Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ yếu là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN DUY THUẤN

C¸C TéI X¢M PH¹M HO¹T §éNG T¦ PH¸P Mµ CHñ THÓ
Lµ NH÷NG NG¦êi TRONG C¸C C¥ QUAN TIÕN HµNH Tè TôNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN DUY THUẤN

C¸C TéI X¢M PH¹M HO¹T §éNG T¦ PH¸P Mµ CHñ THÓ
Lµ NH÷NG NG¦êi TRONG C¸C C¥ QUAN TIÕN HµNH Tè TôNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xá và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Duy Thuấn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ CHỦ THỂ LÀ NGƢỜI
TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG...................... 6
1.1.

Những khái niệm có liên quan.......................................................... 6

1.1.1.

Khái niệm cơ quan tư pháp ................................................................. 6


1.1.2.

Khái niệm hoạt động tư pháp ............................................................ 10

1.1.3.

Khái niệm người trong các cơ quan tiến hành tố tụng ...................... 12

1.1.4.

Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là
người tiến hành tố tụng ...................................................................... 16

1.2.

Quá trình phát triển của pháp luật hình sự về các tội xâm
phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ
quan tiến hành tố tụng ..................................................................... 18

1.2.1.

Giai đoạn 1945 đến 1975................................................................... 18

1.2.2.

Giai đoạn 1976 đến 1999................................................................... 22

1.3.

Quy định của bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm

hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan
tiến hành tố tụng ............................................................................... 25

1.3.1.

Xác định tội danh của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng ....................... 25


1.3.2.

Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành
tố tụng ................................................................................................ 29

1.3.3.

Chế tài hình sự đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng ................. 54

Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ
CHỦ THỂ LÀ NGƢỜI TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG ............................................................................ 56
2.1.

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến
hành tố tụng ...................................................................................... 56


2.1.1.

Kết quả và những tồn tại trong điều tra, truy tố và xét xử đối
với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người
trong các cơ quan tiến hành tố tụng .................................................. 56

2.1.2.

Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong việc áp dụng
pháp luật đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ
thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng ................................. 67

Chƣơng 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ CHỦ THỂ LÀ
NGƢỜI TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG ....... 74
3.1.

Quan điểm của Đảng và nhà nƣớc trong đấu tranh với các
tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời
trong các cơ quan tiến hành tố tụng .............................................. 74

3.2.

Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng .......... 80

3.4.

Các đề xuất, kiến nghị khác ............................................................ 92


KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Số vụ án hình sự và số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ
quan tiến hành tố tụng từ năm 2000 đến năm 2013

60


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cải cách tư pháp là một đòi hỏi khách quan, cấp thiết và mang tính quy
luật để có thể thích ứng với những đổi mới về văn hóa, kinh tế, xã hội và hệ
thống chính trị. Vấn đề này đã chính thức được đặt ra tại nhiều Đại hội của
Đảng, đồng thời đã được đánh dấu và ghi nhận trong các Nghị quyết 8 Trung
ương khóa VII, Nghị quyết 3 và 7 Trung ương khóa VIII và đặc biệt là Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
Do tố tụng hình sự được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mà hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng là hoạt động quyền lực
Nhà nước do những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện như: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra
viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án,
Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án. Những năm
qua, trong tiến trình tổng thể cải cách đất nước nói chung và cải cách tư pháp
nói riêng thì hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ở nước ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể, nhất là trong công tác phát hiện, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà
nước giao cho. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong khi
thực hiện nhiệm vụ tư pháp đã xuất hiện không ít hành vi xâm phạm hoạt
động tư pháp của người tiến hành tố tụng trong các cơ quan tiến hành tố tụng.
Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả của hoạt động tư pháp, mà còn gây

1


mất lòng tin của nhân dân vào các cơ quan tư pháp, vào công lý, lẽ phải. Vì
vậy, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và với

đối tượng phạm tội là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng là
một vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Với nhận thức như vậy, học
viên chọn đề tài: "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người
trong các cơ quan tiến hành tố tụng (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk)" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp đã thu hút được sự quan tâm của dư luận và nhiều nhà nghiên cứu đã
được công bố như: Trần Minh Hưởng, Đặng Thu Hiền: "Tìm hiểu các tội xâm
phạm hoạt động tiến hành tố tụng", Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, năm 2002
; Nguyễn Ngọc Điệp, Hồ Thị Nệ: "Tìm hiểu các tội hoạt động tiến hành tố
tụng: Trong Bộ luật hình sự 1999", Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm
2001; Nguyễn Tất Viễn, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Luật học: "Các tội xâm
phạm hoạt động tiến hành tố tụng trong luật hình sự Việt Nam", năm 1996;
Nguyễn Huy Hoàn, Luận án tiến sĩ Luật học: "Đảm bảo quyền con người
trong hoạt động tiến hành tố tụng ở Việt Nam hiện nay", năm 2005; Đề tài
nghiên cứu khoa học: "Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động tiến hành tố
tụng và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong cuộc đấu
tranh chống các tội phạm này", Chủ nhiệm đề tài Bùi Đức Long, Cơ quan chủ
trì: Trường Cao đẳng kiểm sát, 1998… . Ngoài ra, các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp còn được đề cập ở các mức độ khác nhau trong các tạp chí, sách
báo khác như: Giáo trình Luật hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo
trình của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, sách chuyên khảo. Các tác
giả chủ yếu đề cập tới trách nhiệm hình sự, tìm hiểu và bình luận về các tội
xâm phạm hoạt động tiến hành tố tụng trong luật hình sự Việt Nam, đảm bảo

2


quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp với tư cách là đối
tượng của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu sâu về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận những nội dung cơ
bản của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ
quan tiến hành tố tụng và thực trạng đấu tranh chống các tội phạm này theo
quy định của Luật hình sự Việt Nam trong những năm gần đây. Trên cơ sở
đó, luận văn đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống các
tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến
hành tố tụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Về mặt lý luận: trên cơ sở nghiên cứu quy định về các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp trong lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam và
các quy định về người tiến hành tố tụng và các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp trong Luật hình sự một số nước trên thế giới, phân tích khái niệm, các
yếu tố, dấu hiệu cấu thành tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là
người trong các cơ quan tiến hành tố tụng trong Bộ luật hình sự năm 1999
hiện hành để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của các
tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến
hành tố tụng theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: nghiên cứu, phân tích và đánh giá những vụ việc của
các cơ quan, người tiến hành tố tụng đã có những sai phạm trong quá trình
thực thi pháp luật. Đồng thời phân tích những hạn chế, tồn tại và vướng mắc

3



xung quanh việc áp dụng trên thực tiễn các quy định về loại tội phạm này
nhằm đề ra phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật và các biện
pháp chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong
các cơ quan tiến hành tố tụng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng theo quy định
của Bộ luật tố tụng thình sự Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử
và phương pháp tổng hợp, cũng như những thành tựu của khoa học luật hình
sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật v.v... Trong các công
trình của các nhà khoa học, luật gia ở trong và ngoài nước. Ngoài ra, việc
nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu thực tiến trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk,
trong các báo cáo của Công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án
nhân dân và một số vụ án hình sự trong thực tiễn trong quá trình điều tra, truy
tố và xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và đánh giá, tổng
hợp các tri thức khoa học luật hình sự.
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập một cách
có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội xâm phạm hoạt động
tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam, ở cấp độ một luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự.

4



Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những
yếu tố cấu thành tội phạm của từng tội danh cụ thể trong chương Các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
cũng như nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật này và nêu ra
các đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống các
tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành
tố tụng. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa tham khảo cho cán bộ và học viên
trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
Chương 3. Những đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả đấu tranh với
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan
tiến hành tố tụng

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ CHỦ THỂ LÀ NGƢỜI
TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm cơ quan tư pháp
Quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp hợp thành
quyền lực nhà nước thống nhất của một quốc gia. Cơ quan tư pháp, với những

đặc trưng riêng của quyền tư pháp, được tổ chức và hoạt động theo các
nguyên tắc do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật hiện nay của nhà nước ta
không nêu rõ và đặt tên cơ quan tư pháp là cơ quan nào. Tuy nhiên, Hiến
pháp năm 1946 có một chương có tên Cơ quan tư pháp, trong đó, Tòa án được
coi là cơ quan tư pháp: Cơ quan tư pháp của Nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa gồm có: Tòa án tối cao; Các tòa án phúc thẩm; Các tòa án đệ nhị cấp và
sơ cấp (Điều 63).
Hiến pháp 1959 cụm từ cơ quan tư pháp không được sử dụng trong các
văn bản pháp luật của Nhà nước. Từ Hiến pháp năm 1992 đến nay, cụm từ
quyền tư pháp và cơ quan tư pháp được sử dụng nhiều trong các văn bản
chính trị, pháp luật; Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) có một
điều khoản đề cập đến quyền tư pháp trong nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2) và một
điều khoản đề cập đến hoạt động tư pháp khi quy định Viện kiểm sát thực
hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong Hiến pháp cũng
như các văn bản pháp luật, không văn bản nào xác định rõ ràng, thống nhất cơ

6


quan thực hiện quyền tư pháp là những cơ quan nào; hoạt động tư pháp gồm
những hoạt động gì; Trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (Năm 2002)
cũng không có điều khoản nào làm rõ khái niệm hoạt động tư pháp, kiểm sát
hoạt động tư pháp mà chỉ dùng phương pháp liệt kê một số nhiệm vụ của
kiểm sát hoạt động điều tra, hoạt động xét xử, hoạt động thi hành án. Như
vậy, các Hiến pháp những năm tiếp theo như Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và
Hiến pháp 2013 không có tên chương nào đặt cho cơ quan tư pháp mà chỉ quy
định chương có tên Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân. Ví dụ, Điều

126 Hiến pháp năm 1992 quy định: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của
mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân. Hiến pháp năm 2013 không có điều luật chung quy định về Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, nhưng có các điều luật riêng xác định chức năng
của các cơ quan này. Tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Điều 107
Hiến pháp 2013 quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Như vậy, tuy không nêu rõ, nhưng Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát
nhân dân được gọi là các cơ quan tư pháp.

7


Trong thực tế, tại các văn kiện của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước nói chung hay Nghị quyết về công tác tư pháp nói
riêng, cụm từ cơ quan tư pháp được sử dụng nhiều, nhưng cũng không có văn
bản nào xác định một cách thống nhất, rõ ràng cơ quan tư pháp gồm những cơ
quan nào. Ở mỗi thời điểm khác nhau, thuật ngữ cơ quan tư pháp được xác
định và thể hiện trong các văn bản cũng khác nhau. Nghị quyết số 08NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới”, khi đề cập đến việc nâng cao chất lượng

hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp đã xác
định các cơ quan sau: Cơ quan điều tra; Cơ quan công tố (các viện kiểm sát
nhân dân); Cơ quan xét xử (các tòa án); Cơ quan thi hành án (hình sự, dân
sự); Cảnh sát tư pháp; Các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (các tổ chức luật
sư, công chứng, giám định tư pháp...). Hoặc trong Nghị quyết số 49-NQ/TW,
ngày 02-6-2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, khi đề cập
đến việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức,
bộ máy của các cơ quan tư pháp đã nêu các cơ quan: Tòa án nhân dân; Viện
kiểm sát nhân dân; Cơ quan điều tra; Cơ quan thi hành án. Ngoài ra, Nghị
quyết số 49-NQ/TW còn nhấn mạnh, cần hoàn thiện các chế định về bổ trợ tư
pháp (luật sư, giám định, cảnh sát hỗ trợ tư pháp, công chứng). Có thể thấy,
thuật ngữ các cơ quan tư pháp ở nước ta hiện nay chưa được hiểu và sử dụng
một cách thống nhất trong các văn bản của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Thuật ngữ này thường được hiểu theo nghĩa rộng là ngoài Tòa án và Viện
kiểm sát, còn có các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp (Cơ quan điều tra, cơ
quan thi hành án, cơ quan công chứng…), thậm chí gồm cả các tổ chức xã hội
nghề nghiệp (như Luật sư), tức là những tổ chức nằm ngoài hệ thống quyền
lực Nhà nước [14].
Một điểm cần lưu ý khi tìm hiểu thuật ngữ các cơ quan tư pháp được

8


dùng với ý nghĩa, phạm vi như trên, chúng ta cần phân biệt thuật ngữ này với
thuật ngữ các cơ quan của “ngành tư pháp” thuộc hệ thống hành pháp (gồm
Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban Tư pháp). Mặc dù các cơ
quan này đều có cụm từ “Tư pháp” gắn sau tên cơ quan, nhưng thực chất, các
cơ quan này không trực tiếp thực hiện các hoạt động tư pháp. Theo chức
năng, nhiệm vụ được giao, các cơ quan này là cơ quan quản lý Nhà nước đối
với một số tổ chức và hoạt động tư pháp (thi hành án dân sự, luật sư, công

chứng, giám định tư pháp...). Ngoài ra, trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, Bộ
Tư pháp được giao chủ trì xây dựng một số văn bản luật liên quan trực tiếp
đến hoạt động tư pháp (như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật thi hành án,
Luật luật sư...), là thành viên tham gia và thẩm định tất cả các văn bản pháp
luật làm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Điều này đặt ra cần hiểu đúng thế nào là cơ quan tư pháp.
Theo lý luận nhà nước và pháp luật, bộ máy quyền lực nhà nước của
các quốc gia trên thế giới nói chung gồm có các cơ quan chủ yếu là: Cơ quan
lập pháp (Quốc hội), Cơ quan hành pháp (Chính phủ) và Cơ quan tư pháp
(Tòa án). Các cơ quan này độc lập với nhau để kiềm chế sự lạm quyền của
mỗi cơ quan. Tuy nhiên, do đặc điểm của nước ta, ngoài những điểm chung
như các quốc gia khác trên thế giới còn có những đặc điểm riêng. Các cơ quan
quyền lực của nhà nước ta có Cơ quan lập pháp là Quốc hội, Cơ quan hành
pháp là Chính phủ, bộ máy chính quyền địa phương và Cơ quan tư pháp thì
ngoài Tòa án còn có Viện Kiểm sát. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta là
các cơ quan này như Điều 2 Hiến pháp 2013 khẳng định: Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cho nên
việc phân chia quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước mang tính chất
tương đối. Tất cả các hoạt động của các cơ quan này đặt dưới sự lãnh đạo của

9


Đảng Cộng sản Việt Nam như Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: Đảng
Cộng sản Việt nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Như vậy, có thể hiểu các cơ quan tư pháp tại Việt Nam là Cơ quan Tòa
án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân những cơ quan thực hiện chức năng
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính theo quy định của pháp luật có liên quan.

1.1.2. Khái niệm hoạt động tư pháp
Trên thế giới, nói đến hoạt động tư pháp là nói đến hoạt động xét xử
của toà án cũng như nói đến cơ quan tư pháp là nói đến cơ quan toà án; nói
đến tư pháp là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập rất cao trong
mối quan hệ với lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, nói như thế không có
nghĩa là lĩnh vực tư pháp độc lập một cách tuyệt đối với các lĩnh vực lập pháp
và hành pháp. Xét về phương diện phân công (hay phân chia) và thực hiện
quyền lực ở mỗi quốc gia, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp đều có
quan hệ và ảnh hưởng qua lại với nhau trong hoạt động. Mức độ của sự ảnh
hưởng này tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: bản chất nhà nước; các nguyên tắc
tổ chức bộ máy nhà nước; các yếu tố văn hoá pháp lý và dân chủ; điều kiện
thực tế của mỗi nước.
Ở nước ta, nếu chỉ có hoạt động của các cơ quan tòa án, viện kiểm sát
thì chưa thể thực hiện được chức năng tư pháp, mặc dù hoạt động xét xử của
tòa án được coi là trung tâm trong hoạt động tư pháp. Khi giải quyết vụ án
hình sự, để tòa án có thể tổ chức các phiên tòa xét xử, viện kiểm sát thực hiện
được chức năng công tố, buộc tội người phạm tội trước phiên tòa phải có các
hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra mà đa số các cơ quan này không
nằm trong cơ quan tòa án, viện kiểm sát (trừ Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao). Các cơ quan điều tra nói chung (các Cơ quan điều tra
các cấp của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng) đều nằm trong bộ máy hành pháp

10


(Chính phủ). Ngoài ra, để thực hiện được nhiệm vụ điều tra của các cơ quan
này đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của nhiều cơ quan khác như cơ quan giám định,
cơ quan hỗ trợ tư pháp, cơ quan công chứng, cơ quan định giá tài sản trong tố
tụng hình sự, tố tụng dân sự v.v.... Do vậy, hoạt động tư pháp không chỉ của
các cơ quan tư pháp, mà còn có các cơ quan khác nằm trong bộ máy Chính

phủ hoặc những tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Trong quá trình phát triển của đất nước, khái niệm “hoạt động tư pháp”
luôn có những thay đổi theo các giai đoạn lịch sử, gắn liền với quá trình hình
thành, phát triển của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu
theo tinh thần của Hiến pháp năm 1946, với quy định về cơ quan tư pháp là
toà án thì, hoạt động tư pháp thuần tuý được hiểu chỉ là hoạt động xét xử của
toà án. Từ Hiến pháp năm 1992 trở đi, khái niệm “hoạt động tư pháp” từng
bước được mở rộng và đến nay đã gồm nhiều hoạt động khác nhau, như: khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Cho nên, các hoạt động tư pháp hiện
nay được thực hiện bởi nhiều chủ thể, như: Toà án; Viện kiểm sát; Cơ quan
điều tra thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
thi hành bản án, quyết định của Toà án như cơ quan Công an, các cơ quan thi
hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc.... Ngoài ra còn có những
cơ quan khác cũng được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, như: Bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm Lâm, lực lượng Cảnh sát Biển... thực hiện
các hoạt động tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ các quyền tự do, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
công dân... Cho nên, khái niệm hoạt động tư pháp thường được hiểu theo
nghĩa rộng, không chỉ là hoạt động của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án và Cơ quan thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và

11


thi hành đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và giải quyết các
quan hệ pháp luật khác được phát sinh theo quy định của pháp luật, nhằm bảo
vệ các quyền của Nhà nước, của các tổ chức, của công dân. Các hoạt động
này do người đại diện của các cơ quan tư pháp nhân danh Nhà nước trực tiếp

thực hiện tùy theo chức danh được bổ nhiệm. Hoạt động tư pháp bao gồm
những hoạt động trực tiếp liên quan đến trình tự thủ tục tố tụng theo luật định
mới được xác định là hoạt động tư pháp. Ví dụ như hoạt động điều tra; hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; hoạt động
xét xử, hoạt động thi hành án và các hoạt động của các cơ quan được Nhà
nước giao thẩm quyền trong việc tiến hành một số hoạt động tư pháp theo thủ
tục tố tụng, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động trọng tâm (theo
tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/6/2005 "Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020").
Như vậy, hoạt động tư pháp là hoạt động tố tụng trong các lĩnh vực
hình sự, dân sự, hành chính, bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, hành chính do người của các Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án thực hiện trong
khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức và của công dân.
1.1.3. Khái niệm người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
Tên gọi người tiến hành tố tụng để chỉ những người làm việc trong các
cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng ở nước ta được quy
định trong các văn bản pháp luật tố tụng (Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố
tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính). Tùy thuộc vào mỗi hình thức tố tụng
mà các cơ quan tiến hành tố tụng được quy định không giống nhau.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Các cơ
quan tiến hành tố tụng gồm có: các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Toà án

12


các cấp. Ví dụ, hệ thống các cơ quan điều tra bao gồm: cơ quan điều tra trong
Công an nhân dân; cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân; cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các cơ quan điều tra là một bộ phận

hợp thành quan trọng của hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng, tiến hành
điều tra các vụ án hình sự làm cơ sở cho hoạt động truy tố, xét xử đối với
người phạm tội trước Toà án. Trong Công an nhân dân có các cơ quan điều
tra sau đây: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan cảnh sát điều tra
Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện); Cơ
quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh).
Trong Quân đội nhân dân có cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; cơ
quan điều tra hình sự quân khu và tương đương; cơ quan điều tra hình sự khu
vực; Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra
quân khu và tương đương. Ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự
trung ương. cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra một
số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc
các cơ quan tư pháp [39].
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Viện kiểm
sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Viện kiểm sát quân sự.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước hợp thành
quan trọng của hệ thống tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật nhằm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã

13


hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước,
của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm

của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của
tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo
pháp luật [38].
Hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm: Toà án nhân dân tối cao; Toà án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Toà án nhân dân quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Toà án quân sự trung ương; Tòa án quân
sự cấp quân khu và Tòa án quân sự cấp khu vực. Những người tiến hành tố
tụng tại các cơ quan này gồm Thủ trường, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra,
Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án [37].
Trong tố tụng dân sự, theo Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự: Các cơ quan
tiến hành tố tụng gồm có: Toà án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân. Những
người tiến hành tố tụng gồm có: Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân, Thư ký Toà án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên. Trong tố
tụng hành chính, theo Điều 34 Luật tố tụng hành chính, Các cơ quan tiến
hành tố tụng hành chính gồm có: Toà án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân.
Những người tiến hành tố tụng hành chính gồm có: Chánh án Toà án, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm
sát viên [39].
Như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng nói chung là cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án được giao trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự, vụ án dân sự,
vụ án hành chính tại các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử tùy thuộc vào chức
năng, nhiệm vụ của những cơ quan này theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án nói chung, trong đó có vụ án hình sự nói
riêng, là một quá trình liên tục, trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau.

14


Trong vụ án hình sự, quá trình tố tụng được bắt đầu từ khởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử. Đối với vụ án dân sự, hành chính, quá trình tố tụng được bắt đầu
khi có đơn khởi kiện của nguyên đơn dân sự tại Tòa án. Những người có trách
nhiệm giải quyết vụ án này được gọi là người tiến hành tố tụng.
Nếu như các cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan điều tra, viện kiểm
sát, tòa án thì người tiến hành tố tụng là người làm việc trong các cơ quan này
được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án. Họ là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ
quan điều tra và Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
và Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân và Thư ký Toà án. Họ là những người có chức danh tư pháp. Vì
quan niệm chức danh tư pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ trong
các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử) được đào tạo kỹ năng thực hành
và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có chức danh, được bổ nhiệm
hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện
xác định theo quy định của pháp luật.
Do hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng gắn liền với việc giải
quyết vụ án do người tiến hành tố tụng thực hiện. Hoạt động của họ với tư
cách người tiến hành tố tụng đều nhân danh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam nên hoạt động của họ gắn liền với việc bảo vệ quyền và lợi ích của
nhà nước, xã hội, công dân. Chính vì vậy, hoạt động của người tiến hành tố
tụng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Vụ án có được giải quyết đúng pháp luật
hay không, nhanh hay chậm; quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân có được bảo vệ hay không; công lý và công bằng
có được bảo đảm hay không... tùy thuộc vào khả năng, trình độ, năng lực, đạo
đức và ý thức nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng. Khi thực hiện nhiệm
vụ, người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật; được trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước trong khi thi hành công

15



vụ và ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, các
quyền và lợi ích cơ bản của công dân.
Từ điều này, có thể hiểu, người trong các cơ quan tiến hành tố tụng là
những người tiến hành tố tụng có chức danh tố tụng; được giao nhiệm vụ giải
quyết vụ án theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định, tùy thuộc vào vụ án
đó là vụ án hình sự, dân sự hay vụ án hành chính.
1.1.4. Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là
người tiến hành tố tụng
Điều 292 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định“Các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan
điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [41]. Theo khái niệm
này, hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành
án là hoạt động theo đúng quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động điều
tra hình sự của cơ quan điều tra; hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp của Cơ quan Viện kiểm sát; hoạt động xét xử của Cơ
quan Tòa án, và hoạt động thi hành án của các Cơ quan Thi hành án hình sự
(cơ quan công an các cấp), thi hành án dân sự (cơ quan tư pháp các cấp). Xâm
phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan này thể hiện bằng việc không thực
hiện đúng các quy định của pháp luật về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án và hậu quả của sự xâm phạm này là gây thiệt hại cho quyền lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại Chương
XXII của BLHS có 3 loại chủ thể của tội phạm. Loại thứ nhất là các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng
gồm các tội được quy định tại các Điều 293, 294, 295, 296, 298, 299 (Tội truy
cứu trách nhiệm hình sự người không có tội; Tội không truy cứu trách nhiệm

16



hình sự người có tội; Tội ra bản án trái pháp luật; Tội ra quyết định trái pháp
luật; Tội dùng nhục hình; Tội bức cung).
Loại chủ thể thứ hai trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được
thực hiện bởi những người tham gia tố tụng. Những người tham gia tố tụng là
những người với tư cách người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người giám định.
Họ là chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại các
Điều 304, 307, 308, 311 (Tội không chấp hành án; Tội khai báo gian dối hoặc
cung cấp tài liệu sai sự thật; Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định
hoặc từ chối cung cấp tài liệu; Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị
dẫn giải, đang bị xét xử).
Loại chủ thể thứ ba trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được
thực hiện bởi bất kỳ người nào khi có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi theo luật định. Họ có thể là những người có chức vụ quyền hạn nhất định
trong bộ máy nhà nước nói chung, hoặc họ là những người làm việc trong các
cơ quan thi hành án. Đó là các tội được quy định tại các Điều 297, 300, 301,
302, 303, 305, 306, 309, 310, 312, 313 và 314 (Tội ép buộc nhân viên tư pháp
làm trái pháp luật; Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án; Tội thiếu trách nhiệm để người
bị giam, giữ trốn; Tội tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ; Tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật; Tội không thi hành án; Tội
cản trở việc thi hành án; Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian
dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản;
Tội đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử;
Tội che giấu tội phạm; Tội không tố giác tội phạm).
Như phần trên đã trình bày, hoạt động của những người tiến hành tố tụng
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng vì vụ án có được giải quyết đúng pháp luật hay
không, nhanh hay chậm; quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

17



của tổ chức, cá nhân có được bảo vệ hay không; công lý và công bằng có được
bảo đảm hay không tùy thuộc vào khả năng, trình độ, năng lực, đạo đức và ý
thức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng. Trong trường hợp họ vi
phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án làm cho vụ án được giải quyết
không đúng theo quy định của pháp luật, gây oan sai cho những người tham gia
tố tụng thì sẽ gây thiệt hại cho quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cho nên, Nhà nước và xã hội luôn đòi hỏi
họ phải thực sự khách quan trong việc giải quyết vụ án.
Từ những nội dung đã trình bày trên có thể hiểu, các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng là những hành vi xâm
phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử được
thực hiện bởi một hoặc một số người trong những người có chức vụ như: Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó
viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Tòa án,
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án trong khi được giao giải quyết vụ án
gây hậu quả nghiêm trọng đến quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân.
1.2. Quá trình phát triển của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng
1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1975
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công (tháng 8/1945), trong
những năm tháng đầu tiên sau khi giành được độc lập, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa non trẻ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trên tất cả các
lĩnh vực. Nền kinh tế đất nước rất nghèo nàn, lạc hậu, vừa trải qua nạn đói
năm 1945; người dân không có việc làm; chế độ tài chính kiệt quệ, hầu như
không có gì, phải kêu gọi nhân dân ủng hộ tiền, vàng cho cách mạng; trình độ
học vấn của nhân dân hầu như rất thấp, có tới 95% dân số toàn quốc hoàn


18


×