Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

KHẢO SÁT THỰC TẾ TẠI CÁC ĐỊA DANH TẠI MIỀN TRUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 40 trang )

MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
Được học trong một môi trường đại học mang tên Đại học Nội vụ Hà Nội
là một trong số những trường danh giá trực thuộc Bộ Nội vụ đã là một may mắn
lớn đối với nhiều sinh viên nói chung và với em nói riêng, vậy nhưng em còn
may mắn hơn rất nhiều khi được vào Khoa Văn hóa thông tin và Xã hội, được
các thầy cô ở đây tạo mọi điều kiện để em học tập và rèn luyện bản thân tốt
nhất.
Ngày 27 tháng 05 năm 2017 vừa qua, Khoa VHTT&XH đã tạo điều kiện
cho tập thể lớp CĐ. QLVH15A chúng em có cơ hội đi thực tế, tham quan một số
điểm di tích lịch sử, danh thắng và một số địa điểm nổi tiếng khác tại khu vực
miền Trung trong thời gian 06 ngày từ 27/05 - 1/06/2017. Chuyến tham quan
thực tế này đã kết thúc nhưng nó đã để lại trong em rất nhiều cảm giác bồi hồi
xúc động cõ lẽ cả cuộc đời này tập thể lớp chúng em cũng không bao giờ có lần
thứ hai đi với nhau như thế này, tham quan được dọc khắp miền Trung . chuyến
tham quan này đã cung cấp cho em được lượng tri thức rất lớn để phục vụ cho
nghành học của mình.
Em xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô trong khoa đã tổ chức cho
sinh viên chúng em một chuyến đi bổ ích và lý thú. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm
ơn đến cô Trần Phương Thúy và thầy Nghiêm Xuân Mừng đã đồng hành, quan
tâm, giúp đỡ cho chúng em. Em rất mong nhận được những ý kiến, nhận xét của
thầy để bài thu hoạch của em được hoàn thiện hơn.
Dưới đây em xin trình bày những điểm mà chúng em đến trong chuyến
thực tế này, qua đây em cũng xin bày tỏ những cảm xúc của bản thân mình về
chuyến đi lần này, từ đó có thể rút lại một số những kinh nghiệm cho các bạn
khóa sau.
Em xin chân thành cảm ơn!
SINH VIÊN
Nguyễn Tuấn Minh



2


PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
NHẬT KÝ CỦA CHUYẾN ĐI THỰC TẾ MIỀN TRUNG
(27/05/2017 - 1/06/2017)
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Minh
Lớp: CĐ. QLVH15A
* Nhật ký chuyến đi
Ngày

Thời gian

27/05

Chiều tối
thứ 7
20h05

28/05

11h30
13h30
14h30
16h
18h
19h30h

29/05


7h30
8h

11h30

13h30
15h

Lịch trình

Nhận xét

- Tập trung tại cổng
trường điểm danh
- Xuất phát từ Hà Nội

Em cảm thấy
rất hứng thú và
hồi hộp

- ăn trưa tại Đà Nẵng
- Nhận phòng, nghỉ
ngơi
- Tập trung ở cửa khách
sạn đi thăm Bảo tàng
Champa
- tập trung tại cổng Bảo
tàng Chapa để đi ra bãi
biển Mỹ Khê

- Về khách sạn.
- Ăn tối tại chân cầu
Rồng
- Vệ sinh, ăn sáng tại
khách sạn
- Lên xe và đến giao lưu
với Phân hiệu trường
Đại học nội vụ tại
Quảng Nam
- Ăn trưa tại nhà hàng
gần trường giao lưu
văn hóa ẩm thực và ca
nhạc cùng các thầy cô
và các bạn sinh viên
phân hiệu Quảng Nam.
- Lên xe về khách sạn
và nghỉ ngơi
- Tham quan làng đá

Em được thăm
quan rất nhiều
di tích lịch sử văn hóa, di sản
văn hóa phi vật
thể em cảm
thấy rất vui,
cung cấp cho
em một lượng
tri thức rất lớn

3


Em đi đến 10
thành phố đáng
sống nhất Châu
Á, được đi dạo
một số địa điểm
đẹp trong thành
phố

Ghi
chú


16h30
19h30
20h15

30/05/201
7

7h30
8h30
11h30
14h30
20h30

31/05/201
7

7h30

11h30
15h
20h

1/06/2017

5h30
11h30
14h30
22h00

-Xuất phát đi Hội An
- Lên xe về Đà Nẵng
- Liên hoan tại nhà
hàng Bé Mặn cùng tập
thể lớp CĐ QLVH15A
- vệ sinh, nghỉ ngơi
- Ăn sáng tại khách sạn.
Sau đó chùa Linh Ứng.
Và đi chợ Hàn.
- Ăn cơm tại nhà hàng.
Sau đó quay về Huế
- Trên đường về huế
ghé thăm: Lăng Khải
Định
- Nghỉ ngơi và đi tham
quan thành phố Huế
cùng lớp
- Sáng: Đi ăn bún bò
Huế. Sau đó đi Đại Nội

Cung thành Huế.
- Trưa: Ăn trưa tại nhà
Hàng.
- Chiều: Đi chùa Thiên
Mụ
- Tối: Đi ăn cơm hến.
Sau đó đi chợ đêm gần
cầu Trường Tiền
- Sáng: Từ Huế trở về
Quảng Trị thăm Thành
Cổ Quảng Trị
- Ăn cơm tại nhà Hàng
- Viếng thăm mộ Bác
Võ Nguyên Giáp. Sau
đó trở về Hà Nội.
- Về đến Hà Nôị. Kết
thức hành trình

4

Chìm mình vào
di sản văn hóa
phi vật thể và
các di tích văn
hóa, em thấy
nơi đây thật yên
bình, nhẹ nhàng
và ấm áp như
con người của
họ.

Được ăn những
đặc sản nơi đây
và thăm quan di
tích lịch sử văn
hóa, em cảm
thấy rất vui
,hứng thú với
chuyến i đi mặc
dù thời tiết rất
nắng
Em được thăm
quan rất nhiều
di tích lịch sử văn hóa, em
cảm thấy rất vui
và cảm nhận
được bằng
chính mắt của
mình, cung cấp
cho em một
lượng tri thức
rất lớn


PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
I. MỘT SỐ NÉT VỀ CÁC ĐỊA ĐIỂM ĐÃ THĂM QUAN TẠI MIỀN
TRUNG
1.1 Một số nét vể Đà Nẵng.
Thành phố Đà Nẵng nằm ở trung độ đất nước, phía bắc giáp tỉnh Thừa
Thiên – Huế, phía tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp biển Đông.
Địa hình thành phố Đà Nẵng khá đa dạng: phía bắc là đèo Hải Vân hùng vĩ,

vùng núi cao thuộc huyện Hòa Vang (phía tây bắc của tỉnh) với núi Mang
1.708m, núi Bà Nà 1.487m. Phía đông là bán đảo Sơn Trà hoang sơ và một loạt
các bãi tắm biển đẹp trải dài từ bán đảo Sơn Trà đến bãi biển Non Nước. Phía
nam có núi Ngũ Hành Sơn. Ngoài khơi có quần đảo Hoàng Sa với ngư trường
rộng lớn
Khi đặt chân đến thành phố em vô cùng ngỡ ngàng là tại sao nó lại đẹp
đến vậy, buổi tối em được đi cầu tình yêu, đi bộ trên cầu sông Hàn, được ngắm
cầu Rồng, được đi dạo trên bãi biển Mỹ Khê, được đi chơi chợ Hàn, được thăm
quan Ngũ Hành Sơn, được tìm hiểu bảo tàng điêu khắc Chawmpa, được đi thăm
quan, đi dạo và ăn những món ngon trên vỉa hè của phố cổ Hội An, được vào
thăm Trường Đại học Nội Vụ cơ sở miền Trung, được đi thăm quan chùa Linh
Ứng ở bán đảo Sơn Trà. Quả là một trong nững thành phố đáng sống nhất Châu
Á.
1.1.1 Bảo tàng điêu khắc Chămpa
Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm Đà Nẵng là bảo tàng trưng bày hiện
vật Chăm quy mô nhất ở Việt Nam, trực thuộc Bảo tàng Đà Nẵng. Đây là bảo
tàng do người Pháp xây dựng, chuyên sưu tập, cất giữ và trưng bày các di vật về
nghệ thuật điêu khắc của vương quốc Chăm Pa tìm thấy ở các tháp, thành
lũy Chăm tại các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ từ Hà Tĩnh tới Bình Thuận và
các tỉnh Tây Nguyên
Tọa lạc ở 2 tuyến phố đẹp nhất nhì thành phố Đà Nẵng, đường 2/9 và
Trưng Nữ Vương, Bảo tàng điêu khắc Chăm được khởi công xây dựng tháng 7
năm 1915 với sự giúp sức của những nhà bác học người Pháp của trường Viễn
5


Đông Bác Cổ. Bảo tàng khánh thành năm 1919, trải qua nhiều đợt tu bổ, hoàn
thiện để có diện mạo như hôm nay.
Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng sở hữu gần 2.000 hiện vật lớn nhỏ,
trong đó có gần 500 hiện vật đang trưng bày bên trong nhà Bảo tàng, số còn lại

rải rác trong khuôn viên và đang cất giữ.
Bước vào khuôn viên bảo tàng, với kiến trúc Gothic ảnh hưởng đậm nét
từ kiến trúc Pháp, hài hòa với không gian nơi những khóm hoa sứ đang tỏa
hương dịu mát, mang đến một trải nghiệm khác biệt.
Cách bày biện trong bảo tàng chủ yếu phân theo khu vực các gian tương
ứng với các khu vực địa lý nơi chúng được phát hiện gồm phòng Mỹ Sơn, Trà
Kiệu, Đồng Dương, Tháp Mẫn và các hành lang Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Kon Tum, Quảng Bình và Bình Định. Cách phân chia này khiến khách
tinh ý sẽ nhận ra nét đặc trưng, dấu ấn về kiến trúc Chăm đặc trưng của mỗi địa
phương, do ảnh hưởng của văn hóa và lối sống đặc trưng.
Dạo bước qua từng hành lang Quảng Nam, Quảng Bình hay gian phòng
Mỹ Sơn, thấy tận mắt những tạo tác khắc họa thần Shiva, Brahma, đài thờ Mỹ
Sơn tinh xảo đến từng chi tiết, thầm ngưỡng mộ sức sáng tạo tài hoa của nghệ
nhân xưa. Hình ảnh các linh vật, các vị thần Ấn Độ giáo hay cảnh sinh hoạt đời
thường được chạm khắc công phu đến bây giờ vẫn rất tinh xảo. Bao thế kỷ trôi
qua, vật đổi sao dời, các chứng tích cho một vương triều vẫn kiêu hãnh tồn tại
thách thức cùng thời gian như thế
Phần lớn tác phẩm điêu khắc hiện có tại bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà
Nẵng là những tác phẩm nguyên bản trên 3 chất liệu chính là sa thạch, đất nung
và đồng, nhiều nhất là sa thạch, niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XV đa dạng về
phong cách nghệ thuật, hình khối, chạm khắc...
1.1.2. Chùa Linh Ứng - bán đảo Sơn Trà.
Cách bãi biển Mỹ Khê Đà Nẵng chừng 10km. Chùa tọa lạc trên một ngọn
đồi của bán đảo Sơn Trà, nằm ở lưng chừng núi, mang hình con rùa, mặt hướng
ra biển, lưng tựa vào cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn với bao chim thú của bán
đảo Sơn Trà… Chùa Linh Ứng Bãi Bụt Sơn Trà là ngôi chùa lớn nhất ở thành
6


phố Đà Nẵng cả về quy mô (rộng khoảng 20ha) lẫn kiến trúc nghệ thuật. Đây là

ngôi chùa nằm trong quần thể du lịch bán đảo Sơn Trà được xây dựng với sự kết
hợp hài hòa giữa nét hiện đại và truyền thống của chùa Việt, hiện đang là điểm
du lịch mới của thành phố biển xinh đẹp này.
Chùa Linh Ứng Sơn Trà được xem là cõi Phật giữa chốn trần gian. Chùa
nằm trên đỉnh núi thuộc Bãi Bụt, bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng (nhiều người gọi là
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt hoặc là Chùa Linh Ứng Sơn Trà - vì Đà Nẵng có đến 3
Chùa Linh Ứng) hướng nhìn ra biển Đông, một bên là đảo Cù lao Chàm, phía
bên kia là ngọn Hải Vân phía còn lại là dòng sông Hàn yên ả đang đổ về cửa
biển.
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt được khởi công xây dựng từ tháng 07/2004 và
khánh thành ngày 30/07/2010; đến nay chùa vẫn còn tiếp tục xây dựng thêm
nhiều hạng mục.
Chùa ở độ cao 693 mét so với mực nước biển, với diện tích 20 héc ta, trên
địa hình một bên núi, một bên biển. Chùa Linh Ứng Bãi Bụt là một quần thể
nhiều hạng mục gồm chánh điện, nhà tổ, giảng đường, tăng đường và thư viện...
Ngoài việc được biết đến như một ngôi chùa đẹp, lớn và… trẻ nhất trong
3 ngôi “Linh Ứng Tự” ở Đà Nẵng, Chùa Linh Ứng Bãi Bụt còn được biết đến
bỡi nơi có tượng Phật Quan Thế Âm cao nhất Việt Nam. Chúng ta có thể nhìn
thấy tượng phật từ xa, vào buổi đêm nhìn tượng phật tọa lạc trên cao với những
ánh sáng lấp lánh có thể nói đây là một kiệt tác.
1.1.3. Chợ Hàn
Chợ Hàn là một chợ mua sắm lớn ở trung tâm thành phố Đà Nẵng, gần
cầu quay Sông Hàn, bốn mặt tiếp giáp với bốn đường: Hùng Vương, Trần Phú,
Trần Hưng Đạo và đường Bạch Đằng. Khách đến du lịch Đà Nẵng, hầu như ai
cũng ghé chợ Hàn để mua sắm. Chợ Hàn ra đời vào những năm 1940 của thế kỷ
20 từ một khu giao thương buôn bán tự phát của một nhóm người.
Chợ Hàn bày bán khá đa dạng và phong phú với các chủng loại hàng hóa,
từ giày dép, quần áo, vải vóc, túi xách đến các đồ lưu niệm, quà tặng… đặc
biệt chợ Hàn nổi tiếng với các thực phẩm hải sản tươi sống, trái cây tươi và các
7



đặc sản của Đà Nẵng như những gian hàng mắm, hàng khô du khách thường
thích mua về làm quà, những đặc sản rất đặc trưng và gần gũi của người dân Đà
Nẵng. Ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Đức, Mỹ… chợ đối với họ là một
quá khứ, lịch sử mà thay vào đó là những siêu thị với những công trình thật
khang trang, đồ sộ không còn chứa đựng những nét đặc trưng của Văn hóa
phương Tây.
Nhờ có vị trí đẹp và mang phong cách người dân Đà Nẵng, chợ Hàn đã
phát huy được khả năng và thế mạnh của mình, không chỉ là một ngôi chợ với
các hoạt động mua bán mà còn là điểm thu hút khách du lịch tham quan khi đến
thành phố Đà Nẵng.
Khi vào chợ Hàn thì em thấy hộ buôn bán rất nhiều mặt hàng hầu như đặc
sản, bên cạnh những mặt hàng khô có rất nhiều hàng bán các loại đồ uống và
đặc biệt là chè ở đó rất ngon, có nhiều chỗ thậm chí bán cả vải, quần áo, dầy dép
đủ các loại.
1.2 Quảng Nam
Quảng Nam, hay gọi âm địa phương là "Quảng Nôm", là một tỉnh thuộc
vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Tên gọi Quảng Nam có nghĩa là mở
rộng về phương Nam. Quảng Nam là vùng đất giàu truyền thống văn hóa với hai
di sản văn hóa thế giới là phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn. Quảng Nam còn
là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh ra nhiều người con ưu tú cho đất
nước. Với diện tích 10,440 km2 và dân số trên 1.4 triệu người (2014), Quảng
Nam đứng thứ 6 về diện tích, thứ 19 về dân số trong số 63 tỉnh, thành phố của
Việt Nam. Mật độ dân số trung bình là 140 người/km2 (đứng thứ 45/63) so với
271 người/km2 của cả nước.
1.2.1 Trường Đại học Nội Vụ cơ sở miền Trung
Ngôi trường thuộc tỉnh Quảng Nam các thành phố Đà Nẵng hơn chục cây
số, bắt đầu bước vào trường từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, ngôi trường
rất rộng và đẹp, khuôn viên sạch sẽ, được sự tiếp đón rất nhiệt tình của thầy bí

thư, một số cán bộ và đặc biệt là những bạn sinh viên cùng nghàn với mình rất
thân thiện và dễ mến, chúng em được thăm quan hội trường, các phòng lớp học
8


rồi thư viện, đi dạo xung quanh trường không khi vô cùng trong lành và thoáng
đãng. Thầy bí thư có nói mội số những dự định quy hoạch sắp tới của trường
cho chúng em nghe. một sự đặc biệt hơn nữa chính là sự tiếp đón trân trong ,
nhiệt tình của các bạn sinh viên cơ sở miền Trung buổi chiều hôm đó đã diễn ra
trận giao hữu bóng đã giữa các bạn nam ở hai cơ sở, buổi tối chúng em được ăn
đặc sản ở Quảng Nam đó chính là mì Quảng do chính tay các cán bộ trong
trường nấu cho chúng em ăn. Em vô cùng xúc động và trân trọng tình cảm của
con người nơi đây. Chắc có lẽ đối với em những khoảnh khắc giao lưu, gặp mặt
giữa hai cơ sở sẽ chẳng thể nào quên được, buổi tối hôm đõ diễn ra một chương
trình nghệ thuật rất sôi động, vui tươi với những màn biểu diễn hay của thầy của
cả hai cơ sở, những màn múa đặc sắc, những trò chơi vui nhộn, hấp dẫn. Lúc ra
về cảm giác như kiểu là không muốn rời xa, cái cảm giác đầy lưu luyến khó tả.
1.2.2 Phố cổ Hội An
Hội An nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông Thu Bồn, cách Quốc lộ 1A khoảng 9
km về phía Đông, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 25 km về phía Đông Nam,
cách thành phố Tam Kì khoảng 50 km về phía Đông Bắc.
Khi bước tới vùng đất này, điều mà chúng tôi nhìn thấy là hình ảnh những
con phố chạy dài và những ngôi nhà cổ từ thời xưa. Giữa dòng người với nụ
cười thân thiện, với ánh mắt thiết tha trữ tình, với tiếng đàn trong veo, réo rắt.
Chúng tôi dường như cảm nhận được cái bon chen, cái phồn hoa đô hội ngoài
những con phố kia, dường như ta cảm thấy cuộc sống này chậm hơn với khung
cảnh ấy, với miền non nước ấy.
Hội An lên đèn, những con phố kia hiện lên những chiếc đèn lồng treo
trước cửa nhà với những sản phẩm đặc trưng được trưng bày và bày bán ở dọc
khu phố, đúng với cái tên gọi Phố Cổ Hội An. Đặc biệt, thứ được bày bán nhiều

nhất và có thể nói là một trong những biểu trưng cho Phố Cổ Hội An tỏa sáng
lung linh trên hầu khắp các khu phố, nhà nhà đều treo, đó chính là những chiếc
đèn lồng, với nhiều màu sắc và kích thước khác nhau. Từ đó, đã tạo cho những
dãy Phố Cổ trở nên tuyệt đẹp và đặc biệt độc đáo hơn, mang lại cho mỗi vị
khách tham quan khi đặt chân tới Hội An tràn đầy ấn tượng sâu sắc trong lòng
9


và lưu luyến không bao giờ quên. Bên cạnh đó, chúng tôi hay bất cứ một du
khách nào khi tới với Phố Cổ đều được thưởng thức những món ăn đặc sản
mang đậm chất Phố Cổ Hội An nói riêng và Đà Nẵng nói chung.
Vào chính đêm trăng rằm, chúng tôi còn được nghe những điệu hát, câu
hò với các làn điệu dân ca, hát đối đáp, ứng biến tài tình, hấp dẫn của các nghệ sĩ
thể hiện, được thử mình với trò chơi Bài Chòi một trong những trò chơi dân gian
có từ lâu đời tại vùng đất Quảng Nam, Đà Nẵng và còn được xem, chiêm
ngưỡng những người dân, du khách thả đèn hoa đăng xuống dòng sông Thu
Bồn, được thưởng thức những đặc sản văn hóa mà du khách quốc tế yêu thích.
Một trong những nét đặc trưng của Phố Cổ Hội An có thể nói đến những
kiểu thiết kế kiến trúc của các ngôi nhà trên từng con phố. Và trên các con phố
còn xuất hiện một số nhà cổ được lưu giữ vào bảo tồn cho khách du lịch tham
quan.
Ngoài những giá trị văn hóa kiến trúc đa dạng, Hội An còn lưu giữ một
nền tảng văn hóa phi vật thể khá đồ sộ. Những phong tục tập quán, sinh hoạt tín
ngưỡng, văn hóa nghệ thuật dân gian, các lễ hội văn hóa đang được bảo tồn và
phát huy cùng với cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, các làng nghề truyền thống,
các món ăn đặc sản… góp phần làm cho Hội An ngày càng trờ thành điểm đến
hấp dẫn và lý tưởng của du khách thập phương tới đây.
Và ngoài những khu phố bày bán các món hàng đặc trưng về Hội An, thì
khi bước chân tới Phố Cổ Hội An, chúng tôi còn được bước chân lên Chùa Cầu,
đó là linh hồn, là biểu tưởng tồn tại hơn bốn thế kỷ qua. Và Chùa Cầu được công

nhận là Di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia năm 1990 và hình ảnh Chùa Cầu có
trên tờ tiền polymer 20.000 đồng của Việt Nam hôm nay.
Ai đã đến Hội An mà chưa ghé thăm Chùa Cầu thì coi như chưa đến, ai
mà đến rồi thì lại lưu luyến nhớ thương:
“Ai đi phố Hội, Chùa Cầu
Để thương để nhớ để sầu cho ai
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương để nhớ cho ai chịu sầu…”
10


1.3 Một số nét về Huế
Huế nằm ở dải đất hẹp của miền Trung Việt Nam và là thành phố tỉnh lỵ
của Thừa Thiên - Huế. Thành phố Huế nằm ở toạ độ địa lý 16-16,80 vĩ Bắc và
107,8-108,20 kinh Đông. phía Bắc và phía Tây giáp thị xã Hương Trà, phía Nam
giáp thị xã Hương Thuỷ, phía Đông giáp thị xã Hương Thuỷ và huyện Phú Vang.
Tọa lạc hai bên bờ dòng sông Hương, về phía Bắc đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng
112 km, cách biển Thuận An 14 km, cách sân bay quốc tế Phú Bài 14 km và
cách Cảng nước sâu Chân Mây 50 km. Là nơi tiếp giáp giữa hai vùng khí hậu
Nam - Bắc. Trong các khu vườn của xứ Huế đều có hoa trái của hai miền Nam Bắc.
Trong gần 400 năm (1558-1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa
Nguyễn ở xứ Đàng Trong (năm 1306). Là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến
kinh quốc triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những
di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí
tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỷ qua, bao nhiêu tinh hoa
của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà
bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi
hữu tình thơ mộng.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế
kỷ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỷ XVI-XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỷ

XVIII) và các vua Nguyễn (1802-1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng
Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích của Cố đô
Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới của
UNESCO.
Nằm giữa lòng thành phố Huế, bên bờ Bắc của sông Hương chảy xuyên
qua từ Tây sang Đông. Ba toà thành đó là Kinh thành Huế , Hoàng thành Huế ,
Tử cấm thành Huế lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên
suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực của
sự kết hợp hài hoà nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây, được đặt
trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự
11


nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành
Huế - đó là núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Hến…
Xa xa về phía Tây Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của
các vua Nguyễn được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hoá.
Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu
dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới
bên kia. Hàm nghĩa như vậy nên kiến trúc lăng tẩm ở đây mang một phong thái
hoàn toàn riêng biệt ở Việt Nam.
Bên cạnh thành quách, cung điện, lăng tẩm nguy nga tráng lệ, Huế còn
lưu giữ trong lòng bao nhiêu công trình kiến trúc độc đáo gắn liền với thể chế
của hoàng quyền mà cách phối trí của các khoảng không gian đã tiến đến đỉnh
cao của sự hài hoà trong bố cục
Ngoài kiểu kiến trúc quyến rũ, kinh đô Huế còn có nét đặc trưng văn hóa
ở con người Huế từ xưa và nay đều một phong thái thanh tao, cao nhã nhưng rất
đằm thắm nhẹ nhàng, Cái phong thái cao nhã ấy nó ẩn hiện ngay từ tiếng “dạ,
thưa” mềm mại từ cái dáng đi nhẹ nhàng uyển chuyến trong chiếc áo dài tím
thướt tha, để giờ đây Huế như một viên ngọc tím huyền ảo mà ai cũng biết tới.

Con người xứ Huế rất thân thiện mến khách và nhiệt tình. Ở Huế còn có những
món ăn cay mang đậm chất huế
Nói đến Huế người ta không chỉ nhắc đến những đặc trưng điển hình về
một vùng đất nên thơ của dòng sông Hương - núi Ngự, kiến trúc nhà - vườn, về
một vùng đất huyền thoại tâm linh của chùa chiền - lăng tẩm, một vùng đất của
sự tinh tế, khéo léo về văn hoá lối sống, một vùng đất mang dấu tích lịch sử của
quần thể di tích cố đô...mà ngoài ra còn nhắc đến con người xứ Huế từ xưa và
nay đều mang một phong thái thanh tao, cao nhã nhưng rất đằm thắm nhẹ nhàng,
những món ăn cay mang đậm chất Huế và những đặc tính điển hình về vai trò
của dòng họ và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của cư dân nơi đây, nhà nào cũng có
ít nhất là một ban thờ đặt trước hoặc bên cạnh nhà, ở mỗi gốc cây to bên đường
đều có ban thờ…
“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt, vẻ
12


đẹp Huế chẳng nơi nào có được, nét dịu dàng pha lẫn chút trầm tư, tình yêu từ
chiếc nón bài thơ, từ giọng nói âm thâm sâu sắc lạ…”
(Huế tình yêu của tôi- Nguyễn Hoàng Nam)
1.3.1 Đại Nội Huế (Hoàng Thành và Tử Cấm Thành)
Hoàng Thành Huế được khởi công xây dựng năm 1804 thời vua Gia Long
và hoàn chỉnh năm 1833 thời Minh Mạng. Hoàng Thành Huế là trung tâm sinh
hoạt quan trọng nhất của triều đình và gia đình các vị vua nhà Nguyễn (1802 –
1945). Thành có 4 cửa bao gồm: Ngọ Môn ( Nam ); Hòa Bình ( Bắc ); Hiền
Nhơn (Đông) và Chương Đức (Tây). Các cầu và hồ được đào chung quanh phía
ngoài thành có tên là Kim Thủy.
Hoàng Thành rộng 40 ha, gồm có 150 công trình, với kiến trúc nghệ thuật
cung đình và vườn hào độc đáo đã được khởi công xây dựng vào khoảng hơn
hai thế kỷ trước, được quy hoạch thành nhiều khu vực theo các chức năng :
Hành lễ, thờ phụng và các buổi sinh hoạt của triều đình v.v…

Tại đây có trưng bày một số trang phục như áo Long bào của Vua, áo của
Hoàng Thái Hậu, trang phục của Hoàng Tử và của công chúa v.v…
Tử Cấm Thành thuộc quần thể di tích cố đô Huế là trung tâm sinh hoạt
hằng ngày của vua và hoàng gia triều Nguyễn. Tử Cấm thành có vị trí sau lưng
điện Thái Hòa, được khởi xây năm Gia Long thứ 3 (1804) gọi là Cung thành và
các vua triều Nguyễn xây dựng thêm. Đến năm vua Minh Mạng thứ 3 (1822),
vua đổi tên là Tử Cấm thành, nghĩa là thành cấm màu tía. Theo nghĩa hán tự,
chữ Tử có nghĩa là màu tím, lấy ý theo thần thoại: Tử Vi Viên ở trên trời là nơi ở
của Trời, Vua là con Trời nên nơi ở của Vua cũng gọi là Tử, Cấm Thành là khu
thành cấm dân thường ra vào. Trong Tử Cấm thành có khoảng 50 công trình
kiến trúc với quy mô lớn nhỏ khác nhau được phân chia làm nhiều khu vực, tổng
số công trình đó biến động qua các thời kỳ lịch sử.
1.3.2. Lăng Khải Định
Đến với khu lăng mộ của vua Khải Định, về bản thân tôi cũng như các
thầy cô giáo và các bạn sinh viên đều không thể không bàng hoàng, ngạc nhiên
khi được tận mắt chứng kiến một công trình nghệ thuật đồ sộ, nguy nga, uy
13


nghiêm và tráng lệ đến như vậy. Một khung cảnh, một không gian hoàng tráng
đến ngỡ ngàng, làm cho tôi không còn tin vào cặp mắt của mình lúc đấy nữa.
Trong số các lăng triều Nguyễn, lăng Khải Định hay còn gọi Ứng Lăng là
công trình duy nhất có lối kiến trúc pha trộn giữa Đông và Tây. Đây là nơi yên
nghỉ của vua Khải Định, vị hoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn. Lăng tọa lạc trên
núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê), thuộc xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy,
cách thành phố Huế khoảng 10km về phía Tây Nam.
Tuy có kích thước khiêm tốn hơn so với lăng của các vua tiền nhiệm
nhưng lăng được xây dựng tỉ mỉ, kỳ công nên tốn nhiều thời gian cũng như kinh
phí hơn các lăng khác (từ năm 1920 - 1930).
Điểm nổi bật của lăng Khải Định là sự pha trộn giữa nhiều trường phái

kiến trúc khác nhau như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique… Đặc biệt,
lăng Khải Định nổi tiếng với 3 bức bích họa “cửu long ẩn vân” tuyệt đẹp được
trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định.
Lăng khởi công năm 1920 và kéo dài trong 11 năm mới hoàn tất. Tiền
quân Đô thống phủ Lê Văn Bá là người chỉ huy với sự trưng tập nhiều thợ nghề
và nghệ nhân nổi tiếng khắp cả nước như Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký
Duyệt, Cửu Sừng... Để có kinh phí xây dựng lăng, vua Khải Định đã xin chính
phủ bảo hộ cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để
làm lăng. Hành động này của Khải Định đã bị lịch sử lên án gay gắt.
1.3.3. Ca Huế Trên Sông Hương
Ca Huế là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, Việt Nam, bao gồm
ca và đàn, ở nhiều phương diện khá gần gũi với hát ả đào, làm từ dòng nhạc dân
gian bình dị và cung đình nhã nhạc,thanh cao.
Khi Huế lên đèn cũng là thời điểm những chiếc thuyền rồng lần lượt rời
bến Toàn Khâm chầm chậm lướt sóng ngược dòng sông Hương Giang để bắt
đầu đêm ca Huế trên sông.
Còn gì thú vị bằng một đêm trăng được buông thuyền trên dòng sông tĩnh
lặng để nghe những điệu hò mênh mông, những câu Nam ai, Nam Bình sâu lắng
chỉ có ở đất cố đô...
14


“Dập dềnh sóng vỗ mạn thuyền
Ngồi nghe ca Huế mà lòng bâng khuâng!
Tương tư với nguyệt cùng mây
Hỏi non nước ấy đắm say bao tình?”
Có thể nói rằng nếu chưa nghe ca Huế trên sông Hương thì xem như chưa
một lần đến Huế. Còn gì thú vị bằng buông thuyền trên dòng sông Hương thơ
mộng để thả hồn vào những điệu hò mênh mông, những câu hát nam ai, nam
bình sâu lắng… Ca Huế trên sông Hương là một hình thức sinh hoạt nghệ thuật

độc đáo của người dân Cố đô, được lưu giữ và phát triển qua hàng trăm năm
nay. Vì thế du khách đến Huế, ngoài nhu cầu thăm thú thưởng ngoạn những đền
đài lăng tẩm Huế, ai cũng mong được một lần tựa mạn thuyền rồng để nghe
những làn điệu ca Huế ngọt ngào sâu thẳm cất lên trên bồng bềnh sông nước
Hương giang. Đặc biệt là những người yêu Huế, muốn thẩm thấu trọn vẹn cái
hồn, cái tình của Huế ẩn sâu trong thú chơi nghệ thuật tinh tế đặc sắc này. Chẳng
thế mà gần 70 năm trước chàng thi sĩ trẻ tài hoa Văn Cao, đã như lạc vào chốn
“Thiên Thai” chỉ vì một lần tựa mạn thuyền rồng trên sông Hương: “ ... Em cạn
lời cho anh dứt nhạc Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh Một đêm đàn lạnh trên
sông Huế Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh...” . Khi thành phố bắt đầu lên đèn, cầu
Trường Tiền lấp lánh trong đêm với đủ các màu sắc thì những chiếc thuyền rồng
lần lượt rời bến, chầm chậm ngược dòng sông Hương, các đờn ca chuẩn bị biểu
diễn,đêm ca Huế bắt đầu.
Thuyền rồng hững hờ trôi trong màn sương, khán giả trên thuyền, kẻ háo
hức ngắm thành phố Huế thơ mộng từ sông Hương, người thì chăm chú
xemTrên những con thuyền rồng lộng lẫy trôi lững lờ, từ từ, trên dòng sông
Hương như muốn đắm hồn vào bầu không khí của đêm ca Huế với những khúc
nhạc, câu hò, điệu hát du dương.
Mỗi câu hò dù ngắn hay dài nhưng cũng gửi gắm được một ít ý tình trọn
vẹn. Nó được hình thành từ nhạc dân ca và nhạc cung đình, nhã nhạc, trang
trọng uy nghi nên có thần thái của nhạc thính phòng. Thú nghe ca Huế tao nhã,
đầy sức quyến rũ. Âm thanh của nghệ sĩ hòa tấu bởi bốn bản nhạc: Khúc lưu
15


thủy, kim tuyền, xuân phong, long hổ nghe du dương, trần bổng, réo rắt, các
nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như: Nhấn, mổ, vồ, vả, bấm, day, chớp,
búng, phi. Ca Huế là một hình thức sinh hoạt văn hóa âm nhạc thanh lịch, một
sản phẩm tinh thần đáng trân trọng, cần gìn giữ và phát huy.
Sau khi nghe ca Huế chúng em được các nghệ nhân cho thả đèn hoa đăng

xuống dòng sông Hương thơ mộng cùng với những ước muốn của chúng em vào
đó. Em cảm thấy con người nơi đây thân thiện bình dị làm sao.
Đến với Huế mộng mơ mà không thưởng thức một làn điệu đặc trưng của
Huế thì ta chưa cảm nhận được hết vẻ đẹp nơi đây.
1.3.4. Chùa Thiên Mụ
Huế vốn là nơi qui tụ nhiều di tích thắng cảnh, nhiều ngôi chùa cổ kính
nổi tiếng của Việt Nam. Nhưng ngôi chùa xưa nhất có lẽ phải kể đến chùa Thiên
Mụ - nơi có sự tích ra đời gắn liền với bước chân mở đường của vị chúa Nguyễn
đầu tiên xứ Đàng Trong.
Chùa Thiên Mụ là một danh lam cổ kính tiêu biểu của xứ Huế, nằm ngay
bên cạnh dòng sông Hương. Và là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và
cũng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế. Vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, cảnh sông
nước dòng sông Hương Giang duyên dáng đã mang lại cho chính bản thân tôi
hay tất cả những ai đã từng đến với xứ Huế mộng mơ một cảm giác thật bất ngờ
và xao xuyến khi được bước chân đến một nơi có vẻ đẹp hoàn mỹ, không gian
yên tĩnh, kỳ ảo đẹp như trong chuyện cổ tích đến như thế. Chắc sẽ không có một
ai khi đã đặt chân đến nơi đây mà có thể quên được khung không gian của trăm
năm, thanh tịnh và thơ mộng, thiên nhiên và kiến trúc hòa quyện hài hòa với
nhau đến mức hoàn chỉnh như những cung bậc của thi ca. Với kiến trúc uy
nghiêm cổ kính, với cảnh trí thanh thoát nên thơ, là một bài thơ Thiền lồng lộng
giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng
người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét
chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh
cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm
ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều
16


chân, lẽ thiện... Chùa Thiên Mụ có thể xem là một danh lam thắng cảnh tuyệt
vời của đất nước.

Chùa Thiên Mụ là ngôi chùa đã có lịch sử hơn 400 năm tuổi và được xây
dựng trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, thuộc địa phận xã Hương Long,
cách trung tâm thành phố Huế 5km về phía Tây. Chùa Thiên Mụ được xây dựng
năm Tân Sửu (năm 1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng – vị chúa Nguyễn đầu
tiên ở Đàng Trong.
Đến năm 1825, Vua Minh Mạng cho tu sửa nhiều hơn, mang đậm dấu ấn
kiến trúc lăng tẩm và cung đình.
Năm 1844, Vua Thiệu Trị cho xây tháp Phước Duyên 7 tầng, cao 21,24
mét, mỗi tầng thờ một đức Như Lai, tầng trên cùng thờ đức Thế Tôn. Trước
tháp, xây dựng đình Hương Nguyện có kiến trúc ba gian bằng gỗ tinh xảo. Hai
bên đình được dựng hai nhà bia để vua khắc lời ghi kiến trúc tháp Phước Duyên
và đình Huyên Nguyện cùng nhiều bài thơ của nhà vua. Qua sửa chữa, làm cho
cảnh chùa rất khác với qui mô cũ. Tuy nhiên, Chúa đã cố gắng tổng hòa các mẫu
kiến trúc thời đại trước.
1.4 Một số nét về Quảng Bình
Quảng Bình (các tên gọi cũ khu vực này gồm: Lâm Bình, Tiên Bình, Tây
Bình, Tân Bình) là một tỉnh duyên hải thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Quảng Bình nằm ở nơi hẹp nhất theo chiều Đông-Tây của dải đất hình chữ S của
Việt Nam (40,3 km theo đường ngắn nhất tính từ biên giới Lào ra biển Đông).
Tỉnh này giáp Hà Tĩnh về phía bắc với dãy Hoành Sơn là ranh giới tự nhiên;
giáp Quảng Trị về phía nam; giáp Biển Đông về phía đông; phía tây là tỉnh
Khăm Muộn và tây nam là tỉnh Savannakhet của Lào với dãy Trường Sơn là
biên giới tự nhiên.
*Viếng thăm mộ đại tướng Võ Nguyên Giáp:
Võ Nguyên Giáp (25/ 8 / 1911 – 4 / 10 / 2013), còn được gọi là tướng
Giáp hoặc anh Văn, là một nhà chỉ huy quân sự và chính trị gia Việt Nam. Ông
là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng là
người chỉ huy đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam, là một trong những người
17



góp công thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được chính phủ Việt Nam
đánh giá là "người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh", là chỉ
huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông
Dương (1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960–
1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước và Chiến tranh biên giới Việt-Trung
(1979)[cần dẫn nguồn] chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc.
Hiện nay Bác Võ Nguyên Giáp đang được an táng tại Vũng Chùa – Đảo
Yến (xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình), hàng ngày luôn có
người đến thăm mộ Bác, đặc biệt là vào các dịp lễ tết trọng đại.
1.5 Một số nét về Quảng Trị
Quảng Trị là một tỉnh ven biển thuộc vùng cực Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Đây là tỉnh có Khu phi quân sự vĩ tuyến 17, là giới tuyến chia cắt hai miền Bắc Nam Việt Nam, do đó cũng là một chiến trường ác liệt nhất trong suốt 20 năm
của cuộc Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975).
*Thành cổ Quảng Trị
Thành cổ Quảng Trị hoặc Cổ thành Quảng Trị là một di tích quốc gia đặc
biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4, tọa lạc ở trung tâm thị xã Quảng Trị,
tỉnh Quảng Trị.
Thành cổ Quảng Trị còn nổi tiếng là nơi diễn ra trận chiến 81 ngày đêm
giữa lực lượng của Quân đội Nhân dân Việt Nam với Quân lực Việt Nam Cộng
hòa có sự yểm trợ tối đa của hỏa lực của quân đội Mỹ. Đây là một trận đánh hao
tổn về sức người và của cho cả hai bên. Hiện nay tại bảo tàng Thành cổ Quảng
Trị vẫn còn có nhưng di vật, và những bức thư bộ đội gửi vĩnh biệt gia đình
trong thời gian xảy ra trận đánh này. Thành cổ Quảng Trị được xếp vào danh
mục những di tích quốc gia và là điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan Việt
Nam và khách du lịch quốc tế.
II. KHẢO SÁT THỰC TẾ TẠI CÁC ĐỊA DANH TẠI MIỀN TRUNG
2.1 Di sản văn hóa vật thể.
2.1.1 Di tích lịch sử - văn hóa
* Mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp

18


Từ trước năm 2013, Vũng Chùa - Đảo Yến vẫn còn là một địa danh khá
xa lạ, ít người đến, cho đến khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp chọn nơi này làm
nơi yên nghỉ cuối cùng, Vũng Chùa trở thành một trong những điểm đến mơ ước
của nhiều người.
Mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp do các chiến sĩ Đồn biên phòng Ròn (Bộ
đội biên phòng Quảng Bình) ngày đêm canh giữ, phục vụ khách về bày tỏ lòng
thành kính, tri ân. Một điều lưu ý với du khách, thường đường xa để tiện lợi di
chuyển trên đường, khách hay mặc quần áo ngắn (váy, quần soóc, lửng…), trước
khi vào viếng mộ, mọi người được nghe về nội quy phải mặc trang phục trang
nghiêm (quần dài), nếu không chấp hành sẽ không được vào viếng.
Khi xuống xe để đi lên viếng bác mà em cảm thấy khung cảnh ở đây tĩnh
lặng làm sao không kém phần nghiêm trang trong đó, khung cảnh xung quanh
đường đi chủ yếu là không gian xanh, phía bên tay phải là nhìn ra đảo yến trông
rất đẹp, phía bên tay trái là một quả đồi. Ngôi mộ của bác được đặt ở tư thế rất
đẹo đầu tựa núi người hướng ra ngoài biển. Từng người xếp hàng đi viếng bác
rất ngay ngắn, mỗi người đều được cần hương để viếng bác, để tỏ lòng biết ơn
những công lao to lớn của bác.

( Mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
* Đại Nội Huế (kinh thành Huế)
19


Huế từ xa xưa đã được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của xứ "Ðàng
Trong" và chính thức trở thành kinh đô dưới triều Tây Sơn. Trong gần 4 thế kỷ,
Huế đã trở thành một quần thể di tích kiến trúc và thắng cảnh vĩ đại. Hiện nay,
Kinh Thành Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô

Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới.
Quan sát, nhìn từ xa kinh thành Huế trông thật đồ sộ. Qua lời kể của anh
Hướng dân viên du lịch: Từ thời các chúa Nguyễn, Huế đã từng được chọn làm
thủ phủ xứ Đàng Trong: năm 1635-1687 Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần
dựng phủ ở Kim Long; đến thời Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Khoát đã dời
phủ về Phú Xuân trong những năm 1687-1712; 1739-1774. Đến thời Tây Sơn,
Huế vẫn được vua Quang Trung chọn làm thành kinh đô cho vương quốc của
ông. Năm 1802, khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, mở đầu cho vương
triều Nguyễn kéo dài suốt 143 năm, một lần nữa lại chọn Huế làm nơi đóng đô.
Là trung tâm sinh hoạt văn hóa quan trọng nhất của triều đình và gia đình
các vị vua nhà Nguyễn, kinh thành Huế là một biểu tượng và niềm tự hào của
người dân Huế.
Trước mắt chúng tôi là kinh thành sừng sững, hiên ngang. Thành được
chia làm 2 phần: Phần bên trong Hoàng thành và các di tích trong kinh thành.
- Các di tích trong kinh thành:
+ Kỳ Đài
+ Trường Quốc Tử Giám
+ Điện Long An
+ Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế
+ Đình Phú Xuân
+ Hồ Tịnh
+ Tàng thư lâu
+ Viện Cơ Mật - Tam Tòa
+ Đàn Xã Tắc
+ Cửu vị thần công
Được sự giúp đỡ và nhiệt tình của chị hướng dẫn viên, mà chúng tôi được
20


biết về hiểu hơn về Kinh thành Huế, nhưng do thời gian không cho phép, thời

tiết lại không ủng hộ, nên chúng tôi không thể được đặt chân lên toàn bộ Kinh
thành mà chỉ thể đi được một vòng Thành, chỉ kip tận mắt chiêm ngưỡng và tái
hiện lại cuộc sống của cha ông, một thời anh hùng.
Ngọ Môn và hồ Thanh Hà đã tô điểm và làm cho Kinh thành Huế đã vững
chắc lại thêm chắc chắn và lỗng lẫy hơn.
Kiến trúc của Kinh thành thật khiến người ta kinh ngạc bởi sự kết hợp hài
hòa phong thủy. Điều đấy cũng chứng tỏ rằng tầm nhìn xa trông rộng và sự tài
giỏi của chúa Nguyễn. Nhà Nguyễn đã để lại những công trình to lớn về thành
quách, lăng tẩm, đền chùa cho đời sau.
Một vòng Kinh thành sao nhanh đến vậy? thời gian trôi đi, chúng tôi đã đi
hết một vòng thành và đang bước chân hướng về phía cổng ra của Kinh thành
Huế. Chúng tôi lưỡng lự khi bước đến cổng ra vì còn đang rất lưu luyến với
những gì mà mình vừa thấy vừa nghe xong, không muốn rời khỏi Kinh Thành,
muốn được quay lại đi tiếp nhưng do thời gian có hạn nên chúng tôi đành phải
chia tay Kinh thành Huế tại đây, để có thể bắt đầu với những điểm tham quan
khác.

(Ngọ Môn biểu tượng của kinh thành Huế)
* Lăng Khải Định
21


Trong tiết trời nắng gắt có vẻ ai cũng đã mệt nhưng với lòng háo hức,
muốn tìm hiểu khám phá các lăng tẩm của vua chúa thời Nguyễn đã không thể
làm giảm tinh thần của chúng tôi, và đoàn chúng tôi đã được tới với lăng Khải
Định.
Lăng Khải Định (còn gọi là Ứng Lăng) là lăng mộ của vua Khải Định
(1885-1925), hay Nguyễn Hoàn Tông là vị vua thứ 12 của triều Nguyễn. Đây là
công trình có lối kiến trúc độc đáo pha trộn giữ nét hiện đại của Châu Âu và nét
cổ điển của Việt Nam.

Địa thế của Lăng Khải Định được tính toán rất kỹ lưỡng, vị trí các ngọn
núi đồi, khe suối xung quanh lăng đều ứng với các yếu tố phong thủy địa lý, tạo
nên một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ. Kiến trúc của Lăng Khải
Địnhrất lạ, khác hắn kiến trúc lăng mộ của các vị vua triều Nguyễn trước đó.
Những công trình này làm hao tổn nhiều nhân lực, của cải của bình dân,
thời gian rảnh rỗi ông không lo việc triều chính mà đi chơi, tổ chức hội hè, ông
là người có ô tô đầu tiên ở Việt Nam.
Trong 9 năm làm vua của mình ông đã để lại rất nhiều tai tiếng, ông cũng
không được lòng dân chúng. Ở Huế nhân dân đã truyền tụng câu ca dao phổ
biến về Khải Định:
“Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây
Nghề này thì lấy ông này tiên sư”
Khải Định có xây cất nhiều công trình, trong đó nổi tiếng nhất chính là
lăng của ông. Lăng Khải Định khác hẳn các lǎng tẩm xưa nay và đã trở thành
vấn đề thảo luận của nhiều người, cả dư luận chung và trong giới chuyên môn
kiến trúc. Nhiều người chê lăng Khải Định có kiến trúc lai căng, nhưng lại có ý
kiến cho là độc
Bên dưới bửu tán là pho tượng đồng của Khải Định được đúc tại Pháp
năm 1920, do 2 người Pháp là P. Ducing và F. Barbedienne thực hiện theo yêu
cầu của vua Khải Định. Thi hài nhà vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một
toại đạo dài gần 30 m, bắt đầu từ phía sau Bi Đình. Phía sau ngôi mộ, vầng mặt
trời đang lặn như biểu thị cái chết của vua. Có 3 bức bích họa "Cửu long ẩn vân"
22


lớn vào bậc nhất Việt Nam được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong
cung Thiên Định.
Cho dù bị lên án dưới nhiều góc độ khác nhau, lăng Khải Định đích thực
là một công trình có giá trị về mặt nghệ thuật và kiến trúc. Nó làm phong phú và
đa dạng thêm quần thể lăng tẩm ở Huế, xứng đáng với đôi câu đối đề trước Tả

Trực Phòng trong lăng:
“Tứ diện hiến kỳ quan, phong cảnh biệt khai vũ trụ.
Ức niên chung vượng khí, giang sơn trường hộ trừ tư."
(Bốn mặt đều là kỳ quan, phong cảnh mở ra một vũ trụ biệt lập.
Muôn năm hun đúc nên vượng khí, núi sông giúp đỡ mãi hoài)”

( Lăng Khải Định)
* Thành cổ Quảng Trị
“Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ
Trời Thành cổ trong xanh và lộng gió
Dẫu ồn ào đừng lay mình nhành cây
Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Thành cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật
Mỗi tấc đất là một cuộc đời máu thịt
23


Cho tôi hôm nay đến nghẹn ngào”.
Thành cổ Quảng Trị là nơi mà hơn 40 năm về trước đã làm thức tỉnh
lương chi loài người trên thế giới bằng cuộc chiến hơn 41 ngày đêm chiến đấu
và bảo vệ thành cổ và thị xã Quảng Trị.
Đến với Thành cổ Quảng Trị đoàn chúng tôi mới hiểu hết câu “Thành cổ
Quảng Trị được ví như một nghĩa trang mà không có một nấm mồ nào cả” khác
hẳn như những nghĩa trang khác là mỗi một chiến sĩ giải phóng quân dù biết tên
hay không biết tên đều có một nấm mồ mà ở Thành cổ Quảng Trị chỉ có một đài
tưởng niệm được mô hình hóa thành một nấm mồ chung cho những người đã
khuất mà thôi.
Qua lời của người thuyết minh chúng tôi đã được trải mình, trở về với
những ngày tháng đấu tranh khốc liệt nơi đây, ngoài ra còn được nghe những

câu chuyện về những mảnh đời, những mảnh tình yêu còn dang dở không khỏi
gây xúc động và lấy đi những giọt nước mắt của người nghe để những thế hệ
ngày hôm nay thêm biết trân trọng cuộc sống hòa bình này.

(Cổng vào Thành cổ Quảng Trị)

24


(Thành Cổ Quảng Trị)
2.1.2 Danh thắng
* Bãi biển Mỹ Khê
Tạp chí kinh tế hàng đầu của Mỹ Forbes đã bình chọn bãi biển Mỹ Khê là
một trong sáu bãi biển quyến rũ nhất hành tinh. Có thể nói, bãi biển Mỹ Khê đã
đáp ứng đầy đủ các tiêu chí bình chọn cơ bản của Forbes, như: Bãi biển Mỹ Khê
thuận tiện về giao thông, bãi biển mở miễn phí cho tất cả du khách, Bãi Biển có
bờ cát dài và phẳng, ánh nắng và mức sóng phù hợp cho việc chơi các môn thể
thao, có khả năng đảm bảo an toàn cho du khách, có các khu nghỉ dưỡng hạng
sang, các biệt thự đạt tiêu chuẩn quốc tế...
Bãi biển Mỹ Khê nổi tiếng với cát trắng mịn, sóng biển ôn hòa, nước ấm
quanh năm, cùng hàng dừa thơ mộng, đẹp tuyệt vời bao quanh. Khách du lịch có
thể tắm biển gần như suốt năm, nhưng thích hợp nhất là mùa hè, khoảng từ
tháng 5 đến tháng 8 dương lịch. Chưa kể, do bờ biển không sâu, khách sẽ
có cảm giác yên tâm vừa bơi lội vừa thư thái ngắm ngọn Ngũ Hành Sơn hùng vĩ
và đảo Cù Lao Chàm ở phía xa Hội An.
Khi hoàng hôn buông xuống, Mỹ Khê khoác lên mình một tấm áo mới
mang màu sắc trầm lặng hơn, tĩnh mịch hơn, không gian của thời khắc giao hòa
giữa ngày và đêm dường như đặc quánh và vô tình khiến cho lòng người lữ
khách có cảm giác bị chùng xuống bất chợt.
Đến Đà Nẵng em có cơ hội đi dạo trên bờ biển này, không gian thật đẹp,

25


×