Tư pháp là gì? Cơ quan tư pháp làm gì?
Tư pháp là gì?
Tư pháp là đảm bảo sự công tư của pháp luật, bảo vệ nền công lý. Để thực hiện tư pháp
sẽ có cơ quan tư pháp. Tư pháp thuộc 1 trong 3 nhánh chính của Tam quyền phân lập.
Cơ quan tư pháp là gì?
Cơ quan tư pháp (hay hệ thống tư pháp) là một hệ thống tòa án để xử lý những hành vi vi
phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp. Theo chủ thuyết tam quyền phân lập, cơ
quan tư pháp là phân nhánh chính của một chính thể, có trách nhiệm chính về việc diễn
giải luật.
Cơ quan tư pháp làm gì?
Cơ quan tư pháp phụ trách xử mọi vụ án cho đất nước, nhân dân… bao gồm 1 hệ thống
Tòa án từ cấp nhỏ nhất cho đến Tòa án tối cao Quốc gia. Ở nhiều nước trên thế giới, để
modvigil 200mg đảm bảo Tư pháp độc lập, khi xử án không vướng vào tình trạng phe
phái thì các Quan tòa (Thẩm phán) phải do dân bầu lên và phải là những người không có
đảng phái, không đc quyền tham gia đảng, không đc quyền lập đảng. Khi tòa án xảy ra
tiêu tực thì Quốc hội (tức dân) có quyền tố cáo và cách chức Thẩm phán. Tòa án chỉ có
quyền xử án, không có quyền đặt ra luật buy diazepam online pháp, cũng không có quyền
bắt giữ người. Đừng đầu nhánh Tư pháp là Tòa án tối cao quốc gia, bao gồm 1 nhóm
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
thẩm phán (thường là số lẻ) làm việc bằng cách bỏ phiếu… cơ quan quyền lực này có
quyền xanax bars phán quyết 1 đạo luật là vi hiến và bãi bỏ nó. Cơ quan này cũng có
quyền phán quyết những việc làm vi hiến của Tổng thống.
Quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013
Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp tạo thành quyền
lực thống nhất của Nhà nước, mục đích thực hiện quyền tư pháp là xử lý mọi hành vi vi
phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh, bổ sung, thay
đổi hoặc chấm dứt từ các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ do Tòa án thực hiện bằng
thủ tục tố tụng chặt chẽ, dân chủ, công khai và công bằng, nhằm khôi phục, duy trì trật tự
pháp luật, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm, góp
phần bảo đảm pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm minh. Tại khoản 3 Điều 2
và khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định:“Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.”; “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.”. Trong phạm vi bài viết này,
tác giả giới hạn việc nghiên cứu về quyền tư pháp và cơ quan thực thi quyền tư pháp theo
tinh thần quy định của Hiến pháp năm 2013, mà theo đó, hiện vẫn còn nhiều cách hiểu
khác nhau về quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bởi ngoài những quy
định có liên quan tại Hiến pháp năm 2013, cơ quan nhà nước có thẩm quyền hiện vẫn
chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về nội dung này.
1. Nhận thức về quyền tư pháp
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến ở nước ta, quyền tư pháp và cơ quan thực thi quyền tư
pháp được quy định rõ. Tuy nhiên, khái niệm về quyền tư pháp thì chưa được định nghĩa
hoặc giải thích chính thống từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được hiểu một cách
thống nhất, dẫn đến nhận thức có sự khác nhau về quyền tư pháp. Xoay quanh nội dung
này, hiện có các nhóm quan điểm sau:
+ Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyền tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của
Tòa án và những hoạt động của các cơ quan, tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt
động xét xử của Tòa án, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Nhóm quan
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
điểm này, quyền tư pháp được thực hiện không chỉ bởi cơ quan xét xử (tòa án), mà cả
Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra và các cơ quan trợ giúp tư pháp, như: Luật sư,
Công chứng, Giám định, Tư vấn pháp luật,…Những người theo quan điểm này, căn cứ
vào Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
+ Nhóm quan điểm thứ hai: Quyền tư pháp là quyền mà Nhà nước giao cho các cơ quan
có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh,
thương mại, lao động,… theo trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp, bao gồm các thủ tục tố
tụng hình sự, thủ tục tố tụng dân sự, thủ tục tố tụng hành chính,… Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân , Cơ quan thi hành án đều thực hiện quyền tư pháp
theo những mức độ khác nhau. Việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án gắn liền với
chức năng xét xử và chỉ thực hiện khi và chỉ khi xét xử chứ không bao trùm cả chức năng
điều tra, chức năng công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động thực
hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân chỉ xảy ra khi vụ việc được chuyển đến Tòa án
xem xét, giải quyết và hoàn toàn độc lập với hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, hoạt
động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Do vậy,
Quyền tư pháp được hiểu là tập hợp những hoạt động cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện
trong tố tụng tư pháp, liên quan trực tiếp đến việc giải quyết vụ án, các tranh chấp pháp
luật, hướng tới mục đích giải quyết các vụ án, tranh chấp một cách khách quan, đúng đắn
và các hoạt động liên quan đến thi hành các phán quyết của Tòa án, mà các hoạt động đó
thuộc về cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án và thi hành án.
+ Nhóm quan điểm thứ ba: Quyền tư pháp là lĩnh vực quyền lực Nhà nước được thực
hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định áp dụng pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ
thể pháp luật. Theo quan điểm này, chủ thể thực hiện quyền tư pháp chỉ là Tòa án và hoạt
động tư pháp chỉ là hoạt động xét xử. Nói đến tư pháp là nói đến lĩnh vực hoạt động xét
xử của Tòa án và ngược lại. Cùng chung quan điểm này, theo PGS.TS Nguyễn Đăng
Dung, trong sách chuyên khảo “Thể chế Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền”, NXB Tư
pháp, năm 2004, trang 11, có viết: “Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được
thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các
hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
chủ thể pháp luật”
Đồng tình với quan điểm này, nhưng hiểu với phạm vi mở rộng hơn, mức độ sâu sắc hơn,
mà theo đó, nội hàm của quyền tư pháp trước hết là quyền xét xử, quyền kiểm tra, đánh
giá kết luận về tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng do các cơ
quan tư pháp thực hiện trong suốt quá trình tố tụng và thi hành bản án, quyết định của
Tòa án. Những người ủng hộ quan điểm mở rộng, lập luận theo hướng Tòa án nhân dân
có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ
quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý
thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Trước yêu cầu bảo
đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng cơ chế để Tòa án tham gia kiểm soát việc thực hiện các
hoạt động tư pháp. Trong bài viết: “Làm thế nào để Thẩm phán và Tòa án độc lập trong
thực thi công lý” của GS. Lê Hồng Hạnh, đăng trên Tạp chí Pháp luật và Phát triển, số
1/2015, có viết: Trong cơ chế phân công quyền lực, quyền tư pháp được hiểu là là quyền
của Nhà nước xác định và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và thực thi công lý thông
qua các thể chế phù hợp. Thiết chế này có chức năng cơ bản nhất, nếu không muốn nói là
duy nhất, thay mặt xã hội thực thi công lý và nó phải được tổ chức, được giao nhiệm vụ,
quyền hạn để thực hiện công việc một cách độc lập tối đa có thể; và công lý phải được
thực thi trong mắt nhân dân. Thiết chế thực thi công lý bao gồm các Thẩm phán. Còn
PGS.TS Trần Văn Độ, cho rằng: Quyền tư pháp là quyền xét xử, tức quyền áp dụng pháp
luật để ra phán quyết về các vi phạm pháp luật và các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Tòa
án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước
thực hiện quyền tư pháp. Vì vậy, xử lý các vi phạm pháp luật bằng các chế tài Nhà nước,
giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực Nhà nước đều phải thuộc thẩm quyền của Tòa
án. Các cơ quan nhà nước khác tham gia vào việc xử lý, giải quyết đó không phải là cơ
quan tư pháp, không có chức năng thực hiện quyền tư pháp, mà các cơ quan này chỉ thực
hiện các hoạt động tư pháp. Từ đó, mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử, giao
cho Tòa án bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật là xu thế tất yếu của nhà nước pháp
quyền.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Tuy nhiên, chỉ riêng trong lĩnh vực tố tụng hình sự, BLTTHS năm 2015 (có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2016) vẫn quy định các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền
ban hành các quyết định có liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân,
trong đó, đặc biệt là các quyền về tự do thân thể, nhà ở, đồ vật, thư tín, bắt, tạm giữ, tạm
giam, khám xét nhà ở,…Chẳng hạn, theo quy định tại các điểm a, b khoản 1 Điều 113
BLTTHS năm 2015: Những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo
để tạm giam:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự các cấp;
Tương tự như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 193 BLTTHS năm 2015, những
người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật này, có quyền ra lệnh khám
xét (khám xét người, khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện , thu giữ thư tín,
điện tín,…). Trong khi các quyền này có ảnh hưởng lớn đến quyền con người, quyền
công dân, thì lại chưa được Quốc hội giao cho Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp phán quyết hoặc kiểm tra việc ra phán quyết để bảo vệ quyền con người,
quyền cơ bản của công dân!
2. Cơ quan thực hiện quyền tư pháp
Việc quy định quyền tư pháp phải xuất phát từ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước
theo quy định của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với đặc thù về thể chế chính trị, thực tế
và truyền thống pháp luật của Việt Nam. Qua nghiên cứu của người viết, xoay quanh
nhận thức về quyền tư pháp là hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ
quan thi hành án và thiết chế bổ trợ tư pháp cho rằng, quyền tư pháp chỉ là hoạt động xét
xử của Tòa án có một số điểm chưa hợp lý sau:
Một là, các quan điểm nói trên mới chỉ nói đến chức năng và thẩm quyền xét xử của Tòa
án, mà chưa đề cập đến thẩm quyền nhiều mặt khác của cơ quan này, bởi lẽ, ở nhiều quốc
gia khác, ngoài hoạt động xét xử, Tòa án còn thực hiện nhiều hoạt động khác, như kiểm
tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các quyết định mà cơ quan nhà nước và người có
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
thẩm quyền giải thích, hướng dẫn, áp dụng pháp luật.
Hai là, nhận thức về quyền tư pháp theo phương diện chủ thể thực thi quyền tư pháp bao
gồm cơ quan điều tra, Viện kiểm sát sẽ phân biệt được rõ ràng chức năng hành pháp và
chức năng tư pháp. Các cơ quan điều tra, viện kiểm sát về bản chất là cơ quan hành pháp
và hoạt động của các cơ quan này sẽ tham gia vào các vụ án hình sự, trong khi đó, các vụ
án không phải là hình sự thì theo quy định của pháp luật nghĩa vụ chứng minh thuộc về
các đương sự, nên các cơ quan điều tra sẽ không xuất hiện và chức năng thực hiện quyền
kiểm sát hoạt động tư pháp của viện kiểm sát lại càng rất mờ nhạt.
Ba là, nếu coi chủ thể thực hiện quyền tư pháp không chỉ là các cơ quan nhà nước mà còn
cả các tổ chức bổ trợ tư pháp, thì điều này dẫn đến, quyền tư pháp không còn được hiểu
đúng theo nghĩa của một nhánh quyền lực trong quyền lực Nhà nước của bộ máy Nhà
nước.
Theo quy định khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, như trên đã dẫn, việc cụ thể hóa
nội hàm về quyền tư pháp, xác định chính danh Tòa là cơ quan thực hiện quyền tư pháp
trong văn bản pháp luật là điều rất cần thiết, từ đó mới quy định đúng, đủ, chính xác chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án thực hiện có hiệu
quả quyền tư pháp, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
Qua nghiên cứu, theo quan điểm của người viết, nội hàm của quyền tư pháp được xác
định bao gồm các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, quyền tư pháp là xét xử và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật;
áp dụng, kiểm tra, hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước hạn chế quyền
con người, quyền công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định; kiểm tra, kết luận
tính hợp pháp và có căn cứ của các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người
tiến hành tố tụng.
Thứ hai, xử lý vi phạm hành chính; xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người; quyền
cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, quyết định, giám sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án;
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Thứ tư, trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với cơ quan có thẩm
quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH;
Thứ năm, quyền kiểm soát việc thực hiện các hoạt động tư pháp. Hiến pháp đã xác định
Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, thì trong quá trình thực hiện quyền tư pháp
mà trọng tâm là hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền, các hoạt động
của cơ quan, tổ chức tiến hành tố tụng hoặc hỗ trợ cho tòa án trong việc thực hiện quyền
tư pháp đều phải chịu sự kiểm soát tư pháp của Tòa án.
Từ những phân tích nội hàm quyền tư pháp nêu trên, theo quan điểm của người viết,
quyền tư pháp được hiểu: Quyền tư pháp là quyền lực nhà nước giao cho tòa án thực hiện,
bao gồm trước hết là quyền xét xử và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp
luật; áp dụng, kiểm tra, hoặc hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước hạn
chế quyền con người, quyền công dân; áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan
đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật; quyết định,
giám sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp
luật; kiểm soát hoạt động tư pháp, hoạt động của cơ quan hành pháp theo cơ chế phân
công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các quyền khác bảo
đảm để Tòa án thực thi quyền lực tư pháp theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan nhà nước bảo vệ pháp luật có trách
nhiệm duy trì, bảo vệ công lý và trật tự pháp luật, trong đó, Tòa án với chức năng hiến
định là xét xử với vai trò trung tâm và thể hiện rõ nét nhất các đặc tính của quyền tư pháp.
Hoạt động điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện bởi các cơ quan
hành pháp, bởi suy cho cùng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về bản chất thuộc cơ quan
hành pháp, nên việc sắp xếp các cơ quan này vào hệ thống các cơ quan tư pháp là không
hợp lý, hơn nữa, theo khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Kiểm sát hoạt động tư pháp mà
thực chất là kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, là hình thức kiểm soát quyền lực nhà
nước, xuất phát từ nguyên tắc độc lập xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014: “ Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết
vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.” Vấn
đề đặt ra, kiểm soát quyền lực tư pháp thực hiện như thế nào là hợp lý? Cách giải thích
phù hợp với Hiến pháp hiện nay là quyền kiểm soát hoạt động xét xử, được Quốc hội
giao cho Viện kiểm sát với vai trò công cụ kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, trong
đó có quyền lực tư pháp. Mà nếu như vậy, Viện kiểm sát phải độc lập với hoạt động xét
xử, hoạt động tố tụng thì mới có thể kiểm sát hoạt động xét xử, kiểm sát hoạt động tố
tụng, nghĩa là Viện kiểm sát phải đứng ngoài tư pháp, không phải là cơ quan tư pháp. Mặt
khác, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát xuất hiện trong quan hệ tố tụng trong từng lĩnh
vực là khác nhau, cụ thể, trong quan hệ tố tụng hình sự thì luôn luôn có sự tham gia của
các cơ quan này theo thẩm quyền pháp luật quy định, nhưng với lĩnh vực dân sự, lao
động, kinh doanh, thương mại,… Cơ quan điều tra không tham gia, còn Viện kiểm sát chỉ
tham gia với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp
việc thực hiện chức năng công tố với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp chưa rõ ràng,
nghĩa là lúc nào thì Viên kiểm sát thực hiện quyền công tố, khi nào thì Viện kiểm sát thực
hiện quyền kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án.
Cơ quan thi hành án với chức năng nhiệm vụ pháp luật quy định chỉ thi hành các phán
quyết của Tòa án, nên mang tính chất hành chính – tư pháp. Do đó, hoạt động thi hành án
không thuộc phạm vi của quyền tư pháp và cơ quan thi hành án không phải là cơ quan tư
pháp. Ngoài ra, hoạt động của tổ chức luật sư, giám định,… như tên gọi là hoạt động bổ
trợ tư pháp, góp phần bảo vệ công lý, nhưng các hoạt động này được tiến hành bởi các tổ
chức, cá nhân bên ngoài, không được giao thực hiện quyền lực nhà nước, nên không coi
là hoạt động thực thi quyền tư pháp.
Trong khi đó, Tòa án là chủ thể thực hiện quyền tư pháp một cách “tuyệt đối” nên tham
gia trong mọi lĩnh vực để phân xử đưa ra phán quyết bảo đảm sự công bằng, lẽ phải, bảo
vệ công lý theo quy định của pháp luật. Trong điều kiện đất nước ta đang xây dựng nền tư
pháp phụng sự Nhân dân, gần Nhân dân, đáp ứng những yêu cầu của Nhân dân phải giải
quyết nhanh chóng những tranh chấp, sự việc phát sinh để kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
của người dân thì mức độ và phạm vi kiểm sát hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc
khác của Tòa án cần được cụ thể hóa bằng văn bản pháp luật.
Tóm lại, theo quan điểm của người viết, Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư
pháp, là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước, chỉ có Tòa án là cơ quan có thẩm quyền
xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền
lực nhà nước. Do vậy, khi nói đến quyền tư pháp là nói đến quyền của Tòa án và chỉ là
Tòa án; Cơ quan thực hiện quyền tư pháp duy nhất chỉ là Tòa án.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí