh được đầy đủ nội dung của đầu tư.
Hay “Đầu tư là hoạt động kinh tế gắn với việc sử dụng vốn dài hạn nhằm mục
đích sinh lời” [21,25]. Định nghĩa này nhấn mạnh tính dài hạn và tính sinh lời của
hoạt động đầu tư, nhưng chưa làm rõ hình thái của hoạt động đầu tư.
“Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vơ hình
để hình thành các loại đầu tư [31]. Về mặt khoa học, các định nghĩa này quá chung
chung và trùng lặp khi sử dụng thuật ngữ “hoạt động đầu tư” để định nghĩa đầu tư.
Trong lịch sử, đã có nhiều nhà kinh tế học giành nhiều công sức nghiên cứu và
đi đến những kết luận của mình về đầu tư. Sau đây xin tóm tắt ý kiến cơ bản của
một số nhà kinh tế học tiêu biểu bàn về khái niệm đầu tư:
Nhà kinh tế học John M.Keynes cho rằng đầu tư là hoạt động mua sắm tài sản
cố định để tiến hành sản xuất hoặc có thể là mua tài sản chính để thu lợi nhuận. Đầu
tư ở đây cịn bị giới hạn trong việc mua sắm một tài sản tại sở giao dịch chứng
khốn. Có nói đến đầu tư mua tài sản tài chính, song John M. Keynes chủ yếu tập
trung vào khái niệm đầu tư tạo thêm tài sản vật chất mới (như máy móc, thiết bị,
nhà xưởng…) và để thu về một khoản lợi nhuận trong tương lai: "Khi một người
mua hay đầu tư một tài sản, người đó mua quyền để được thu một loạt các khoản lợi

tức trong tương lai mà người đó hy vọng giành được qua việc bán sản phẩm do tài

6


sản cố định làm ra…” [17]. Như vậy, theo John M. Keynes nói đến đầu tư có nghĩa
là một người nào đó bỏ ra một lượng tiền để mua tài sản với mục đích trong tương
lai chính số tài sản (vật chất) đó sẽ sinh ra một khoản tiền lớn hơn so với số tiền mà
họ đã bỏ ra ban đầu.
Tác giả R.J. Gordon thì cho rằng đầu tư là đưa thêm sản phẩm cuối cùng vào
kho tài sản vật chất sinh ra thu nhập của quốc gia hay thay thế các tài sản vật chất
cũ đã hao mòn. Khái niệm của ông nêu ra đã xem xét đầu tư trên giác độ kết quả
của hoạt động đầu tư đem lại cho nền kinh tế trong quá trình tái sản xuất. Nghĩa là
đầu tư nhằm mục đích duy trì năng lực của nền kinh tế qua việc thay thế tài sản đã
hao mòn. Quan điểm của Gordon đã tiếp cận khái niệm đầu tư trên phạm vi nền
KT-XH.
Nhà kinh tế học P.A Samuelson và Wiliam D. Nordhaus quan niệm “đầu tư có
ý nghĩa là sự bổ sung vào tư liệu sản xuất”... Đầu tư chỉ thực sự xuất hiện khi tạo ra
vốn thực tế” [23,111] và cho rằng đầu tư là hoạt động tạo ra vốn tư bản thực sự,
theo các dạng nhà ở, đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp như máy móc,
thiết bị và nhà xưởng và tăng thêm hàng tồn kho. Đầu tư cũng có thể dưới dạng vơ
hình như giáo dục, nâng cao chất lượng nhân lực, nghiên cứu, phát minh,… Theo
ông trong thuật ngữ tài chính, đầu tư mang một nghĩa hồn tồn khác, dùng để chỉ
mua một loại chứng khốn…, đó không phải là đầu tư thực sự của nền kinh tế. Trên
góc độ làm tăng thu nhập cho tương lai, đầu tư được hiểu là "hoạt động kinh tế từ
bỏ tiêu dùng hiện nay với tầm nhìn để tăng sản lượng cho tương lai", với niềm tin,
kỳ vọng thu nhập do đầu tư đem lại sẽ cao hơn các chi phí đầu tư [23].
Các vấn đề mà P.A Samuelson nêu ra trong các cách tiếp cận về đầu tư đã cho
thấy đầu tư hy sinh tiêu dùng hôm nay để có thu nhập cao hơn trong tương lai và đó
là q trình chứa đựng những rủi ro. Điều đó khơng chỉ nói lên kết quả của đầu tư

mà cịn chỉ rõ nguồn gốc của đầu tư trên góc độ cá nhân cũng như trên phạm vi nền
kinh tế, thể hiện các mối quan hệ thu nhập, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư. Đồng thời,
ông cũng xác định các dạng chính của đầu tư, trong đó đã bao qt được các hoạt
động đầu tư cho khoa học, kỹ thuật và phát triển con người. Như vậy, P.A

7


Samuelson đã đưa ra khái niệm đầu tư đầy đủ hơn so với John M. Keynes và R.J.
Gordon.
Đầu tư là dùng vốn để có được nhiều tiền hơn, hoặc thơng qua những phương
tiện tạo ra thu nhập (lãi, lợi nhuận) hoặc thơng qua những hình thức kinh doanh
mạo hiểm có nhiều rủi ro hơn để kiếm lãi vốn [38]. Quan niệm này đã tiếp cận khái
niệm đầu tư dưới góc độ vốn, dùng vốn để đem lại vốn nhiều hơn, song chưa phản
ánh kết quả đầu tư về hình thái vật chất là tăng thêm năng lực của nền kinh tế.
Qua các khái niệm trên, về mặt lý luận chúng ta có thể phân biệt một số loại
đầu tư như sau:
Đầu tư tài chính là loại đầu tư, trong đó người ta bỏ tiền ra cho vay hoặc mua
các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tùy thuộc vào kết
quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty phát hành.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư, trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi
bán.
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động là loại đầu tư, trong đó người có tiền
bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm duy trì và tạo ra sản phẩm mới cho nền
kinh tế, làm tăng năng lực sản xuất, kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là
điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân.
Hay đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản
vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…), gia tăng năng

lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Ngồi ra, căn cứ vào tính chất đầu tư mà người ta chia ra đầu tư ra làm 2 loại,
đó là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư [31].
Nhà đầu tư có thể là Chính phủ thơng qua các kênh khác nhau để đầu tư cho
xã hội, điều này thể hiện chi tiêu của Chính phủ thơng qua đầu tư các cơng trình,

8


chính sách xã hội. Ngồi ra, người đầu tư có thể là tư nhân, tập thể… kể cả các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể
mà các chủ thể tham gia thể hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong
quá trình đầu tư.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thơng qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khốn và thơng qua các định chế
tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư khơng trực tiếp tham gia quản lý hoạt động
đầu tư [31].
Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà trong đó người bỏ vốn ra và người sử
dụng vốn không cùng một chủ thể. Đầu tư gián tiếp thông thường qua kênh tín dụng
hay kênh đầu tư trên thị trường chứng khoán. Giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp có quan hệ chặt chẽ trong q trình thực hiện đầu tư.
Tóm lại tùy thuộc mục đích, góc độ nghiên cứu khác nhau đã hình thành nhiều
khái niệm về đầu tư và các loại đầu tư khác nhau. Theo tôi trong phạm vi nghiên
cứu của luận văn này, đầu tư được hiểu là việc sử dụng một khoản tiền vào việc tạo
ra hoặc tăng cường cơ sở vật chất cho nền kinh tế nhằm khai thác một cách có hiệu
quả các nguồn lực và thu được các kết quả trong tương lai lớn hơn khoản tiền đã bỏ
ra để đạt các kết quả đó.
Từ các phân tích trên cho thấy đầu tư có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, hoạt động đầu tư thường sử dụng nhiều nguồn lực.
Thứ hai, thời gian kể từ khi bắt đầu thực hiện đầu tư cho đến khi mang lại kết
quả của công cuộc đầu tư phát huy tác dụng phải kéo dài trong một khoảng thời
gian nhất định (nhiều năm, tháng).
Thứ ba, chi phí cần thiết cho một đầu tư lớn và phải nằm ứ đọng trong suốt
quá trình đầu tư. Mất đi cơ hội sử dụng các nguồn lực đó vào những mục đích khác.
Thứ tư, hoạt động đầu tư tạo ra hoặc tăng cường cơ sở vật chất cho nền kinh tế
nhằm khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực.
Thứ năm, mục đích của đầu tư là mang lại lợi ích trong tương lai, kết quả đầu
tư mang lại trong tương lai lớn hơn so với chi phí bỏ ra.

9


1.1.2. Vốn đầu tư
Vốn đầu tư là sự biểu hiện bằng tiền các khoản mục chi phí gắn liền với nội
dung của các hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, cần thiết phải tìm hiểu cặn kẽ bản chất
của vốn đầu tư để từ đó đưa ra một khái niệm đầy đủ hơn về vốn đầu tư.
Về bản chất của vốn đầu tư: Muốn thực hiện đầu tư sản xuất, cần có các nguồn
đầu tư vào như sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Khoản tiền cần
có trang trải các chi phí ứng trước này là vốn đầu tư. Rõ ràng, vốn đầu tư phải lấy từ
trong số của cải đã làm ra, sau khi trừ đi phần tiêu dùng.
Trong tác phẩm "Tư bản", theo Mác, tích lũy là quy luật của tái sản xuất mở
rộng. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, cần tăng cường các yếu tố đầu vào, tức là
phải thực hiện đầu tư vốn.
Với giả định trong nền kinh tế không có ngoại thương, Các Mác chia nền kinh
tế thành hai khu vực: Khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư
liệu tiêu dùng.
Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm c + v + m, trong đó c là tiêu
hao vật chất, v + m là giá trị mới sáng tạo.

Yêu cầu cho quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng là phải đảm bảo cho
giá trị mới sáng tạo của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất của khu vực II, tức là:
(v + m)I > cII

Suy ra

(c + v + m)I > cI + cII.

Có nghĩa là tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I khơng chỉ bồi hồn cho
tiêu hao vật chất ở cả hai khu vực mà còn phải dư thừa để tham gia quá trình đầu tư
làm tăng quy mơ tư liệu sản xuất trong q trình sản xuất tiếp theo. Đồng thời, đối
với khu vực II cũng cần đảm bảo giá trị sản xuất ra lớn hơn tổng giá trị mới sáng tạo
của cả hai khu vực: (c + v + m)II > (v + m)I + (v + m)II. Tức là, tư liệu tiêu dùng do
khu vực II tạo ra không chỉ bù đắp cho tiêu dùng ở cả hai khu vực mà phải dư thừa
để đáp ứng nhu cầu tư liệu tiêu dùng tăng thêm do quy mô của nền sản xuất xã hội
được mở rộng. Như vậy, học thuyết của Mác đã khẳng định về cơ bản và lâu dài,
vốn đầu tư có được nhờ đẩy mạnh sản xuất và thực hành tiết kiệm trong sản xuất và
tiêu dùng.

10


Trong nền kinh tế vĩ mô, theo phương pháp thu nhập thì tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) là: GDP = C + S, trong đó C là tiêu dùng và S là tiết kiệm. Với giác độ
chi tiêu: GDP = C + I, trong đó I là đầu tư. Suy ra I = S. Tức là đầu tư có nguồn gốc
từ một bộ phận của thu nhập tiêu dùng.
Nếu xét thêm yếu tố Chính phủ thì: I = (Y - C - Tx) + (Tx - G), trong đó Y là
sản lượng của nền kinh tế, Tx là thuế và G là chi tiêu của Chính phủ. Tức là đầu tư
phụ thuộc vào tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của khu vực nhà nước.
Trong nền kinh tế mở, các công thức trên được mở rộng:

GDP = C + I + X - M, trong đó X là giá trị hàng hóa xuất khẩu, M là giá trị
hàng hóa nhập khẩu. Mà GDP = C + S nên S = I + X - M. Từ đó suy ra: I = S + (M
- X) và I - S = M - X. Nếu đầu tư lớn hơn tiết kiệm trong nước: I > S thì M - X > 0.
Trường hợp này nhập khẩu vượt xuất khẩu, khoản chênh lệch này thể hiện luồng
vốn từ nước ngoài đưa vào để tài trợ cho đầu tư tư nhân hoặc thâm hụt của Chính
phủ. Như vậy, trong nền kinh tế mở, ngoài nguồn vốn tiết kiệm trong nước, nguồn
vốn đầu tư có thể được huy động từ nước ngồi.
Vậy, vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác đưa vào sử
dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì và tạo năng lực mới cho nền
KT-XH.
Như vậy, theo khái niệm trên thì vốn đầu tư có các đặc điểm sau: vốn đầu tư
biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, có nguồn gốc từ tiết kiệm trong nước và các nguồn
khác, được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội và mục đích sử dụng
vốn đầu tư là duy trì và tạo năng lực mới cho nền KT-XH.
1.1.3. Vốn đầu tư trong nước
Trong phạm vi một quốc gia, nguồn vốn đầu tư được chia thành 2 nguồn:
nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngồi. Trong đó, nguồn vốn
trong nước có vai trị quan trọng và quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển
KT-XH của một quốc gia.

11


Nguồn vốn trong nước thể hiện sức mạnh nội lực của một quốc gia. Nguồn
vốn này có ưu điểm là bền vững, ổn định, chi phí thấp, giảm thiểu được rủi ro và
hậu quả từ bên ngoài. Nguồn vốn trong nước chủ yếu được hình thành từ các nguồn
tiết kiệm trong nền kinh tế. Mặc dù, thời đại ngày nay các dịng vốn nước ngồi
ngày càng trở lên đặc biệt quan trọng, nhiều khi tưởng chừng như không thể thiếu
được đối với các nước đang phát triển, nhưng nguồn vốn tiết kiệm từ trong nước

vẫn giữ vai trò quyết định. Có thể nói, tiết kiệm ln ảnh hưởng tích cực đối với
tăng trưởng, nhất là ở những nước đang phát triển vì làm tăng vốn đầu tư. Hơn nữa,
tiết kiệm là điều kiện cần thiết để hấp thụ vốn nước ngồi có hiệu quả, đồng thời
giảm được sức ép về phía Ngân hàng trung ương trong việc hàng năm phải cung
ứng thêm tiền để tiêu hóa ngoại tệ.
Tiết kiệm trong nước được hình thành từ các khu vực sau:
- Tiết kiệm của Ngân sách Nhà nước: là số chệnh lệch dương giữa tổng các
khoản thu mang tính khơng hồn lại (chủ yếu là thuế) với tổng chi tiêu dùng của
ngân sách. Tiết kiệm ở khâu tài chính này sẽ hình thành nên nguồn vốn đầu tư của
nhà nước. Nghĩa là, số thu nhập tài chính mà ngân sách tập trung được khơng thể
xem ngay đó là nguồn vốn đầu tư của nhà nước, điều này cịn tùy thuộc vào chính
sách chi tiêu dùng của ngân sách. Nếu quy mô chi tiêu dùng vượt quá số thu nhập
tập trung thì nhà nước khơng có nguồn để tạo vốn cho đầu tư.
Đối với các nước đang phát triển, do tiết kiệm của nền kinh tế bị hạn chế bởi
yếu tố thu nhập bình quân đầu người, cho nên, để duy trì sự tăng trưởng kinh tế và
mở rộng đầu tư đòi hỏi nhà nước phải gia tăng tiết kiệm NSNN. Như vậy, để gia
tăng tiết kiệm của NSNN thì nền kinh tế cũng phải trả giá nhất định, vì sự giảm sút
tiết kiệm của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, sự sụt giảm sẽ khơng hồn tồn tương
ứng với mức tăng tiết kiệm của NSNN nếu như tiết kiệm của ngân sách chủ yếu là
thực hiện bằng cách cắt giảm chi tiêu dùng ngân sách.
- Tiết kiệm của doanh nghiệp: Là số lãi rịng có được từ kết quả kinh doanh.
Đây là nguồn tiết kiệm cơ bản để các doanh nghiệp tạo vốn cho đầu tư phát triển
theo chiều rộng và chiều sâu. Quy mô tiết kiệm của doanh nghiệp phụ thuộc vào các

12


yếu tố trực tiếp như hiệu quả kinh doanh, chính sách thuế, sự ổn định kinh tế vĩ
mô…
- Tiết kiệm của các hộ gia đình và tổ chức đồn thể xã hội (sau đây gọi tắt là

khu vực dân cư): là khoản tiền còn lại của thu nhập sau khi đã phân phối và sử dụng
cho mục đích tiêu dùng. Quy mô tiết kiệm khu vực dân cư chịu ảnh hưởng bởi các
nhân tố trực tiếp như trình độ phát triển kinh tế, thu nhập bình qn đầu người,
chính sách lãi suất, chính sách thuế, sự ổn định kinh tế vĩ mô…
Trong nền kinh tế thị trường, số tiền tiết kiệm của khu vực dân cư có thể
chuyển hố thành nguồn vốn cho đầu tư thơng qua các hình thức như gởi tiết kiệm
vào các tổ chức tín dụng, mua chứng khốn trên thị trường tài chính, trực tiếp đầu
tư kinh doanh… Có thể nói, tiết kiệm khu vực dân cư giữ vị trí rất quan trọng đối
với đầu tư thơng qua hệ thống tài chính trung gian.
Tóm lại, tiết kiệm là quá trình nền kinh tế dành ra một phần thu nhập hiện tại
để tạo ra nguồn vốn cung ứng cho đầu tư phát triển, qua đó nâng cao hơn nữa mức
sống ngày càng cao của người dân trong tương lai. Nên việc thu hút, sử dụng nguồn
vốn trong nước đóng vai trị quyết định cho phát triển KT-XH của một quốc gia,
vùng lãnh thổ.
1.2. Thu hút vốn đầu tư trong nước vào việc phát triển kinh tế - xã hội
1.2.1. Khái niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các nước trên
thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của các quốc gia.
Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển trong quá
trình theo đuổi mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước phát triển.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản lượng sản phẩm hàng hóa
vật chất và dịch vụ trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) [14,13].
Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định [14,16].
Phát triển kinh tế bền vững là sự phát triển KT-XH với tốc độ cao và liên tục
trong thời gian dài. Sự phát triển kinh tế đó dựa trên việc sử dụng có hiệu quả

13



nguồn tài nguyên thiên nhiên (TNTN) mà vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái.
Đồng thời, phát triển kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội hiện tại nhưng không
làm cạn kiệt nguồn TNTN để lại hậu quả cho thế hệ mai sau.
1.2.2. Khái niệm về thu hút vốn đầu tư trong nước vào phát triển kinh tế- xã
hội
- Thu hút vốn đầu tư là các hoạt động khai thác các nguồn lực tài chính nhằm
tài trợ vốn cho các dự án đầu tư phát triển của các chủ thể kinh tế.
Đối với chủ thể kinh tế là chính quyền địa phương, thu hút vốn đầu tư trong
nước để phát triển kinh tế của địa phương chủ yếu là các hoạt động của các chính
quyền địa phương nhằm xúc tiến, kêu gọi tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư
trong nước bỏ vốn thực hiện các dự án đầu tư (thực hiện hoạt động đầu tư vốn) hình
thành vốn sản xuất trong các lĩnh vực kinh tế xã hội trên địa bàn của mình.
Như vậy, thu hút vốn đầu tư ở đây được hiểu là thu hút vốn đầu tư trực tiếp, và
kết quả cuối cùng phải hình thành cơ sở sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong nền
kinh tế.
Những chủ thể có khả năng cung ứng vốn đầu tư cho các dự án phát triển
gồm: Các hộ gia đình thuộc mọi tầng lớp dân cư có những khoản tiết kiệm hay nhàn
rỗi; các doanh nghiệp hiện có những khoản vốn nhàn rỗi; Chính phủ hay chính
quyền địa phương. Để tài trợ cho các hoạt động của mình, Chính phủ hay chính
quyền được luật pháp cho phép huy động các khoản thu nhập của các hộ gia đình,
các tổ chức kinh tế…dưới hình thức các khoản thuế, phí, lệ phí…và hình thành quỹ
ngân sách nhà nước. Quỹ ngân sách nhà nước không chỉ trang trải cho các nhu cầu
chi tiêu để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn phải dành một phần để
tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Các tổ chức tài chính trung gian như các ngân hàng thương mại, các cơng ty
tài chính, các quỹ tín dụng, các cơng ty bảo hiểm…;
- Thu hút vốn đầu tư trong nước vào phát triển KT-XH là hoạt động nhắm tới
việc lôi kéo, thuyết phục, làm dồi mọi sự chú ý của nhà đầu tư vào mình, để huy
động, khai thác một cách linh hoạt, tối đa các nguồn vốn vào đầu tư phát triển KT-


14


XH địa phương, quốc gia theo chiến lược, kế hoạch và sự phân công lao động xã
hội của địa phương, quốc gia đó.
- Thu hút vốn đầu tư vào phát triển KT-XH của tỉnh là hoạt động lôi kéo,
thuyết phục để huy động, khai thác một cách linh hoạt, tối đa các nguồn vốn tại chỗ
và các nguồn vốn từ bên ngoài vào đầu tư phát triển KT-XH của tỉnh. Các nguồn
vốn tại chỗ: ngân sách địa phương bao gồm chi đầu tư xây dựng cơ bản tập trung,
nguồn thu từ tiền chuyển quyền sử dụng đất, tiền bán tài nguyên, nguồn thu khác,
nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp và dân cư trong tỉnh; nguồn vốn đầu tư từ bên
ngồi vào tỉnh: ngân sách trung ương, vốn tín dụng nhà nước, vốn khu vực doanh
nghiệp và dân cư ngoài tỉnh. Thực tế thường phân tổng vốn đầu tư toàn xã hội gồm:
vốn nhà nước (vốn ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước, vốn doanh nghiệp nhà
nước), vốn ngồi quốc doanh (vốn của doanh nghiệp, vốn của dân cư) và vốn nước
ngoài (vốn FDI, NGO, các tổ chức đa quốc gia).
1.2.3. Các chính sách thu hút vốn đầu tư trong nước
Các chính sách thu hút vốn đầu tư trong nước là nội dung cơ bản trong thu hút
vốn đầu tư. Thu hút vốn đầu tư chính là mục tiêu ngắn hạn mà chính sách khuyến
khích đầu tư nhắm tới. Vậy thực hiện tốt chính sách khuyến khích đầu tư sẽ thu hút
được tối đa nguồn vốn đầu tư. Các chính sách bao gồm:
1.2.3.1. Chính sách hồn thiện mơi trường đầu tư
Lực cản lớn nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức
gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Bộ máy hành chính hiệu
quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn đầu tư mà cịn của tồn bộ q
trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của mỗi quốc gia cũng như mỗi
địa phương. Bộ máy phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt và nhạy bén. Đối với thủ
tục hành chính, những chủ trương quyết sách cho thu hút đầu tư phải nhất quán, rõ
ràng, minh bạch; những quy định pháp luật cần phải được đơn giản, công khai và
được thực hiện bởi những con người có trình độ chun mơn cao, được giáo dục tốt

và có kỷ luật, tơn trọng pháp luật; nhà lãnh đạo chính quyền địa phương yêu cầu
phải có đủ năng lực, bản lĩnh lãnh đạo, nhất quán trong chỉ đạo, giải quyết những

15


yêu cầu, đề nghị của nhà đầu tư. Đồng thời, để bảo đảm an toàn cho các khoản vốn
đầu tư của nhà đầu tư, nhà nước phải cam kết thực thi môi trường đầu tư ổn định,
nhất quán và minh bạch bằng cách áp dụng hệ thống luật pháp chế định hoạt động
đầu tư ổn định, bảo đảm tính nghiêm minh trong thực hiện các quy định pháp luật
đó. Nhà nước thường sử dụng công cụ Luật Đầu tư để tạo mơi trường vừa bảo đảm
an tồn, vừa định hướng hoạt động đầu tư. Khi thiết lập và thực thi mơi trường bảo
đảm đầu tư, nhà nước cần có lập trường rõ ràng trong điều hịa lợi ích giữa nhà đầu
tư và xã hội thông qua các quy định pháp lý về chất lượng hàng hóa và bảo vệ mơi
trường. Đầu tư là cần thiết, nhưng nhà nước cần ngăn ngừa các hoạt động đầu tư
làm tổn hại đến lợi ích của người dân. Tuy nhiên, nếu không bảo vệ mơi trường thì
lợi ích mà doanh nghiệp nhận được đơi khi nhỏ hơn chi phí xã hội cho việc sản xuất
đó. Khi sử dụng các quy định về bảo vệ mơi trường, nhà nước cần cân nhắc giữa lợi
ích xã hội và chi phí xã hội để có giải pháp hợp với tình hình thực tế và mục tiêu
của nhà nước và nhà đầu tư. Vậy, cần phải có cơ chế, chính sách để đảm bảo cho
mơi trường đầu tư đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu của nhà đầu tư. Đây là
chính sách mềm, vượt trội một khi các chính sách khác được áp dụng như nhau ở
các địa phương, quốc gia.
1.2.3.2. Chính sách khuyến khích đầu tư
Xét về mặt cấu trúc theo sự phân biệt đối xử thì chính sách khuyến khích đầu
tư có tác dụng khuyến khích rất khác nhau vào các nhóm đối tượng khác nhau.
Có nhiều tiêu chí để phân biệt đối xử trong khuyến khích như sở hữu, ngành
nghề, lĩnh vực, địa bàn, quy mô. Hiện nay, xu hướng chung của các nước là áp dụng
ba tiêu chí để xét ưu đãi.
+ Theo ngành nghề/lĩnh vực: Khuyến khích những lĩnh vực nào nhà nước thấy

cần đẩy mạnh đầu tư.
+ Theo địa bàn: Khuyến khích theo địa bàn khó khăn khác nhau.
+ Theo quy mô: Nhiều quốc gia áp dụng các biện pháp ưu đãi/khuyến khích
các đầu tư quy mơ lớn kết hợp công nghệ hiện nay để phát triển các doanh nghiệp

16


đầu đàn; ưu đãi đầu tư quy mô nhỏ để giải quyết việc làm, tạo sự năng động, phát
triển hệ thống thầu phụ…
Công cụ và cơ chế tác động của chính sách khuyến khích đầu tư
- Nhóm cơng cụ thuế: Đây là công cụ chủ lực, áp dụng cho tất cả các loại thuế,
cả thuế gián thu và thuế trực thu, nhưng được sử dụng chủ yếu là nhóm trực thu.
Trong đó, các sắc thuế được sử dụng nhiều với tư cách cơng cụ của chính sách
khuyến khích đầu tư là: Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế
nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, cấm nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt. Nguyên lý sử dụng công cụ thuế rất đơn giản: lĩnh vực, địa bàn nào cần
khuyến khích đầu tư thì nhà nước áp dụng các biện pháp giảm thuế, miễn thuế so
với mức thuế bình thường, căn cứ vào mức ưu đãi đó nhà đầu tư sẽ có quyết định
đầu tư nhiều hơn hoặc ít hơn [9,36].
- Nhóm cơng cụ giá: “Giá được sử dụng tích cực trong chính sách khuyến
khích đầu tư. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, giá cả hàng hóa phải do thị
trường quyết định, nhà nước chỉ trực tiếp can thiệp ấn định giá một số hạn chế các
hàng hóa và yếu tố sản xuất” [9,40]: Giá đất hoặc tiền thuê quyền sử dụng đất, giá
nhân công. Nếu giảm giá sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí, do vậy nâng cao khả
năng cạnh tranh, tăng lợi nhuận. Nhà nước khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nào,
khu vực nào thì giảm hoặc miễn tiền thuê đất hoặc có chính sách định hướng đào
tạo nghề cho lĩnh vực ấy, từ đó khuyến khích đầu tư và sẽ thu hút được nguồn vốn
đầu tư nhiều hơn.
- Nhóm cơng cụ tài chính - tiền tệ [9,42-44]:

+ Lãi suất: chính là giá của vốn nên có tác động trực tiếp đến hành vi đầu tư.
Lý thuyết kinh tế vĩ mơ cũng đã phân tích đầu tư tỉ lệ nghịch với lãi suất. Ngồi ra,
lãi suất cịn có tác động đến cung tiền, do đó tác động đến tỷ lệ lạm phát, từ đó tác
động đến lợi nhuận thực của nhà đầu tư. Vậy một quốc gia muốn tăng đầu tư thì
phải áp dụng các biện pháp để giữ lãi suất ở mức thấp. Đối với từng nguồn vốn cụ
thể, có thể sử dụng biện pháp lãi suất ưu đãi bằng cách cấp tín dụng ưu đãi, hỗ trợ
lãi suất sau đầu tư… để khuyến khích đầu tư. Trong điều kiện hội nhập, biện pháp

17


lãi suất ưu đãi bị coi là hình thức biến tướng của trợ cấp Chính phủ nên sẽ bị kiểm
sốt chặt chẽ. Biện pháp này chỉ được quyền áp dụng phục vụ cho mục tiêu chính
sách đã được minh bạch hóa như tạo việc làm, khơi phục tài ngun, sản xuất hàng
hóa, xóa đói, giảm nghèo, phát triển doanh nghiệp nhỏ…
+ Mở rộng các kênh tài chính: Các kênh tài chính cho doanh nghiệp hoạt động
trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng, trong đó có nhiều kênh do nhà nước kiểm
soát khá chặt như phát hành trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu. Do vậy, nhà nước có thể
sử dụng chính cơ chế và điều kiện phát hành các chứng chỉ có giá của doanh nghiệp
để khuyến khích đầu tư.
1.2.3.3. Chính sách xúc tiến đầu tư
Xúc tiến đầu tư là hoạt động quảng bá hình ảnh một quốc gia, một địa phương
hay một khu kinh tế, để mọi đối tác quan tâm đến vấn đề đầu tư có điều kiện tìm
hiểu kỹ về cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư, về nhu cầu đầu tư, về điều kiện kết cấu
hạ tầng, về nguồn nhân lực, về thị trường tiêu thụ và các vấn đề có liên quan khác.
Đó là những nội dung mà các nhà đầu tư nghiên cứu làm cơ sở cho việc quyết định
đầu tư.
Có thể nói cơng tác xúc tiến đầu tư chính là hoạt động đối ngoại trong đầu tư,
tức là hoạt động đưa thơng tin, quy hoạch đầu tư ra bên ngồi và đến với các đối
tượng có nhu cầu đầu tư. Vì vậy, chích sách xúc tiến đầu tư là một trong những

chiến lược quan trọng của mọi quốc gia, địa phương trong q trình phát triển. Đặc
biệt, trong điều kiện tồn cầu hoá ngày càng diễn ra sâu sắc, đầu tư nước ngoài đang
trở thành xu hướng tất yếu, là một trong những biện pháp quan trọng để các nước
đang phát triển thay đổi cơ cấu đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Trong xúc tiến thu hút
đầu tư thường người ta tổ chức cho các doanh nghiệp thành công báo cáo và tiếp
xúc. Trong nhiều trường hợp chính các nhà đầu tư trước sẽ đứng ra kêu gọi các
doanh nghiệp khác.
1.2.3.4. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của một quốc gia là bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có
khả năng tham gia lao động, trong đó nguồn lao động là nhân tố quyết định. Lịch sử

18


lồi người đã chứng minh vai trị quyết định của lao động đối với sự phát triển KTXH. Vì lao động là tiềm năng đặc biệt của mỗi quốc gia, là chủ thể sản xuất và là
lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội; là nhân tố quyết định trong việc khai thác,
sử dụng và tái tạo các nguồn lực khác của quá trình phát triển KT-XH; Khi kinh tế
càng phát triển, tốc độ đầu tư, tốc độ kinh doanh càng quay nhanh, công nghệ càng
hiện đại, phương thức sản xuất càng đổi mới, trình độ sản xuất của xã hội càng tiến
nhanh từ nền kinh tế tự động hố tới nền kinh tế tri thức thì sự địi hỏi đối với lực
lượng lao động càng cao. Nguồn lao động khơng chỉ đáp ứng vấn đề số lượng mà
cịn đảm bảo vấn đề chất lượng của lực lượng sản xuất. Và bản thân nguồn lao động
cịn có thể tự thân vận động và làm phát triển nó bên cạnh việc phát triển sản xuất.
Vậy, để phát triển nguồn lao động đảm bảo số lượng và chất lượng phục vụ phát
triển KT-XH của địa phương, quốc gia,… thì cần có lộ trình chính sách ưu tiên phát
triển nguồn lao động một cách hợp lý.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực là tập hợp những biện pháp, cơ chế
nhằm phát triển nguồn lao động đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng cao, trong
đó tập trung chủ yếu vào ba chính sách lớn: đào tạo, bồi dưỡng; sử dụng và quản lý;
bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần.

Vậy, Chính quyền và các cơ quan chức năng cần phải có chính sách, biện pháp
kết hợp thật tốt giữa đào tạo và sử dụng trong tổng thể phát triển KT-XH của đất
nước, đáp ứng có hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao phục vụ yêu cầu phát
triển của nền kinh tế và đồng thời cho nhà đầu tư.
1.2.4. Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư trong nước vào việc phát triển kinh tếxã hội
Trong nhiều nguồn lực tác động đến sự phát triển KT-XH của một quốc gia,
địa phương, thì vốn đầu tư giữ vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt, đối với các nước
đang phát triển khi mà tích lũy của nền kinh tế còn thấp, tỷ lệ tiết kiệm cho đầu tư
chưa nhiều, thì ln phải đối mặt với việc thiếu vốn đầu tư cho phát triển. Do vậy,
vấn đề tìm kiếm giải pháp để thu hút vốn đầu tư trong nước vào phát triển KT-XH
được các nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu, được Chính phủ các nước đẩy mạnh

19


thực hiện, và thực tế đang là tâm điểm đặt ra u cầu bức thiết, bài tốn khó cho
mỗi quốc gia, địa phương.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư trong nước vào phát triển KT-XH là sự cần
thiết khách quan, bởi một số lý do sau:
Thứ nhất, vốn đầu tư nói chung, vốn đầu tư trong nước nói riêng tác động đến
tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế. Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần
đầu tư; đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.
Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung từ
nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước bao hàm các yếu tố sản xuất: vốn,
lao động, tài nguyên, công nghệ…; như vậy, tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên
nhân trực tiếp làm tăng tổng cung nền kinh tế.
Thứ hai, vốn đầu tư trong nước góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Đề cập đến vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu, đưa ra nhiều lý thuyết khác nhau như: lý thuyết số
nhân đầu tư, gia tốc đầu tư, quỹ nội bộ đầu tư, lý thuyết tân cổ điển (hàm Cobb

Douglas), mơ hình Harrod -Domar… Tuy vậy, thì mơ hình Harrod -Domar chỉ ra sự
ảnh hưởng trực tiếp của vốn đầu tư đến tăng trưởng kinh tế; thường được sử dụng
để đánh giá và dự báo quy mô vốn đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế, mối quan hệ
giữa vốn đầu tư và tăng trưởng, phát triển KT-XH của một quốc gia, địa phương.
Mơ hình Harrod - Domar chỉ ra mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng
trưởng kinh tế thông qua hệ số ICOR [20,200].
Mức tăng GDP = Vốn đầu tư tăng thêm trong kỳ/ICOR
ICOR

= Vốn đầu tư tăng thêm trong kỳ/GDP tăng thêm.

Từ công thức trên ta thấy nếu ICOR không đổi, mức tăng trưởng kinh tế hàng
năm với tốc độ cao thì phải tăng mức đầu tư và giảm ICOR xuống hoặc hạn chế
không tăng. Như vậy, lượng vốn đầu tư tăng lên góp phần quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Ngoài ra, vốn đầu tư tăng lên thì nhu cầu các yếu tố đầu vào của quá
trình đầu tư sản xuất tại chỗ tăng lên, q trình đó làm cho kinh tế tăng trưởng và
phát triển.

20


Thứ ba, vốn đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn
đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối tương quan giữa
chúng so với một thời điểm trước đó. Đầu tư chính là phương tiện đảm bảo cho cơ
cấu được hình thành hợp lý. Trên cơ sở cơ cấu kinh tế được xác định cho mỗi thời
kỳ, định hướng và các biện pháp huy động vốn đầu tư cụ thể đối với mỗi ngành làm
cho tỷ trọng vốn đầu tư giữa các ngành khác nhau sẽ mang lại kết quả tăng trưởng
khác nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành và ảnh hưởng chung
đến tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.

Cùng với những vai trị trong q trình chuyển dịch cơ cấu ngành, vốn đầu tư
còn tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu vùng, hình thành và phát huy vai trị
của vùng trọng điểm, đồng thời tăng cường tiềm lực kinh tế cho các vùng khó khăn,
thúc đẩy mối liên hệ, giao lưu kinh tế liên vùng, đảm bảo phát triển kinh tế bền
vững.
Định hướng và biện pháp thu hút vốn đầu tư hợp lý còn tác động đến cơ cấu
thành phần kinh tế và tác động đến mối quan hệ giữa đầu tư khu vực nhà nước và
khu vực tư nhân. Vốn đầu tư công cộng của Nhà nước phải có tác động lơi kéo, dẫn
dắt mà khơng làm suy giảm, lấn át đầu tư tư nhân.
Thứ tư, vốn đầu tư góp phần tăng cường khoa học kỹ thuật, cơng nghệ
Thu hút vốn đầu tư cho phát triển KT-XH làm cho trình độ khoa học kỹ thuật
và cơng nghệ của nền kinh tế được tăng cường thông qua các dự án đầu tư được
triển khai, thay thế các thiết bị kỹ thuật cơng nghệ thấp nhưng cũng có những lợi thế
của người đi sau tiếp thu, thích nghi và làm chủ cơng nghệ có sẵn, rút ngắn thời
gian và giảm những rủi ro trong áp dụng công nghệ mới. Mặt khác, điều kiện kinh
tế cũng tạo ra khả năng đi tắt, đón đầu những cơng nghệ hiện đại.
Với một tỉnh cịn nghèo, lại gặp nhiều khó khăn thì vai trị của vốn đầu tư đối
với phát triển KT-XH là rất lớn, được thể hiện ở các khía cạnh sau: Vốn đầu tư góp
phần đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh; vốn đầu tư là điều kiện để phát
triển sản xuất kinh doanh, cải thiện nâng cao đời sống của dân cư ở các địa

21


phương; góp phần xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng; đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao; tái tạo môi trường sinh thái, bảo vệ rừng … tạo ra sự phát triển cân đối
bền vững về KT-XH; có vai trò quan trọng trong xây dựng tuyến phòng thủ biên
giới quốc gia, bảo vệ an ninh quốc phịng. Ngồi ra, thu hút vốn đầu tư cho phát
triển KT-XH cịn góp phần tạo ra công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, làm cho
nguồn nhân lực phát triển cả về số lượng và chất lượng; đồng thời tạo điều kiện

khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và góp phần tận thu ngân sách
ở địa phương.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư trong nước vào
việc phát triển kinh tế - xã hội
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có tầm quan trọng trong việc thành công hay thất bại của
việc quyết định đầu tư. Nó chính là mơi trường đầu tư tự nhiên mà thiên nhiên tạo
ra cho con người, điều kiện ấy thoả mãn các yêu cầu của sự phát triển, nếu thoả mãn
ngày càng nhiều các điều kiện thì sự thuận lợi càng lớn và ngược lại. Việc xác định
đúng vị trí để xây dựng các nhà máy, doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định 50% của
sự thành cơng 50% còn lại phụ thuộc vào vai trò còn lại của các nhân tố khác. Để
xác định một vị trí, điều kiện tự nhiên cho đầu tư một dự án người ta thường dựa
vào nhiều tiêu chí song về mặt địa lý kinh tế thì đó là nơi phải hội tụ được các yếu
tố cơ bản sau:
- Trước hết đó phải là nơi có điều kiện giao thơng thuận lợi nhất là nơi thông
thương với các quốc gia và vùng lãnh thổ về các quan hệ buôn bán trao đổi. Đồng
thời hệ thống đường bộ nối liền giữa các vùng trong một quốc gia hoặc nối liền giữa
các quốc gia cũng là nhân tố cần thiết cho sự phát triển.
- Vị trí địa lý cịn là yếu tố tác động đến việc sinh lợi nhuận lớn nên thường
được quan tâm khảo sát, chọn lựa kỹ càng trước khi quyết định đầu tư. Vị trí đầu tư
lý tưởng là vị trí đáp ứng được nhiều nhất các yếu tố thuận lợi hoặc ít nhất cũng là
các yếu tố cơ bản về: giao thơng, thị trường và mặt bằng bố trí sản xuất.

22


Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý của mỗi địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến
thu hút vốn đầu tư. Về phía nhà đầu tư, hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu
khi thực hiện cơng cuộc đầu tư. Do vậy, ở những địa phương có nhiều lợi thế về
điều kiện tự nhiên như vị trí thuận lợi, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

phong phú,… có khả năng giảm chi phí, đem lại lợi nhuận cao, thì dễ hấp dẫn nhà
đầu tư hơn, có khả năng thu hút vốn đầu tư nhiều hơn. Ngược lại, các địa phương có
vị trí ít thuận lợi hơn, tài nguyên thiên nhiên không nhiều, thị trường nhỏ,… thì khả
năng thu hút, huy động vốn đầu tư cho phát triển KT-XH của địa phương lại càng
khó khăn.
1.3.2. Thể chế chính trị - xã hội
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng,
phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp [12,88].
“Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội;
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy” [12,89].
Thể chế chính trị là hệ thống các chế định, giá trị chuẩn mực hợp thành những
nguyên tắt tổ chức và phương pháp vận hành của một chế độ chính trị, là hình thức
thể hiện các thành tố của hệ thống chính trị; là cơ sở chính trị - xã hội quy định tính
chất, nội dung của chế độ xã hội nhằm bảo vệ quyền lực của giai cấp cầm quyền
[12,85].
Nếu thể chế chính trị khơng phản ánh đúng quy luật kinh tế khách quan của
kinh tế thì chúng sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển kinh tế-sự tụt hậu, bảo thủ của
các thể chế chính trị so với trình độ phát triển kinh tế sẽ là yếu tố lực cản đối với
tiến bộ xã hội và ngược lại.
Trong thể chế chính trị thì thể chế nhà nước có vai trị quan trọng nhất, nó quy
định tính chất, trạng thái của một chế độ chính trị - xã hội của một quốc gia. Ở nước

23


ta, xét về mặt cấu trúc tổ chức thì thể chế chính trị hiện nay bao gồm: Thể chế Đảng

cộng sản cầm quyền, Thể chế Nhà nước, Thể chế tổ chức chính trị-xã hội.
Sự ổn định về thể chế chính trị, sự tinh gọn, hiệu quả của bộ máy Nhà nước sẽ
là nhân tố quan trọng trong thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư. Vì nhà đầu tư ở đây
được đảm bảo bằng hệ thống pháp luật đầu tư ổn định, chặt chẽ, hành lang pháp lý
và môi trường xã hội thuận lợi. Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những
rủi ro của vốn đầu tư vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư. Những bất ổn chính trị
khơng chỉ làm cho dịng vốn đầu tư bị chững lại, thu hẹp mà còn làm cho dòng vốn
đầu tư từ trong nước chảy ngược ra ngồi, tìm đến nơi trú ẩn mới an toàn và hấp
dẫn hơn.
1.3.3. Tình hình phát triển kinh tế
Sự phát triển kinh tế của địa phương hay quốc gia có vai trị lớn trong thu hút
đầu tư. Sự phát triển kinh tế nhanh, ổn định phản ánh tình hình kinh doanh của các
doanh nghiệp trên địa bàn đang tốt và thuận lợi. Trong điều kiện này, thị trường của
địa phương cũng đang vận hành tốt và sôi động, doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm tốt.
Đồng thời, ở đó mơi trường kinh doanh bảo đảm thuận lợi. Thơng tin về tình hình
phát triển kinh tế chính là yếu tố đầu tiên mà doanh nghiệp muốn nắm bắt khi tìm
hiểu thị trường để đầu tư. Ở đâu nền kinh tế phát triển ổn định, liên tục thì ở đó thu
hút ngày càng vốn đầu tư.
1.3.4. Nhân tố thị trường, đặc biệt là thị trường vốn
Qui mô và tiềm năng phát triển của thị trường là một trong những nhân tố
quan trọng trong việc thu hút đầu tư. Khi đề cập đến qui mô của thị trường, tổng giá
trị GDP - chỉ số đo lường qui mô của nền kinh tế - thường được quan tâm. Theo
nhiều chuyên gia cho rằng, qui mô thị trường là cơ sở quan trọng trong việc thu hút
đầu tư tại tất cả các quốc gia và các nền kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho thấy vốn đầu
tư là hàm số phụ thuộc vào qui mô thị trường của địa bàn mời gọi đầu tư. Các
nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng, mức tăng trưởng GDP cũng là tín hiệu tốt cho
việc thu hút vốn đầu tư. Bên cạnh đó, nhiều nhà đầu tư với chiến lược “đi tắt đón
đầu” cũng sẽ mạnh dạn đầu tư vào những nơi có nhiều kỳ vọng tăng trưởng nhanh

24



trong tương lai và có các cơ hội mở rộng ra các thị trường lân cận. Khi lựa chọn địa
điểm để đầu tư, các nhà đầu tư cũng nhắm đến những vùng tập trung đông dân cư –
thị trường tiềm năng của họ [37, 271].
Thị trường vốn là một bộ phận của thị trường tài chính. Thị trường vốn gồm
các thị trường: thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và thị trường tín dụng
trung và dài hạn. Tham gia thị tài chính gồm có Ngân hàng Trung ương, Kho bạc
Nhà nước, các định chế tài chính, các nhà mơi giới tiền tệ, chứng khoán, các doanh
nghiệp và cá nhân. Các sản phẩm của thị trường vốn bao gồm cổ phiếu, trái phiếu
chính phủ, trái phiếu cơng ty, khế ước thế chấp và tín dụng trung, dài hạn của ngân
hàng. Thị trường vốn đóng vai trị quan trọng trong việc tài trợ các khoản đầu tư dài
hạn cho Chính phủ, các doanh nghiệp, các hộ gia đình. Thị trường vốn, nhất là thị
trường chứng khốn cịn được dùng để đo “sức khoẻ” của nền kinh tế. Vai trò quan
trọng nữa của thị trường vốn, đặc biệt là của thị trường trái phiếu cơng ty, là góp
phần giảm thiểu vấn đề “sai lệch kép” (sai lệch kỳ hạn và đồng tiền) của hệ thống
ngân hàng và các doanh nghiệp. Lý do là, thị trường trái phiếu công ty tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát hành các trái phiếu dài hạn bằng đồng nội tệ để tài trợ cho
hoạt động đầu tư kinh doanh dài hạn trong nước, giảm bớt sự phụ thuộc và nguồn
vốn vay từ hệ thống ngân hàng [37, 270].
1.3.5. Mức độ đáp ứng về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống hạ tầng tác động trực tiếp đến hiệu quả đầu
tư, hệ thống hạ tầng đồng bộ, chất lượng tốt trực tiếp làm giảm chi phí đầu tư, tăng
khả năng cạnh tranh, vì vậy sẽ mang lại lợi nhuận cao đáp ứng được mục tiêu của
các nhà đầu tư. Do vậy, chỉ khi xây dựng được một kết cấu hạ tầng KT-XH phù hợp,
thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thì mới có thể thu hút vốn đầu tư nói
chung và nguồn vốn đầu tư trong nước nói riêng. Chất lượng của cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và trình độ cơng nghiệp hóa cũng ảnh hưởng rất quan trọng đến dòng vốn đầu
tư vào một nước hoặc một địa phương. Một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật hoàn
chỉnh (bao gồm cả hệ thống đường bộ, đường sắt, đường hàng không, mạng lưới

cung cấp điện, nước, bưu chính viễn thơng và các dịch vụ tiện ích khác), là điều

25


×