Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT mối QUAN hệ BIỆN CHỨNG GIỮA cơ sở hạ TẦNG và KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG, sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG đổi mới KINH tế với đổi mới hệ THỐNG CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.78 KB, 15 trang )

2

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG - SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
TRONG ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

MỞ ĐẦU
Ði lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng thiêng liêng của cả dân tộc Việt
Nam. Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa mà
Ðảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; không ngừng tìm tòi, đổi mới và tổng
kết lý luận - thực tiễn để có nhận thức ngày càng đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức về CNXH và
con đường đi lên CNXH ở nước ta đã trải qua một quá trình lâu dài và khó khăn
và phức tạp. Trong quá trình đó Ðảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ
thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là
trong thời kỳ đổi mới. Một trong những lý luận cơ bản nhất mà Đảng ta đã luôn
luôn vận dụng trong công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta đó là học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội. Trong lý luận này, C.Mác không những đã chỉ ra quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất mà còn chỉ ra mối quan hệ đặc biệt quan trọng của cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng. Việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc đề
ra đường lối phát triển của đất nước, đặc biệt là vấn đề giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới hệ thống chính trị. Giữa chính trị và kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ và
tác động biện chứng với nhau. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới hệ thống chính trị. Để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển nền kinh tế thị trường, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính



3

trị, thực hiện dân chủ hoá xã hội, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa; đồng thời, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

NỘI DUNG
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, một giai
cấp tiến bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản
của nhân dân lao động và với sự phát triển xã hội. Nghiên cứu triết học Mác
không thể bỏ qua những quy luật vận động phát triển của xã hội. Đặc trưng của
quá trình lịch sử tự nhiên là sự thống nhất và tác động biện chứng lẫn nhau của
các yếu tố đó trong từng xã hội tạo ra những quan hệ có tính quy luật và động
lực bên trong quyết định sự vận động và phát triển của xã hội cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng luôn có mối quan hệ biện chứng và là một trong những
quy luật tất yếu. Mọi xã hội có kết cấu kinh tế đặc trưng riêng tức là cơ sở hiện
thực của xã hội trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh
tế của một xã hội nhất định, cơ sở hạ tầng hình thành một cách khách quan trong
quá trình sản xuất vật chất của xã hội nó bao gồm không chỉ những quan hệ trực
tiếp giữa người với người trong sản xuất vật chất mà còn bao gồm cả những
quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất ra đời sống xã hội. Mọi hình thái
kinh tế - xã hội có cơ sở hạ tầng của nó và đặc trưng của mỗi cơ sở hạ tầng do
những quan hệ sản xuất nhất định qui định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể
đặc trưng ở kiểu quan hệ sản xuất thống trị trong nền kinh tế ở những hình thái
kinh tế xã hội đã phát triển, các quan hệ kinh tế tàn dư, mầm móng có vị trí
không đáng kể còn cơ sở hạ tầng của xã hội còn đang ở giai đoạn mang tính chất
quá độ thì quan hệ kinh tế tàn dư và mầm móng lại có vị trí quan trọng trong cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp cơ sở hạ
tầng của xã hội cũng mang tính chất đối kháng.



4

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, tồn giáo, đạo đức, nghệ thuật … với những thể chế tương ứng (Nhà
nước, tôn giáo, Đảng phái, các tổ chức kinh tế xã hội khác) được hình thành trên
cơ sở hạ tầng nhất định. Đặc trưng kiến trúc thượng tầng của một chế độ xã hội
là sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp thống trị đối với toàn bộ đời
sống xã hội, mỗi bộ phận trong kiến trúc thượng tầng có vị trí vai trò của nó và
có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó các bộ phận như Nhà nước, chính Đảng,
phát luật, các tổ chức chính trị xã hội, hệ tư tưởng các liên hệ trực tiếp với cơ sở
hạ tầng, những bộ phận khác chỉ liên hệ gián tiếp. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng
của xã hội mới không nảy sinh đầy đủ trong lòng xã hội cũ, nhưng những bộ
phận nhất định thì đã có thể ra đời ngay trong lòng xã hội cũ đặc biệt ở giai đoạn
phát triển cuối cùng ở xã hội cũ. Trong xã hội có giai cấp kiến trúc thượng tầng
mang tính giai cấp trong đó Nhà nước là bộ máy quyền lực của giai cấp thống trị.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng
trong một hình thái chính trị nhất định. Quan hệ này là một biểu hiện đặc trưng
của mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị tư tưởng, do đó nó diễn ra trên cơ sở
tính quyết định của kinh tế.
Trong sự tác động qua lại giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì
cơ sở hạ tầng giữa vai trò qui định kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng với tính
cách là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương
ứng, qui định tính chất của kiến trúc thượng tầng nói một cách khác tính chất xã
hội và giai cấp của kiến trúc thượng tầng phản ánh tính chất xã hội và giai cấp
của cơ sở hạ tầng. Vai trò qui định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng
tầng còn thể hiện ở chổ sự biến đổi cưn bản trong cơ sở hạ tầng tăng dần đến sự
biến đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng. Song điều đó không có nghĩa là cơ
sở hạ tầng cũ mất đi cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì kiến trúc thượng tầng cũ sẽ
bị thủ tiên toàn bộ tức khắc và kiến trúc thượng tầng mới sẽ nảy sinh đầy đủ,

vững chắc ngay lập tức.


5

Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng còn có sự tác động qua lại của
kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng nảy sinh từ kinh tế, tồn tại trên cơ
sở kinh tế là mục đích của chính trị. Không phải có Nhà nước mới có tác dụng to
lớn đối với cơ sở hạ tầng mà các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật … cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng. Các
yếu tố của kiến trúc thượng tầng không chỉ tác động đến cơ sở hạ tầng mà chúng
còn tác động lẫn nhau. Sự tác động thông qua Nhà nước với những luật pháp
tương ứng có được hiệu lực mạnh mẽ hơn cả đối với cơ sở hạ tầng.
Tóm lại, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện
chứng tác động lẫn nhau, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống
nhất biện chứng trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị.
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một
nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng ta từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này
của Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới của Đảng.
Trải qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử. Có được những kết quả đó là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng; sự năng động, sáng tạo trong quản lý của Nhà nước; tinh thần làm
chủ của nhân dân. Ở nước ta, đổi mới xuất hiện như một tất yếu lịch sử, thực sự
là sự nghiệp cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc, gắn liền với sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam; trong đó, Đảng đã giải quyết một cách

tinh tế giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, trong điều kiện đất
nước bị các thế lực thù địch bao vây cấm vận, vẫn còn tiếng súng ở biên giới
phía Tây Nam và biên giới phía Bắc, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân


6

dân ta đã nỗ lực phấn đấu, đạt được thành tựu bước đầu của công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong lãnh đạo, quản lý, chúng ta đã kéo dài quá
lâu cơ chế tập trung, bao cấp, làm suy yếu động lực phát triển. Nền kinh tế của
đất nước gặp vô vàn khó khăn, sản xuất trì trệ, hàng hoá thiếu thốn, giá cả tăng
vọt, lạm phát đến 3 chữ số; đời sống xã hội vô cùng bức xúc,… lòng tin của
nhân dân đối với chế độ XHCN giảm sút. Thực tiễn cho thấy, mô hình kinh tế và
cách quản lý cũ đã bộc lộ những hạn chế; vì vậy, một số xí nghiệp quốc doanh,
hợp tác xã,… và một số địa phương đã có những cải tiến “vượt rào”, “bung sản
xuất ra”, tháo gỡ bế tắc trong phân phối - lưu thông… nhằm thúc đẩy kinh tế
phát triển. Trong điều kiện đó, Đảng ta đã từng bước bám sát thực tiễn đời sống
xã hội, tỏ thái độ ủng hộ và nâng đỡ những “mầm non” sáng kiến đó. Nghị quyết
Trung ương 6, khoá IV (1979) của Đảng đã nhấn mạnh đến quan hệ hàng hoá tiền tệ, đến lợi ích kinh tế, đến thống nhất 3 lợi ích (lợi ích nhà nước, lợi ích tập
thể, lợi ích cá nhân người lao động) làm động lực để phát triển kinh tế, góp phần
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất và từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Ban Bí
thư Trung ương Đảng khóa IV ra Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến
nhóm và người lao động trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; Chính phủ
ra Nghị quyết 25/CP, Nghị quyết 26/CP về 3 phần kế hoạch và quyền tự chủ
kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh. Như thế, lịch sử và thực tiễn đã chỉ ra
rằng: đổi mới ở nước ta là từ đổi mới từng phần, từ đổi mới kinh tế, từ phong
trào nhân dân kết hợp với sự lãnh đạo của Đảng, từ dưới lên trên và từ trên
xuống dưới. Bản thân đổi mới xuất hiện như một giải đáp chính trị nhằm ổn
định xã hội, tìm tòi, sáng tạo giải pháp thực hiện con đường đi lên CNXH; tìm

tòi mô hình CNXH thực tế và hiệu quả.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam đã diễn ra trên khắp các lĩnh vực của
đời sống xã hội: kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh… và cả phương
thức tổ chức, hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. Tuy nhiên, bước đi của đổi mới là vấn đề vô
cùng nhạy cảm và hệ trọng. Quan điểm của Đảng ta là đổi mới toàn diện, nhưng


7

đặt trọng tâm vào đâu, lĩnh vực nào đi trước, lĩnh vực nào đi sau,… để đảm bảo
cho đổi mới phát triển đúng hướng, giành thắng lợi, đòi hỏi ý thức sâu sắc và
nghệ thuật lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Thực tế ở Liên Xô cho thấy, ngay trong
bước đầu của cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đi vào cải tổ chính trị, nêu ra
dân chủ hoá, công khai hoá; hơn nữa, lại để phong trào phát triển vô chính phủ,
xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tách Đảng khỏi Nhà nước, tách Nhà
nước ra khỏi Đảng, nêu khẩu hiệu Đảng hoá thân vào Nhà nước, thực chất là vô
hiệu hoá Đảng, nên đã dẫn đến tan vỡ Đảng, sụp đổ chế độ XHCN, Liên bang
Xô Viết tan rã.
Đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
Đảng ta đã cân nhắc cẩn trọng, nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Kinh tế và chính trị có mối quan hệ
biện chứng; kinh tế là cơ sở của đời sống xã hội, hạ tầng cơ sở quyết định
thượng tầng kiến trúc; chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, những thay
đổi chính trị sẽ làm cho xã hội diễn biến “1 ngày bằng 20 năm”. Vì vậy, ngay từ
khi đề ra đường lối đổi mới cũng như trong hoạt động thực tiễn, đất nước tavừa
có đổi mới kinh tế, vừa có đổi mới chính trị. Ngay từ đầu, trên đất nước ta, cùng
với không khí sôi động của đổi mới kinh tế thì không khí dân chủ trong sinh
hoạt xã hội, đặc biệt trong thông tin, báo chí lại càng sôi động hơn.
Đại hội VI của Đảng (12-1986) là một bước ngoặt có tính nhảy vọt cách

mạng: quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Khác với đường lối cải
tổ và cách thực thi cải tổ ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, đường lối đổi
mới của chúng ta không phải là “nã đại bác vào quá khứ”, xoá bỏ CNXH; trái
lại, nó mang tính kế thừa có chọn lọc, đổi mới để có CNXH thực tế, CNXH đầy
đủ, CNXH khoa học. Vì thế, công cuộc đổi mới ở nước ta đã không dẫn đến chia
rẽ xã hội, mà đoàn kết, khôi phục niềm tin, động viên toàn thể dân tộc, tạo động
lực to lớn thúc đẩy đất nước phát triển. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất chính


8

trị - xã hội sâu sắc, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn để tìm kiếm mô hình phát triển đất nước hợp
lý theo định hướng XHCN.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý
luận cả về mặt thực tiễn.
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế
độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền
kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới,
kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là
đổi mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành
của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi

mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn đinh
chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền
dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không có
nghĩa là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện
cho các lĩnh vực khác phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện
hơn. Ổn định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của


9

Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong quá trình đổi mới đất nước.
Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân,
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các
nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi mới theo đúng định hướng
XHCN: “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm
phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng
sáng tạo vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin”.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6
Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt
đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một
cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có
mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về
chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới” . Một bước đi cực kỳ đứng đắn và
thể hiện được bản lĩnh chính trị của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị

lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (8-l989) về công tác tư tưởng
trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp khi đó: "Chế độ chính trị của chúng ta
là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta
không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống
đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách
kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế”.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ VII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi
hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan
trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi


10

mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của
nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” . Kinh nghiệm
thành công của sự kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị”.
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và
nguyện vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng
định trong các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có
kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức,
tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý
của nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”.

Đại hội XI của Đảng đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp,
trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật,
kỷ cương..”. Như vậy,về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi
mới để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Để hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, Đảng ta coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và
hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.


11

Thứ ba, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh
tế theo cơ chế thị trường.
Thứ tư, chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ
bảo đảm phát triển lành mạnh nền kinh tế.
Thứ năm, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường:
Thực hiện tốt năm giải pháp này sẽ góp phần trực tiếp hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường XHCN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản,
trọng yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương. Đây là balĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong
đổi mới chính trị. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết
và hàng đầu.

Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ
hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Thứ hai, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay, hoặc buông lỏng
lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân.
Thứ tư, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ trung ương đến địa phương cơ sở; cải cách thủ tục hành chính trong
Đảng.
Thứ năm, đổi mới cách ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm
tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết.


12

Đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XI của
Đảng chủ trương:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN.
Thứ hai, tiếp tục đối mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp
ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí.
Đối với việc mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương. Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, trước hết
là thực hiện dân chủ trong Đảng.

Thứ hai, có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp
của mình; chống tập trung, quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
Thứ ba, phát huy dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm công dân, kỷ
luật, kỷ cương; phê phán, nghiêm trị hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân, những hành vi lợi dụng dân chủ vì mục đích xấu.
Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục tiêu
xây dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh “làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và
phát triển”8 nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng.
Tiêu chí này chỉ rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta.
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:


13

Thứ nhất, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống còn
đối với dân tộc Việt Nam là chúng ta tiến hành quá trình đổi mới không phải bắt
đầu từ việc “đổi mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xô và các nước
XHCN khác ở Đông Âu, cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập tức cả hai
lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh giữ vững ổn
định chính trị, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính trị
cho việc điều chỉnh và đổi mới kinh tế.
Thứ hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách
chuyển đổi cơ chế và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, kinh
tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rỡ rệt.
Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích của mình được
đảm bảo. Nhờ có tư duy mới và dựa vào lợi ích của nhân dân nên đường lối đổi
mới đã gắn chặt với thực tiễn đất nước, mang “hơi thở” cuộc sống. Bằng các chủ

trương, chính sách vừa có tính định hướng, vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi
mới của Đảng đã đi vào cuộc sống, tạo tiền đề để giải phóng sức sản xuất xã hội,
phát huy tinh thần sáng tạo, tính tích cực chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ
động tham gia vào đời sống kinh tế, đời sống chính trị để xây dựng, phát triển
kinh tế, bảo vệ chế độ đã, đang đảm bảo lợi ích cho họ. Nhờ vậy, “Sau hơn 20
năm hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra
khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường”9.
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối
quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta còn
có nhiều đem cần phải cố gắng hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình
lâu dài và phức tạp do thực tiễn luôn vận động và thay đổi. Đường lối đổi mới
và định hướng đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng cần phải khẳng
định là đúng đắn, tuy nhiên vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi đường lối đó
trên từng giai đoạn cụ thể, trong từng cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ


14

thể. Đại hội XI của Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính
trị so với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm”; “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế
và quản lý đất nước”; “công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém,
chậm được khắc phục” . Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ
với đổi mới kinh tế này đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm
kinh tế phát triển. Vấn đề đổi mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần

do chúng ta chưa làm rõ và phân định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng
với chức năng quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trong đổi mới chính trị chúng ta
mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa
thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trị-chủ thể hoạt động chính trị và
cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.
Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần tiếp tục nhận thức và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây cũng là
thực chất, yêu cầu, nội dung của một trong tám mối quan hệ lớn trong thời kỳ
quá độ lên CNXH nước ta mà Đảng ta đã đề ra cần giải quyết đúng đắn.


15

KẾT LUẬN
Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, vận dụng sáng tạo những
chủ trương, đường lối của Đảng là con đường đầy chông gai nhưng tất yếu sẽ
giành thắng lợi trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh. Sau 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã
chuyển từ một hệ thống kinh tế đóng, không có cạnh tranh sang một nền kinh tế
thị trường mở với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Phù hợp với sự đổi mới
về kinh tế là sự đổi mới về chính trị. Trên cơ sở tổng kết lý luận - thực tiễn,
Đảng và nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm
khuyến khích sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong công
cuộc xây dựng XHCN, mâu thuẫn giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng
là điều không tránh khỏi. Việc giải quyết tốt mâu thuẫn giữa của kiến trúc
thượng tầng với cơ sở hạ tầng có ý nghĩa vô cùng to lớn đến sự vận động và phát
triển của xã hội. Nó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiếp tục đi sâu vào nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để xây dựng được một kiến trúc thượng tầng phù
hợp nhất với cơ sở hạ tầng hiện có. Có như thế mới đẩy mạnh được công cuộc

đổi mới toàn diện, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong thế kỷ 21.


16

TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Các Văn kiện của Đảng: VI, VII, VIII, IX, X, XI
3. Giáo trình Triết học Mác - Lênin lý luận và vận dụng (Dùng cho đào tạo
chức danh cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch), Nxb TCCT, H.2008.
4. Giáo trình triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học), Nxb Lý Luận Chính Trị, HN. 2006
5. Hoàng Chí Bảo, Bản chất khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, Nxb.CTQG, H.1998.
6. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác Lênin (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb. CTQG, H.2004.
7. Nguyễn Mạnh Hưởng, Chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng sự nghiệp đổi
mới của chúng ta, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 4/2011.
8. Lê Hữu Nghĩa, Triết học Mác - Lênin trong sự nghiệp đổi mới xã hội,
Tạp chí Triết học, số 3/2001.
9.V.I.Lênin. Toàn tập, t.42, t45 . Nxb Tiến bộ,. Mátxcơva, 1977,



×