Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Chế định bảo vệ môi trường biển trong UNCLOS 1982

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.73 KB, 7 trang )

CHẾ ĐỊNH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG BIỂN TRONG CÔNG ƯỚC CỦA
LHQ VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982
Đặt vấn đề:
Biển đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội cũng như sự tồn
tại, phát triển của loài người. Tuy nhiên, do áp lực của việc phát triển kinh tế, sự
gia tăng dân số… nên biển đang bị suy thoái và ô nhiễm nghiêm trọng từ những
hoạt động ngày càng gia tăng của con người, môi trường biển đang ngày càng bị
hủy hoại nghiêm trọng. Muốn phát triển bền vững nhất thiết phải gìn giữ, bảo vệ
tốt môi trường biển, đây là vấn đề sống còn và cấp bách đối với loài người, ảnh
hưởng trực tiếp, sâu sắc đến đời sống, kinh tế, sự phát triển tồn tại của từng quốc
gia, dân tộc.
Nhận thức được vấn đề này, các quốc gia trên thế giới đã cùng nhau ký kết
một loạt các Điều ước quốc tế nhằm xây dựng cơ sở pháp lý, đặt ra các quy tắc,
nguyên tắc và các nghĩa vụ quy định trách nhiệm của các bên trong gìn giữ, bảo
vệ môi trường biển như:
- Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS).
- Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78).
- Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng con người trên biển 1974
(SOLAS).
- Công ước quốc tế sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với việc xử lý ô nhiễm
dầu năm 1990 (OPRC).
- Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển do chất thải và những vật liệu khác
(London 1972).
- Công ước về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải nguy hại
và việc tiêu hủy chúng (Basel 1989).
- Công ước về can thiệp ngoài biển cả trong các trường hợp sự cố ô nhiễm
dầu năm 1969 và Nghị định thư liên quan đến việc can thiệp ngoài biển cả trong
các trường hợp ô nhiễm do các chất khác không phải dầu năm 1973 (Công ước
can thiệp).
- Công ước về cứu hộ năm 1989
- Công ước về trách nhiệm dân sự đối với các tổn thất ô nhiễm biển do dầu


năm 1969 (CLC 1969), Công ước quốc tế về thiết lập quỹ quốc tế đền bù các tổn
thất ô nhiễm biển do dầu năm 1971 (FUND 1971), các Công ước sửa đổi CLC
1992 và FC 1992.
- Công ước về trách nhiệm và bồi thường thiệt hại gắn liền với việc vận
chuyển bằng đường biển các chất nguy hiểm và độc hại 1996 (HNS).
- Công ước quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu,
1969.
- Công ước quốc tế liên quan tới can thiệp vào các biểu vĩ độ cao trong
trường hợp thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969.
- Công ước quốc tế về các hệ thống chống hà của tàu năm 2001 (AFS
2001)
- Công ước quốc tế về kiểm soát và quản lý nước dằn và cặn nước dằn tàu
năm 2004 (BWM 2004)


- Công ước quốc tế Hồng Kông về tái sinh tàu an toàn, thân thiện môi
trường năm 2009 (SR 2009)…
Trong số các văn kiện quốc tế đó, Công ước Luật biển năm 1982 được xem
như văn kiện mang tính toàn diện về việc gìn giữ, bảo vệ môi trường biển.
Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 (sau đây gọi tắt là
UNCLOS 1982 hoặc Công ước) ra đời như là bản Hiến chương của thế giới về
Đại dương. Công ước đã hệ thống hoá và pháp điển hoá các quy phạm và
nguyên tắc của luật biển quốc tế, tạo các khuôn khổ pháp lý, góp phần thúc đẩy
các hoạt động khai thác biển, đại dương một cách hòa bình, công bằng, ổn định
và hiệu quả, vì hòa bình và thịnh vượng chung của nhân loại. Cùng với các quy
định về việc xác định quy chế pháp lý của các vùng biển, quyền, nghĩa vụ của
các quốc gia ven biển và các quốc gia khác, các cơ chế giải quyết tranh chấp liên
quan đến việc khai thác, sử dụng biển, Công ước cũng đã xây dựng và quy định
một khung pháp lý chung điều chỉnh việc bảo vệ, gìn giữ môi trường biển nhằm
khai thác, sử dụng biển một cách bền vững phục vụ nhân loại.

Chúng ta cùng tìm hiểu về chế định bảo vệ, gìn giữ môi trường biển trong
UNCLOS 1982.
I. Quy định của Công ước về bảo vệ, gìn giữ môi trường biển
1. Một số khái niệm cơ bản
(Các điều luật trong Công ước quy định về bảo vệ, giữ gìn MTB)
Xác định rõ tầm quan trọng của việc Bảo vệ và gìn giữ môi trương biển,
Công ước đã dành hẳn một Chương (XII) gồm 11 mục 46 điều (từ Điều 192 đến
điều 237) để quy định về quyền, nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo vệ gìn
giữ môi trường biển cũng như các biện pháp mà các quốc gia phải thực hiện
hoặc có thể thực hiện để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục hậu quả ô nhiễm
môi trường biển. Bên cạnh đó, tại các phần quy định về chế độ pháp lý của các
vùng biển, Công ước cũng quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của các quốc gia liên
quan trong việc bảo vệ, gìn giữ môi trương biển trong khi khai thác, sử dụng các
vùng biển đó. Cụ thể:
Khoản 4, 5 Điều 1.
Các Điều 56, 61-70 quy định về trách nhiệm của các quốc gia trong việc
bảo vệ, gìn giữ môi trường biển trong việc thực hiện các quyền, quyền chủ
quyền trong vùng Đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone – EEZ).
Mục 2, Phần VII, các điều từ 116 – 120: Bảo tồn và quản lý các tài nguyên
sinh vật của biển cả.
Các điều 140, 145 quy định về trách nhiệm của các bên có liên quan trong
việc bảo vệ, gìn giữ môi trường biển trong việc khai thác Vùng (Area).
- Môi trường biển, Ô nhiễm môi trường biển và Bảo vệ, gìn giữ môi
trường biển
Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu xem thế nào là Môi trường biển và Ô
nhiễm môi trường biển theo UNCLOS 1982.
Công ước không quy định thế nào là Môi trường biển mà chỉ quy định thế
nào là Ô nhiễm môi trường biển:
Khoản 4, Điều 1 Công ước quy định:



“Ô nhiễm môi trường biển” là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa
các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông,
khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn
lợi sinh vật, và đến hệ động, thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con
người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và
các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước
biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển.
(“Pollution of the marine environment” means the introduction by man,
directly or indirectly, of substances or is energy into the marine enviroment,
including estuaries, which results or is likely to result in such deleterious effects
as harm to living resources and marine life, hazard to human health, hindrance
to marine activities, including fishing and other legitimate uses of the sea,
impairment for use of sea water and reduction of amenities).
Công ước đã liệt kê và chỉ ra 06 nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển
(từ Điều 207 đến Điều 212). Cụ thể:
- Ô nhiễm bắt nguồn từ đất liền kể cả các ô nhiễm xuất phát từ các dòng
sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải đổ công nghiệp.
- Ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán
quốc gia ven biển, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các công trình thiết bị
thuộc quyền tài phán của họ.
- Ô nhiễm do các hoạt động trong vùng (tức vùng đáy biển di sản chung
của loài người) lan truyền tới.
- Ô nhiễm do sự nhấn chìm và trút bỏ chất thải.
- Ô nhiễm do hoạt động của các loại tàu thuyền và tai nạn tàu thuyền trên
biển.
- Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển
Về khái niệm Môi trường biển:
Có một thực tế khi nghiên cứu vấn đề này chúng ta có thể thấy, Môi trường
biển là đối tượng nghiên cứu và điều chỉnh của rất nhiều các văn kiện pháp lý

quốc tế và cả trong pháp luật Việt Nam nhưng chưa có văn bản nào đưa ra một
khái niệm đầy đủ về Môi trường biển. Trong Luật Bảo vệ môi trường của VN
năm 2014 chỉ đưa ra khái niệm về môi trường nói chung, trong Luật Biển Việt
Nam năm 2012 hay trong luật bảo vệ tài nguyên nước năm 2012 cũng không có
định nghĩa rõ ràng về Môi trường biển mà chỉ nêu ra một số biện pháp trong
việc gìn giữ và bảo vệ môi trường biển. Điều này sẽ là sự thiếu sót khi nghiên
cứu, hoạch định chính sách, biện pháp trong gìn giữ, bảo vệ môi trường biển
trong khi chúng ta chưa có sự nhận thức thống nhất và đầy đủ về đối tượng mà
ta cần bảo vệ. Trong phạm vi bài thuyết trình, Nhóm sẽ ko đi sâu tìm hiểu và xây
dựng một khái niệm về Môi trường biển mà chỉ xem xét các thành phần của Môi
trường biển theo quy định của Công ước 1982.
Trong Công ước Luật biển 1982, tuy không đề cập trực tiếp đến khái niệm
Môi trường biển, nhưng qua nghiên cứu đối tượng của các hoạt động gây ô
nhiễm môi trương biển, chúng ta có thể thấy “Môi trường biển” bao gồm “các
tài nguyên sinh vật (bao gồm cả hệ động, thực vật biển), các hệ sinh thái biển và
chất lượng nước biển, cảnh quan biển”.


Do đó, bảo vệ, gìn giữ môi trường biển là bảo tồn và sử dụng hợp lý tài
nguyên sinh vật biển; kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường biển và phòng ngừa,
ứng phó sự cố môi trường trên biển.
Việc gìn giữ, bảo vệ môi trường biển không chỉ là việc ngăn chặn, xử lý Ô
nhiễm môi trường biển mà còn bao gồm cả các hoạt động bảo tồn, khai thác và
sử dụng các tài nguyên từ biển. Tuy nhiên, việc ngăn chặn và xử lý vấn đề Ô
nhiễm môi trường biển là quan trọng nhất và cần có sự phối hợp đồng bộ của
nhiều quốc gia, tổ chức liên quan.
II. Các quy định cụ thể về bảo vệ môi trường biển
Để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, Công ước Luật biển 1982 đã quy
định “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển” (Đ192),
đồng thời quy định 02 nhóm các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên

trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, đó là Nhóm các quy định
nhằm Phòng ngừa, ngặn chặn và xử lý Ô nhiễm môi trường biển và Nhóm các
quy định trong việc bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên sinh vật biển.
1. Về quy định phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý Ô nhiễm môi trường
biển
Việc phòng ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển được Công
ước quy định tại các điều 140, 145, các điều từ 193 đến điều 237 và có thể khái
quát thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể sau:
- Các quốc gia ven biển phải xác định các nguồn ô nhiễm của mình, áp
dụng các biện pháp ngăn ngừa, kiểm soát chúng. Các quốc gia không được đùn
đẩy thiệt hại của các nguy cơ ô nhiễm và không được thay thế một kiểu ô nhiễm
này bằng một kiểu ô nhiễm khác.
- Các quốc gia ven biển phải có trách nhiệm đưa ra các biện pháp chống lại
ô nhiễm môi trường biển nảy sinh từ việc sử dụng các kỹ thuật trong khuôn khổ
quyền tài phán hay dưới sự kiểm soát của mình, hoặc do du nhập cố ý hay vô
tình các loài ngoại lai hoặc mới vào một bộ phận môi trường biển gây ra ở đó
những thay đổi đáng kể và có hại và nó cũng bao gồm các ảnh hưởng hoặc các
biện pháp trong việc bảo vệ hệ sinh thái hiếm hoi và đe dọa điều kiện cư trú của
các loài sinh vật biển khác.
- Các quốc gia được yêu cầu xây dựng các kế hoạch khẩn cấp chống ô
nhiễm để đối phó với những tai nạn gây ra ô nhiễm biển trong các vùng biển
thuộc quyền tài phán của họ. Các điều khoản về giám sát và đánh giá môi trường
đặt các quốc gia có nghĩa vụ cần cố gắng hết sức mình trong việc giám sát và
đánh giá các ảnh hưởng môi trường của các hoạt động biển được tiến hành dưới
quyền tài phán của các quốc gia đó. Họ cũng có nghĩa vụ phải hành động phù
hợp nhằm giảm bớt hay ngăn ngừa ô nhiễm có thể xảy ra từ các hoạt động như
vậy.
- Các luật, quy định và các biện pháp của các quốc gia thông qua không
được kém hiệu quả hơn các nguyên tắc và quy phạm quốc tế hay các tập quán và
thủ tục đã được kiến nghị có tính chất quốc tế. Các quốc gia phải quan tâm làm

sao cho luật trong nước của mình có những hình thức tố tụng cho phép thu được
sự đền bù nhanh chóng và thích đáng, hay sự bồi thường khác đối với những


thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường biển do cá nhân, hay pháp nhân thuộc
quyền tái phán của mình gây ra.
- Các quốc gia cũng được yêu cầu bảo đảm cho tàu mang cờ nước họ, hoạt
động ở trong nước cũng như ở ngoài nước, đáp ứng đầy đủ các luật lệ và tiêu
chuẩn quốc tế thích hợp. Quốc gia mà tàu mang cờ được yêu cầu tiến hành điều
tra mọi vi phạm luật lệ về ô nhiễm biển do tàu đó gây ra. Tất cả tàu thuyền được
yêu cầu phải có chứng từ chứng minh điều kiện an toàn phù hợp với các tiêu
chuẩn quốc tế về thiết kế, đóng, trang bị và thuyền viên và tính hiệu quả của
chúng trong ngăn ngừa, giảm bớt và kiểm soát ô nhiễm. Các quốc gia cần tiến
hành kiểm tra định kỳ tàu thuyền mang cờ nước mình để bảo đảm rằng chúng
đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Các quốc gia khi đặt các điều kiện đặc biệt
cho tàu thuyền nước ngoài đi vào các cảng hay nội thủy của mình hoặc công
trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi, cần phải công bố đúng thủ tục về các điều
kiện này và phải thông báo cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
- Các quốc gia phải có nghĩa vụ thông báo cho các quốc gia khác về nguy
cơ bị ô nhiễm lan tràn đến và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để kịp thời có
những biện pháp ngăn chặn và bảo vệ.
- Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế
liên quan theo khả năng của mình, để loại trừ ảnh hưởng của ô nhiễm và ngăn
ngừa và giảm đến mức tối thiểu những thiệt hại do ô nhiễm gây ra.
- Riêng đối với các hoạt động tại Vùng, tại điều 145, Công ước quy định
việc thi hành các biện pháp cần thiết để bảo vệ có hiệu quả môi trường biển,
chống lại các tác hại có thể do các hoạt động được tiến hành trong Vùng gây ra.
Cơ quan Quyền lực đáy đại dương định ra các quy tắc, quy trình, thủ tục cho các
hoạt động trong Vùng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển, kể cả vùng duyên hải và đối phó với các nguy cơ khác đe dọa môi trường

biển, các biến động về tình trạng cân bằng sinh thái môi trường biển; bảo vệ và
bảo tồn tài nguyên nhiên của Vùng, phòng ngừa thiệt hại đối với hệ động, thực
vật ở biển.
2. Các quy định về việc bảo tồn và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
sinh vật biển
Bên cạnh việc quy định nghĩa vụ của các quốc gia trong việc ngăn chặn, xử
lý các nguồn gây ô nhiễm môi trương biển, Công ước Luật biển cũng quy định
về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia trong việc gìn giữ, bảo vệ hệ sinh thái
biển, các nguồn tài nguyên sinh vật, hệ động, thực vật biển. Nghĩa vụ bảo tồn và
sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sinh vật biển của các quốc gia gắn liền với
với việc thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền và các quyền tự do trên các vùng
biển mà trực tiếp nhất ở đây là vùng Đặc quyền kinh tế và Biển cả.
2.1. Vùng Đặc quyền kinh tế
Đúng như tên gọi, vùng Đặc quyền kinh tế được coi là vùng biển có quy
chế pháp lý đặc biệt. Đây là vùng bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên sinh vật,
phi sinh vật của quốc gia ven biển mà tại đó, các quốc gia ven biển có thẩm
quyền đặc biệt nhằm kiểm soát, quy định việc khai thác và bảo vệ các tài nguyên
thiên nhiên và ngăn ngừa, đấu tránh chống lại ô nhiễm môi trường biển, bên


cạnh đó, các quyền tự do hàng hải, hàng không, tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm
vẫn được bảo lưu.
Do những đặc thù như trên, bên cạnh việc quy định quyền của quốc gia ven
biển và các quốc gia khác trong các hoạt động khai thác, sử dụng vùng Đặc
quyền kinh tế vì mục đích kinh tế, Công ước cũng quy định nghĩa vụ của các
quốc gia trong việc gìn giữ, bảo vệ môi trường biển, đặc biệt là bảo vệ và gìn
giữ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái của biển (Các Điều từ 61 –
70). Cụ thể:
- Quốc gia ven biển ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được đối
với các tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc quyền kinh tế, xác định khả năng

khai thác, đánh bắt của mình, đặt ra các quy định về đánh bắt trong vùng như
chủng loại, kích cỡ, tuổi của cá và các loại sinh vật được khai thác, các tiêu
chuẩn về tàu thuyền, phương tiện, công cụ khai thác...
- Quốc gia ven biển thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn, quản lý
nhằm làm duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình
không bị ảnh hưởng do khai thác quá mức, duy trì và khôi phục các đàn cá. Để
làm điều này quốc gia ven biển phải dựa vào căn cứ khoa học đáng tin cậy.
- Quốc gia khác có nghĩa vụ phải chấp hành các quy định về đánh bắt và
khai thác tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác.
- Các quốc gia (ven biển và không ven biển) phải có nghĩa vụ có trách
nhiệm trong việc duy trì, bảo tồn đối với các loài cá, các đàn cá di cư, các loài có
vú ở biển, các loài định cư.
Tại phán quyết của Tòa trọng tài về luật biển theo phụ lục VII trong vụ kiện
giữa PLP và TQ, tòa đã tuyên bố TQ vi phạm các quy định của Công ước về bảo
vệ môi trường biển khi xây dựng, cải tạo các bãi đá trên khu vực Trường sa, phá
hủy các rặng san hô, làm thay đổi nghiêm trọng hệ sinh thái biển.
2.2. Biển cả
Biển cả là vùng biển quốc tế mà ở đó, tất cả các quốc gia được hưởng mọi
quyền tự do nhằm khai thác, sử dụng biển. Cũng chính vì các quốc gia được
thực hiện các quyền tự do như vậy, Công ước đã quy định về nghĩa vụ của các
quốc gia trong việc gìn giữ, bảo vệ môi trường biển nhằm gắn trách nhiệm của
các quốc gia trong việc khai thác, sử dụng biển.
Đối với Biển cả, Công ước đã dành riêng Mục 2, Phần VII (Điều từ 116 –
120) để quy định về việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật của biển cả.
Theo đó, tất cả các quốc gia có nghĩa vụ định ra các biện pháp hoặc hợp tác với
quốc gia khác định ra các biện pháp có thể cần thiết để áp dụng đối với công dân
của mình nhằm bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả; quan tâm đến việc khôi
phục hay duy trì các đàn, các loài quần hợp, các loài có vú, chú ý đến các yếu tố
sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả nhu cầu đặc biệt của các quốc gia đang
phát triển và có tính đến những phương pháp đánh bắt, đến quan hệ hỗ tương

giữa các đàn và các kiến nghị chung.
Kêt luận:
Biển có vị trí, vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội loài người. Gìn
giữ, bảo vệ môi trường biển là bảo vệ môi trường sống của nhân loại. Công ước
luật biển năm 1982 với tư cách là bản hiến chương về đại dương đã quy định


những khung pháp lý cơ bản về việc gìn giữ, bảo vệ môi trường biển. Trên cơ sở
đó, các quốc gia cụ thể hóa trong nội luật hoặc xây dựng các Điều ước quốc tế
nhằm chung tay xây dựng và bảo tồn tài sản, di sản chung của loài người. Thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường biển là thực hiện nghĩa vụ pháp lý quốc tế, đó
cũng là thể hiện sự quản lý Nhà nước và thực thi chủ quyền quốc gia đối với
biển.



×