Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.85 KB, 10 trang )

Trường: Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Bộ môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin

-----֎֎-----

Tên đề tài:

QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ
KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
ĐẢNG TA CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG
VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY.

1


Lời mở đầu.
Xã hội dưới bất kì hình thái nào cũng đều là sản phẩm của mối quan hệ giữa người
với người. Quan hệ xã hội giữa người với người rất đa dạng và phong phú,vận động biến
đổi không ngừng. Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình
sản xuất tạo thành quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành
nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội được
khái quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. C.Mác viết: “Toàn bộ
những quan hệ hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là các cơ sở hiện thực trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lí, chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó.” Công lao to lớn của Mác-Ang ghen là từ
những quan hệ xã hội hết sức phức tạp đã phân biệt những quan hệ vật chất của xã hội với
những quan hệ tinh thần tư tưởng của xã hội. Nêu bật cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất
hợp thành giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng bao gồm những quan điểm tư
tưởng và những thiết chế ứng với nó.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế, gặt hái được nhiều thành tựu trong


kinh tế cũng như khoa học kĩ thuật, thu hút được nhiều doanh nghiệp lớn và sự đầu tư từ
nước ngoài. Cũng dễ nhận ra thành công đó chính là sự nhận thức đúng đắn về xu hướng
phát triển của thế giới để đặt trọng tâm phát triển. Mặt khác, Đảng và Nhà nước ta đã biết
bám sát tư tưởng Mác-Lênin, đặc biệt ứng dụng các mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để đặt nền tảng cho sự phát triển bền vững.

Nội dung của qui luật.

I.
1.
a)

Khái niệm.
Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ các quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của hình thái
kinh tế xã hội nhất định. Trong số các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng có quan hệ
sản xuất giữ vai trò thống trị, có quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội cũ, có quan hệ
sản xuất là mầm mống của xã hội mới sau này. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao
giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng
chung của đời sống kinh tế xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của xã hội cụ thể được đặc
trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên quan hệ sản xuất tàn dư và
quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò quyết định. Ví dụ như: Trong xã hội phong
kiến ngoài quan hệ sản xuất phong kiến chiếm vị trí thống trị, nó còn có quan hệ sản xuất
2


tàn dư của xã hội chiếm hữu nô lệ, mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chính ba yếu tố đó cấu thành nên cơ sở hạ tầng phong kiến.
b)


Kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, những tư tưởng xã hội và những
thiết chế tương ứng được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.Mỗi yếu tố của kiến trúc
thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ
với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song mỗi yếu tố
khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng.Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc
thượng tầng mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc đấu tranh về mặt chính trị-tư tưởng của
giai cấp đối kháng, trong đó đặc trưng là sự thống trị về mặt chính trị- tư tưởng của giai
cấp thống trị.
Ví dụ: - Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhà nước có vai trò đặc biệt
quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước,
giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống
xã hội.
- Một ví dụ khác của kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở hạ tầng là niềm tin và
lòng thờ kính trung thành đó là Tôn Giáo.Nó là tiêu biểu cho quan điểm tư tưởng của một
nhóm người nhất định và được hiểu là cơ sở hạ tầng tương ứng.

2.

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng .
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã
hội-đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị-xã hội. Chúng tồn tại trong mối
quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau.Trong đó, cơ sở hạ tầng đóng
vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng, đồng thời kiến trúc thượng tầng thường
xuyên có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình
thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng
tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản
sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó.

a)


Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
Tính chất mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ
thống kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì
cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu
thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư
3


tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng
trong đời sống kinh tế.
Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, tôn giáo,
v.v… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.
Những biến đổi (hay mất đi) của cơ sở hạ tầng sẽ tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự
biến đổi (hay xuất hiện) của kiến trúc thượng tầng tương ứng. C.Mác viết “ Cơ sở kinh tế
thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị thay đổi ít nhiều nhanh chóng.
Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế – xã hội
này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái
kinh tế xã hội. Tuy sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của
lực lượng sản xuất nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc
thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp thay đổi quan hệ sản xuất,
tức trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng
tầng.
Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất
phức tạp. Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất
theo, khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì một kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng
xuất hiện. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi đó diễn ra thông qua cuộc đấu
tranh giai cấp gay go phức tạp. Khi cuộc cách mạng xã hội xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ thay
thế bằng cơ sở hạ tầng mới, sự thống trị về chính trị của giai cấp cách mạng được thiết

lập, bộ máy nhà nước mới hình thành, sự thống trị về chính trị của giai cấp cách mạng
được thiết lập, bộ máy nhà nước mới hình thành, sự thống trị về tư tưởng của giai cấp
cách mạng cầm quyền được xác lập. Trong đó có những yếu tố của kiến trúc thượng tấng
thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật v.v…
Trong kiến trúc thượng tầng có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật v.v..
hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Sự biến mất của một kiến trúc
thượng tầng không diễn ra một cách nhanh chóng, có những yếu tố của kiến trúc thượng
tầng cũ còng tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế của nó đã bị tiêu diệt. Có những yếu tố
của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới sử dụng để xây dựng kiến trúc
thượng tầng mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai
cấp, thông qua cách mạng xã hội.
b)

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
4


Với tư cách là hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát triển của kinh tế,
các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của nó và thường xuyên
có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội. Mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác
nhau, có cách tác động khác nhau. Trong đó, nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp
nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. Vì đó là bộ máy bạo lực tập
trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v… cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng
chúng đều bị pháp luật, nhà nước chi phối.
Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng tầng
không bao giờ theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng
thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh với cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế
độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về nền kinh tế chừng

nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị,tư tưởng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo 2 xu hướng
tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp của các yếu tố thuộc kiến trúc
thượng tầng đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế. Chủ nghĩa duy vật lịch
sử khẳng đinh, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh trong quá trình của cơ sở
kinh tế mới- mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế, mới có thể thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế
khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Quá trình đó phát triển
phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sở hạ tầng càng có hiệu quả.
Nếu tác động ngược lại, nó sẽ có tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển
kinh tế và phát triển xã hội trong một phạm vi và mức độ nhất định. Tất nhiên sự kìm hãm
chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế nhưng
không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, nhân
tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng
kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm muộn, bằng cách này hay cách khác thì kiến trúc
thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để tiếp tục thúc
đẩy kinh tế phát triển.

5


Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc áp dụng lí
luận cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng hiện nay.

II.

Bước vào giai đoạn đổi mới, Đảng ta khẳng định là phải đổi mới về cả kinh tế, chính
trị, văn hóa và xã hội. Từng bước nâng cao đời sống của nhân dân dựa trên nền tảng tư
tưởng: “lấy dân làm gốc”. Phát huy sức mạnh của dân tộc và nhà Nước Việt Nam xã hội

chủ nghĩa. Vận dụng triệt để tư tưởng Mác-Lenin trong lí luận cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Cụ thể là:
1.

Về lĩnh vực kinh tế:
Kinh tế nước ta trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến đổi, chịu sự chi phối mạnh mẽ
của Nhà nước, chính quyền. Ta có thể chia kinh tế ra làm 2 giai đoạn chính như sau để
hiểu rõ hơn về sự chuyển đổi rõ rệt của những kiến trúc thượng tầng mới mặc dù vẫn còn
giữ lại chút tàn dư của kiến trúc thượng tầng cũ:



Nền kinh tế bao cấp 1975-1986: (kinh tế kế hoạch hóa tập trung)
Trước năm 1986, kinh tế Việt Nam là kinh tế bao cấp. Thời bao cấp là tên gọi được
sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới
nền kinh tế kế hoạch hóa một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Hàng
hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, hàng hóa không được mua bán tự do
trên thị trường, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa
phương khác. Phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được
thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. Lương đôi
khi cũng được trả bằng hiện vật.
Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác
dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào mục đích chủ yếu
trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo xu
hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm
tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không
kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền kinh tế
thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ
những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong

đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
6


Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta
xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi
nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu, coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho
kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu.
Mặc dù chế độ bao cấp đã tồn tại ở miền Bắc từ trước năm 1975, song thời kỳ bao
cấp thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu
năm 1976 đến cuối năm 1986, tức là trước thời kỳ Đổi mới. Đây được coi như một giai
đoạn thất bại và tù đọng nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 20.


Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa 1986 đến nay:
Thời kì sau năm 1986 còn được gọi là thời kì Đổi mới. Năm 1986, do nhận thấy
những bất cập của nền kinh tế bao cấp, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã quyết định
nước Việt Nam chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mở cửa cho các
doanh nghiệp, mở rộng giao lưu kinh tế và hợp tác quốc tế ... Và đổi mới kinh tế được
thực hiện trước tiên.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ
trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả
hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng
cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi
nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy
về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém
hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh

tranh kém sẽ bị đào thải. Nhưng do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt
trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ,
dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện
tượng thất nghiệp, lạm phát. Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường
hoàn hảo, cũng như không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh
tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị
trường nhiều hay ít.

7


Tuy nhiên, không thể phủ nhận tính đúng đắn của Đảng ta khi thay đổi chủ trương
hội nhập và mở cửa. Trong những năm đầu của quá trình đổi mới Việt nam đã thu được
những thành công về kinh tế đáng kể đó là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao và kim ngạch xuất
khẩu tăng mạnh. Thương mại chiếm tới 51% của GDP. Nhưng đồng thời từ vài năm nay
những nổi cộm về cơ cấu cũng thể hiện rõ và đã có những biện pháp khắc phục dần như
chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước làm ăn không có hiệu quả, cải tổ lĩnh vực Tài
chính và Ngân hàng, xây dựng một cơ chế hành chính có hiệu quả và một nhà nước Pháp
quyền.
Đảng và Chính phủ cũng nhận thấy rõ ràng rằng không có sự phát triển
hiệu quả của thành phần kinh tế tư nhân thì mục đích tăng trưởng và tạo công ăn
việc làm sẽ không thể đạt được. Từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực đến nay số lượng
các doanh nghiệp tư nhân đăng ký đã tăng lên gấp 3 lần (200 000 doanh nghiệp) và tạo ra
hàng trăm chỗ làm việc mới.
Nhận thức mới dẫn đến sự thay đổi lớn. Tuy kiến trúc thượng tầng cũ vẫn còn tồn tại
chút ít nhưng sự vận động không ngừng của cơ sở hạ tầng tiến bộ dự báo đà phát triển lớn
mạnh của kinh tế nước ta trong tương lai.
2.

Về lĩnh vực chính trị:

Đảng ta khẳng định đổi mới là một quá trình, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, trước hết là
đổi mới tư duy kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Phải tập trung đổi
mới kinh tế trước hết, vì có đổi mới thành công về kinh tế mới tạo được điều kiện cơ bản
để tiến hành đổi mới hệ thống chính trị thuận lợi. Mặt khác, nếu không đổi mới hệ thống
chính trị, thì đổi mới kinh tế sẽ gặp trở ngại. Hệ thống chính trị được đổi mới kịp thời,
phù hợp sẽ là điều kiện quan trọng để thúc đẩy đổi mới và phát triển kinh tế. Như vậy, đổi
mới hệ thống chính trị là đáp ứng yêu cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Đảng ta
khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở nền tảng của
tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.

8


Trên con đường xây dựng nhà nước XHCN, Đại hội Đảng lần thứ VI được tổ chức
vào tháng 12-1986 đã xác định đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Từ xuất phát điểm
rất thấp về kinh tế, lại chịu hậu quả từ các cuộc chiến tranh hết sức nặng nề và lâu dài,
nhân dân ta phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược “vừa thực hiện nhiệm vụ
dân tộc vừa làm nghĩa vụ quốc tế” phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản, cấp bách là
ổn định và cải thiện đời sống, đồng thời để xây dựng đất nước theo hướng XHCN và củng
cố quốc phòng an ninh nhằm chống lại các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Xây
dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực thuộc về
nhân dân. Các tổ chức thiết chế, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa là vì một mục tiêu chung, lợi ích chung, hướng tới mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trong quản lí kinh tế-xã hội và mọi lĩnh vực

hoạt động khác. Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị-xã hội không tồn tại vì
mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, vì lợi ích và quyền lực của nhân dân lao động.
3.

Về lĩnh vực văn hóa:
Văn hoá là một trong những vấn đề luôn được nhà nước quan tâm và chú trọng. Đất
nước chỉ phát triển bền vững khi các mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội đều phát
triển.Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ
qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con
người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá
trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con
người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành
động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Bước vào thế kỉ XXI với xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá Việt Nam cũng không
phải một ngoại lệ. Thành tựu vượt bậc của khoa học kỹ thuật của nhân loại bên cạnh sự
phát triển sốt dẻo của nền kinh tế thị trường đã làm cho thế giới nhỏ lại và các dân tộc với
nền văn hóa khác biệt có dịp tiếp cận với nhau dễ dàng và thường xuyên hơn. Trong thời
đại hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, mỗi một nền văn hoá, mỗi một quốc gia không thể
tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài. Nền văn hóa lạc hậu, không cởi mở chắc chắn
không đủ khả năng giúp con người vượt qua ngưỡng của sự chậm phát triển do nó cản trở
sự đồng thuận trong nhận thức của cộng đồng. Đã đến lúc các cộng đồng văn hóa cá biệt
phải nhận ra rằng, cơ hội chắc chắn sẽ đến từ việc nâng cao tính mở của nền văn hóa vì
9


mở cửa về văn hóa sẽ giúp một cộng đồng nâng cao năng lực thu nhận các giá trị tiến bộ
và loại bỏ những gì lạc hậu và cản trở sự phát triển, cũng tức là xúc tiến sự đồng thuận
trong việc vượt qua những khó khăn về nhận thức và hiện thực hóa các cơ hội phát triển
của cộng đồng.

Trong công cuộc xây dựng đất nước Đảng đã đề ra nhiều chủ trương quan trọng, một
trong những chủ trương đó là: “Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”, chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh thần cao
đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ; kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh
hoa căn hoá của nhân loại; chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội.

Kết luận: Trong giai đoạn hiện nay cần phải nắm vững phép biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng để vận dụng vào đời sống và xã hội. Kết hợp giữa tư tưởng
và sáng tạo của đường lối chính sách của Đảng nhằm xây dựng một xã hội: “tự do-công
bằng-dân chủ-văn minh.” Tin tưởng rằng: với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta thì đất nước ta sẽ sớm trở thành một cường quốc lớn mạnh và
phồn vinh.

10



×