Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Kiểm soát thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do cục thuế Thành phố Đà Nẵng thực hiện.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.08 KB, 96 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

BÙI CÔNG PHƯƠNG


ii

MỤC LỤC
Đề tài: “ Kiểm soát thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại
các tổ chức chi trả thu nhập do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện” đã tập trung
làm rõ một số vấn đề sau: ....................................................................................86


iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TNCN
TCCT
KSNB
NNT
ĐTNT
ĐTNN
HCSN
NN
TNCT


TNTT
MST
ĐKT
KKT&KTT
TTĐB
XNK
GTGT
TNDN
TBT
NSNN
SXKD
TP
UBND

: Thu nhập cá nhân
: Tổ chức chi trả
: Kiểm soát nội bộ
: Người nộp thuế
: Đối tượng nộp thuế
: Đầu tư nước ngoài
: Hành chính sự nghiệp
: Nhà nước
: Thu nhập chịu thuế
: Thu nhập tính thuế
: Mã số thuế
: Đăng ký thuế
: Kê khai và kế toán thuế
: Tiêu thụ đặc biệt
: Xuất nhập khẩu
: Giá trị gia tăng

: Thu nhập doanh nghiệp
: Thông báo thuế
: Ngân sách nhà nước
: Sản xuất kinh doanh
: Thành phố
: Uỷ Ban nhân dân


iv

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Số hiệu
hình vẽ
1.1
1.2
1.3
2.1
2.2
2.3
3.1
3.2

Tên hình vẽ
Sơ đồ mối quan hệ công việc của Quy trình quản lý thuế
Sơ đồ quy trình quản lý thuế TNCN
Sơ đồ quy trình kiểm soát thuế TNCN
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của Cục Thuế TP Đà Nẵng
Sơ đồ quy trình hoàn thuế Thu nhập cá nhân
Sơ đồ một cuộc thanh tra, kiểm tra tại tổ chức chi trả
Sơ đồ hoàn thiện quy trình kiểm tra thuế TNCN

Sơ đồ hoàn thiện quy trình thanh tra thuế TNCN

Trang
21
22
27
33
40
42
66
67


1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là một hình thức thu quan trọng của
Ngân sách Nhà nước (NSNN). Hiện nay, ở các nước phát triển tỷ trọng thu
ngân sách của thuế TNCN chiếm rất cao từ 30% đến 40%, có nước lên đến
50% như Mỹ, Nhật, Canada…, các nước đang phát triển chiếm từ 15% - 30%
như Thái Lan, Ma-lai-xia… Ở nước ta, Thuế TNCN bắt đầu được áp dụng từ
năm 1991 với tên gọi là thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Để phù
hợp với điều kiện của từng giai đoạn lịch sử, từ đó đến nay Pháp lệnh đã
nhiều lần được sửa đổi bổ sung. Và cụ thể nhất là tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội
khóa XII, Luật thuế TNCN đã được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2009. Số thu về thuế TNCN ở nước ta hiện nay chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng thu NSNN (khoảng 5%). Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế
phát triển và hội nhập nhanh và mạnh như hiện nay, thu nhập của mọi người
dân nói chung, các cá nhân làm công ăn lương nói riêng có xu hướng ngày

càng tăng, điều đó cho phép chúng ta khẳng định rằng, tỷ trọng thuế TNCN
trong tổng thu NSNN sẽ tăng lên trong tương lai là điều chắc chắn.
Tại Cục Thuế TP Đà Nẵng, số thu về thuế TNCN có xu hướng tăng cao
qua từng năm. Nếu năm 2007 thuế TNCN chiếm 1,2% tổng số thu ngân sách
thì đến năm 2010 thuế TNCN chiếm tỷ trọng khoảng 4,67% trong tổng thu
NSNN. Có thể thấy, đây là tỉ lệ không cao, trong khi tiềm năng của nguồn thu
thuế TNCN trên địa bàn là đáng kể. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thất
thu trong lĩnh vực này, đó là: Hiện tượng trốn thuế, lách thuế còn khá phổ
biến đối với các cá nhân có nhiều nguồn thu nhập, các cá nhân hành nghề tự
do, các cá nhân là những chuyên gia nước ngoài hoạt động tại các BQL dự án
đầu tư trong nước và ngoài nước…; Công tác quản lý thuế nói chung, thuế


2

TNCN nói riêng còn nhiều bất cập, hiệu quả quản lý thuế còn yếu; Công tác
tuyên truyền chính sách thuế đến mọi tầng lớp dân cư chưa kịp thời, thiếu
đồng bộ; công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế (NNT) là công cụ chủ
yếu để kiểm soát thuế chưa đạt hiệu quả như mong muốn; mặt khác, Thuế
TNCN là sắc thuế còn khá mới mẻ, các thủ tục kiểm soát còn nhiều bất cập
dẫn đến công tác kiểm soát thuế TNCN chưa thật sự hiệu quả.
Xuất phát từ chức năng, vai trò của thuế TNCN cũng như tính cấp thiết
của việc tăng cường công tác kiểm soát thuế TNCN tại TP Đà Nẵng, tác giả
đã chọn đề tài:“ Kiểm soát thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
công tại các tổ chức chi trả thu nhập do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện”
làm đề tài nghiên cứu để viết luận văn tốt nghiệp cao học.
2. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Thuế TNCN là sắc thuế mới ban hành, diện điều chỉnh của sắc thuế này
rất rộng, đối tượng điều chỉnh đa dạng và phức tạp, điều đó đặt ra cho nhà
quản lý hàng loạt các câu hỏi, đó là: quản lý đối tượng nộp thuế ra sao? Theo

dõi và quản lý thu nhập như thế nào? kiểm soát việc giảm trừ gia cảnh cho
người phụ thuộc của các cá nhân có thu nhập bằng cách nào? Làm gì để mọi
tầng lớp dân cư trong xã hội với trình độ khác nhau có thể tiếp cận và thực
hiệnchính sách thuế TNCN một cách dễ dàng nhất? Công tác thanh tra, kiểm
tra giám sát như thế nào vừa gọn nhẹ vừa hiệu quả…
Các vấn đề nêu trên được khá nhiều người quan tâm và trên thực tế đã
có một số công trình nghiên cứu nhằm góp phần làm cho chính sách thuế
TNCN hoàn thiện hơn, có thể nêu ra đây một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu mà tác giả đã có điều kiện đọc và tham khảo, đó là:
1. Công trình nghiên cứu với đề tài: “Tăng cường kiểm soát nguồn
thu Thuế TNCN trên địa bàn Tỉnh Phú Yên” của tác giả Nguyễn Thị Kim
Trọng - Đại học Đà Nẵng.


3

2. Công trình nghiên cứu với đề tài:“Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở
Việt Nam trong điều kiện hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Long - Đại học
Tài chính Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích, đánh giá công tác
kiểm soát nguồn thu thuế TNCN, Phân tích đánh giá tính tuân thủ của người
nộp thuế trong điều kiện thực hiện chính sách thuế TNCN. Song để đi sâu
nghiên cứu, phân tích đánh giá quá trình kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương,
tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập thì chưa có công trình nghiên cứu
nào đi sâu một cách cụ thể.
Xuất phát từ tình hình trên, tác giả đi vào nghiên cứu công tác kiểm
soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả do Cục Thuế
TP Đà Nẵng thực hiện, với mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện chính
sách thuế TNCN trong thời gian tiếp theo.
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Trên cơ sở lý luận về kiểm soát quản lý, kiểm soát thuế TNCN, luận
văn đi sâu nghiên cứu thực trạng kiểm soát thuế TNCN đối với thu nhập từ
tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực
hiện, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm
soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công, tăng cường chống thất thu NSNN về
thuế TNCN trên địa bàn TP Đà Nẵng trong thời gian đến.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Công tác kiểm soát
thuế TNCN của Cục Thuế TP Đà Nẵng đối với người nộp thuế TNCN là các
cá nhân có thu nhập từ tiền lương tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do
Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện. Trong đó đi sâu nghiên cứu hoạt động kiểm
soát của từng khâu trong quy trình quản lý, từ đăng ký thuế, khai thuế, nộp
thuế đến quyết toán thuế, hoàn thuế và công tác thanh tra, kiểm tra…


4

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở Phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn vận dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp đối chiếu, so sánh, mô tả,
thống kê trong quá trình nghiên cứu để khảo sát thực trạng công tác kiểm soát
thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả do Cục Thuế TP Đà
Nẵng thực hiện. Bên cạnh đó luận văn đã sử dụng phương pháp phỏng vấn,
khảo sát kinh nghiệm thực tế, cũng như nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, trên cơ sở
đó đề ra những giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát phù hợp với điều kiện
thực tế hiện nay.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn làm rõ ý nghĩa của công tác kiểm soát thuế TNCN nói chung,
thuế thu nhập cá nhân từ tiền công, tiền lương nói riêng. Luận văn nêu lên
thực trạng của hoạt động kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tại

các tổ chức chi trả thu nhập do Cục thuế TP Đà Nẵng thực hiện, đồng thời
đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
này tại Cục Thuế TP Đà Nẵng.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục các
bảng biểu và tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát thuế TNCN từ
tiền lương, tiền công.
Chương 2: Thực trạng kiểm soát thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền
lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do Cục Thuế TP Đà Nẵng
thực hiện.
Chương 3: Giải pháp tăng cường kiểm soát thuế TNCN đối với thu
nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do Cục Thuế TP
Đà Nẵng thực hiện.


5

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT
THUẾ TNCN TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT THUẾ
1.1.1. Khái niệm về kiểm soát quản lý
Hoạt động kiểm soát là hoạt động cần thiết trong tất cả các lĩnh vực
hoạt động của con người, bên trong tổ chức cũng như trong toàn bộ xã hội.
Kiểm soát là một chức năng của quản lý, do vậy để hiểu được khái niệm về
kiểm soát, chúng ta cần phải tìm hiểu về quản lý nói chung và quản lý nhà
nước nói riêng.
Quản lý là một quá trình công việc bao gồm hướng dẫn một nhóm, một

tổ chức hoàn thành một mục tiêu xác định. Quản lý không chỉ đảm bảo cho
mọi hoạt động của tổ chức được tiến hành với hiệu suất cao mà còn đảm bảo
cho các đối tượng đó hoạt động theo hướng các mục tiêu đề ra, theo chức
năng được quy định và nhiệm vụ được giao. Như vậy, có thể hiểu quản lý là
một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở
những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Kiểm soát là hoạt động bao gồm các hoạt động giám sát quá trình thực
hiện, so sánh với các tiêu chuẩn và chọn ra cách thức đúng. Bản chất cơ bản
của kiểm soát còn được hiểu rõ hơn trong các giai đoạn chủ yếu của toàn bộ
quá trình quản lý. Quá trình quản lý từ việc lập kế hoạch và xây dựng các mục
tiêu có liên quan. Để đảm bảo các hoạt động, hành động mong muốn và ngăn
ngừa những hành động không mong muốn thì việc kiểm soát là một chức
năng không thể thiếu. Do vậy, kiểm soát không thể tồn tại nếu chúng ta không
có các mục tiêu. Chức năng kiểm soát tồn tại như một “khâu” độc lập của quá
trình quản lý nhưng đồng thời lại là một bộ phận chủ yếu của quá trình đó,


6

chức năng này được thể hiện khác nhau tùy thuộc vào cơ chế kinh tế, cấp
quản lý và loại hình cụ thể.
Tóm lại, Kiểm soát được hiểu là tổng hợp những phương pháp để nắm
bắt và điều hành đối tượng quản lý. Với ý nghĩa đó, kiểm soát có thể hiểu
theo nhiều cách: Cấp trên kiểm soát cấp dưới thông qua chính sách hoặc các
biện pháp cụ thể; Đơn vị này kiểm soát đơn vị khác thông qua những chi phối
đáng kể về quyền sở hữu và lợi ích tương ứng; Nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn
nhau thông qua quy chế và các thủ tục quản lý đã định sẵn.
Quá trình kiểm soát:
- Triển khai các mục tiêu: Xác định mục tiêu cần đạt được;
- Đo lường các kết quả thực hiện theo những mục tiêu đã được xây

dựng để có cơ sở đúng đắn so sánh và phân tích những gì đã thực hiện và có
hành động quản lý phù hợp;
- So sánh thành tích cụ thể với các mục tiêu;
- Phân tích nguyên nhân chênh lệch để tính toán mức độ ảnh hưởng của
mỗi nhân tố. Cần phải xác định nguyên nhân trực tiếp và những nguyên nhân
cơ bản, xác định ảnh hưởng cụ thể của những nhân tố cá biệt quan trọng. Đây
là bước chủ yếu đã sử dụng những kết quả miêu tả trong 3 bước trước;
- Xác định hành động quản lý thích hợp;
- Triển khai và đảm bảo hành động được thực hiện như mong muốn;
- Tiếp tục đánh giá lại: Đây là bước cuối cùng trong quá trình kiểm
soát, và cũng chính là hoạt động kiểm tra tiếp sự đúng đắn của việc xác định
hành động cần thiết trước đây và cách thức tiến hành những hành động đó.
Bước này làm rõ sự liên kết giữa chu kỳ kiểm soát trước với chu kỳ kiểm soát
sau, xác định hành động quản lý tiếp đó. Việc đánh giá sau là một hành động
tiếp tục phản ánh những điều kiện thay đổi, để có thêm kinh nghiệm và biết rõ
hơn tất cả các nhân tố.


7

Mối quan hệ giữa kiểm soát và quá trình quản lý tổng thể:
Như đã đề cập ở trên, chức năng kiểm soát chủ yếu là xem xét tính hiệu
quả của các hành động thực hiện mà nhờ đó các chiến lược được chuyển
thành hành động để đạt các mục tiêu và kết quả đã đặt ra. Hệ thống tiêu chuẩn
pháp lý và kỹ thuật của hoạt động kiểm soát, đó là những chuẩn mực mà
người ta dùng để đối chiếu, xem xét kết quả hay quá trình tác nghiệp. Để đánh
giá, đo lường mức độ thực hiện công việc, người ta thiết lập nhiều dạng tiêu
chuẩn khác nhau như căn cứ vào chất lượng và số lượng công việc, căn cứ
vào đánh giá của các chuyên gia hay của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, cho
phép phát hiện sớm những sai lệch trong quá trình tác nghiệp, từ đó có thể kịp

thời đưa ra những biện pháp chấn chỉnh thích hợp nhằm đạt được mục tiêu,
định hướng đã đề ra.
Dưới góc độ thông tin, kiểm soát là hệ thống phản hồi các thông tin
đánh giá kết quả của quá trình thực thi nhiệm vụ đã đề ra với những người
điều hành, để các nhà điều hành có các điều chỉnh cần thiết cho quá trình tác
nghiệp, tuân thủ theo ý chí của mình hay mục tiêu của hệ thống. Tuy nhiên
việc phản hồi này thực sự có hiệu quả hay không, nhiều khi còn phụ thuộc
vào thời gian mà các thông tin này tới được nhà quản lý và điều hành.
Trong hoạt động của một đơn vị nói riêng hay hoạt động của Nhà nước
nói chung, kiểm soát được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp, mọi ngành,
mọi cá nhân. Mặc dù quy mô và kỹ thuật kiểm soát phụ thuộc vào từng hoạt
động, từng con người cụ thể, song các hoạt động này đều có quan hệ hữu cơ
và hỗ trợ lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau đạt được mục đích đã đề ra. Kiểm
soát trước hết là thông qua việc đối chiếu với hệ thống quy phạm tiêu chuẩn
tác nghiệp, tiến đến là quy trình tác nghiệp, đánh giá mức độ khả thi của tác
vụ; thứ hai là sự kiểm soát của các chức danh có nhiệm vụ kiểm soát trên một
công đoạn nào đó của dây chuyền tác nghiệp.


8

Kiểm soát quản lý đó là việc thực hiện đối chiếu kết quả đạt được với
những quy phạm, quy định chung, với kế hoạch để đánh giá, điều chỉnh làm
cho quá trình tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý một cách có
hiệu quả, hiệu lực hơn, nhằm đạt được mục tiêu định trước.
1.1.2. Phân loại hoạt động kiểm soát
Hoạt động kiểm soát có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau,
tùy theo các tiêu thức khác nhau mà chúng ta có thể phân loại các hoạt động
kiểm soát, cụ thể:
(1) Căn cứ theo nội dung của kiểm soát: kiểm soát hành chính và kiểm

soát kế toán.
- Kiểm soát hành chính: Là tập trung vào các thể thức kiểm tra, nhằm
đảm bảo cho việc điều hành công tác ở đơn vị có nề nếp, nghiêm minh và
hiệu quả. Các thao tác kiểm soát hành chính được thực hiện trên các lĩnh vực
tổ chức và hành chính ở mọi cấp độ như: tuyển chọn nhân viên, xây dựng tác
phong, quy trình làm việc, tổ chức thực hiện các công việc cùng với các thao
tác kiểm soát quá trình chấp hành và mệnh lệnh ở đơn vị.
- Kiểm soát kế toán: kiểm soát thực hiện mục tiêu bảo vệ tài sản và
đảm bảo độ tin cậy của sổ sách tài chính kế toán, kiểm soát phải đảm bảo:
+ Các nghiệp vụ được tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thể của
quản lý.
+ Các nghiệp vụ được ghi sổ là cần thiết để giúp chuẩn bị các báo cáo
tài chính đúng theo quy định và duy trì khả năng hạch toán của tài sản.
+ Các hoạt động đều được ghi nhận vào các thời điểm thích hợp, giúp
cho việc thiết lập thông tin kinh tế tài chính phù hợp với các chuẩn mực kế
toán, thể hiện chính xác, toàn diện nguồn lực hiện có của đơn vị và phải có sự
điều chỉnh khi có những chênh lệch, thay đổi phát sinh.
+ Cung cấp căn cứ và đưa ra quyết định xử lý sai lệch, rủi ro có thể gặp phải.


9

Như vậy kiểm soát kế toán chỉ quan tâm đến hoạt động tài chính của
đơn vị được phản ánh trên các tài liệu kế toán. Trong khi đó kiểm soát quản lý
yêu cầu một phạm vi rộng hơn của các đối tượng kiểm soát theo mục tiêu
quản lý của toàn bộ tổ chức. Tuy nhiên kiểm soát kế toán lại có vai trò là cơ
sở cho kiểm soát quản lý. Các chứng từ kế toán không chỉ là sự thông tin mà
còn là minh chứng pháp lý cho sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế. Từ đó
kiểm soát kế toán có thể hình thành phương pháp tự kiểm soát: đối ứng tài
khoản không chỉ là phương pháp phân loại, phản ánh sự vận động của tài sản

mà còn là phương pháp kiểm tra những quan hệ cân đối cụ thể; tổng hợp - cân
đối kế toán không chỉ cung cấp những thông tin tổng hợp mà còn là phương
pháp kiểm tra kết quả cân đối tổng quát trong thông tin kế toán.
(2) Căn cứ vào mục tiêu của kiểm soát:
Bao gồm các hình thức kiểm soát là: kiểm soát ngăn ngừa, kiểm soát
phát hiện và kiểm soát điều chỉnh
- Kiểm soát ngăn ngừa: Là kiểm soát tập trung vào việc ngăn chặn các
sai phạm hoặc các điều kiện có thể dẫn đến sai phạm. Kiểm soát này thường
được thực hiện trước khi nghiệp vụ xảy ra và thực hiện ngay trong công việc
hàng ngày của nhân viên theo chức năng, phân chia trách nhiệm, giám sát,
kiểm tra tính hợp lý, sự đầy đủ và chính xác.
- Kiểm soát phát hiện: Là kiểm soát tập trung vào việc phát hiện các
gian lận, sai sót, sai lầm và rủi ro trong quá trình tác nghiệp một cách nhanh
chóng, giúp các cấp lãnh đạo có những quyết định xử lý kịp thời, hạn chế tới
mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra. Kiểm soát phát hiện và kiểm soát
ngăn ngừa có quan hệ bổ sung cho nhau trong việc thực hiện các mục tiêu
kiểm soát, do kiểm soát phát hiện thường được thực hiện sau khi quá trình tác
nghiệp đã xảy ra giúp cho việc phát hiện các sai phạm “lọt lưới” kiểm soát
phòng ngừa. Một ý nghĩa quan trọng của kiểm soát phát hiện là sự "răn đe"


10

giúp làm tăng trách nhiệm của nhân viên trong quá trình thực hiện kiểm soát
phòng ngừa.
- Kiểm soát điều chỉnh: Hoạt đông kiểm soát này hướng tới việc cung
cấp những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định điều chỉnh các sai sót
được phát hiện.
(3) Căn cứ vào thời điểm thực hiện trong quá trình tác nghiệp:
Bao gồm các hình thức kiểm soát là: Kiểm soát trước, kiểm soát hiện

hành và kiểm soát sau.
- Kiểm soát trước hay còn gọi là kiểm soát lường trước, kiểm soát
hướng về tương lai. Mục đích của kiểm soát này là nhằm khắc phục độ trễ về
thời gian trong kiểm soát thực hiện, nó tiên liệu những diễn biến có thể xảy ra
trong quá trình tác nghiệp, đề phòng những rủi ro và các khó khăn tiềm ẩn.
Hoạt động kiểm soát này đặc biệt quan trọng, tuy nhiên nó chưa phổ biến về
mặt kỹ thuật và còn rất hạn chế do yêu cầu về con người thực hiện kiểm soát
phải là những người thực sự có trình độ và có nhiều kinh nghiệm thực tế để có
thể tiên liệu trước những rủi ro có thể xảy ra, mặt khác chi phí cho hoạt động
này khá lớn.
- Kiểm soát hiện hành hay còn gọi là kiểm soát tác nghiệp là hoạt động
kiểm soát được tiến hành ngay trong quá trình tác nghiệp nhằm ngăn ngừa,
phát hiện kịp thời những sai lầm có thể xảy ra trong quá trình thực hiện các
thao tác tác nghiệp. Do vậy nếu làm tốt công tác kiểm soát tác nghiệp thì mức
độ rủi ro trong quá trình tác nghiệp sẽ giảm đi, đảm bảo được hiệu quả công
việc ở mức tốt nhất.
- Kiểm soát sau khi tác nghiệp hay còn gọi là kiểm soát thông tin phản
hồi là hoạt động kiểm soát thông dụng nhất hiện nay. Mặc dù bị độ trễ thời
gian song bù lại kiểm soát sau khi tác nghiệp lại có đầy đủ căn cứ đề đánh giá,
đo lường kết quả tác nghiệp.


11

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT THUẾ TNCN TỪ
TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về thuế TNCN
1.2.1.1. Khái niệm về thuế và thuế TNCN
* Khái niệm về thuế: Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân
và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ

sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đổi giá
và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế là một hiện tượng xã hội
do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp
luật. Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước.
Tuỳ theo mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn mà cơ cấu và nội dung
các chính sách thuế có khác nhau, cũng tùy thuộc vào yêu cầu của việc xem
xét, đánh giá và phân loại các sắc thuế, người ta thường phân loại thuế theo
hai cách sau đây:
- Phân loại thuế theo đối tượng đánh thuế:
+ Thuế đánh vào hàng hóa như Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu, Thuế
TTĐB, Thuế tài nguyên, …
+ Thuế đánh vào thu nhập như thuế TNDN, thuế TNCN,…
+ Thuế đánh vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ như thuế giá
trị gia tăng (GTGT), thuế môn bài, …
+ Thuế đánh vào tài sản như thuế trước bạ, thuế tài sản, …
- Căn cứ vào tính chất có thể dịch chuyển về thuế giữa người nộp thuế
và người chịu thuế, người ta phân thuế làm hai loại sau:
+ Thuế gián thu: Là loại thuế được cộng vào giá trị, là bộ phận cấu
thành của giá cả hàng hóa, như thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế XNK, thuế tài
nguyên, …
+ Thuế trực thu: Là loại thuế trực tiếp đánh vào thu nhập của các tổ
chức hoặc cá nhân, như thuế TNDN, thuế TNCN,… đối với loại thuế này thì


12

người chịu thuế đồng thời là người nộp thuế cho Nhà nước; Thuế này có tính
chất công bằng hơn thuế gián thu vì phần đóng góp về thuế thường phù hợp
với khả năng của từng đối tượng nộp thuế.
* Khái niệm về thuế TNCN:

Thuế TNCN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của từng cá nhân
trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm hoặc từng lần phát
sinh. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp
thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế
TNCN không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khoá sang cho các đối
tượng khác tại thời điểm đánh thuế.
Thuế TNCN đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối tượng
nộp thuế TNCN là mọi dân cư trong nước và người nước ngoài có thu nhập
phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp cũng như địa vị xã hội.
Ðồng thời, tùy theo tính chất của các khoản thu nhập cá nhân, người ta chia
thu nhập làm hai loại: thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường
xuyên để tính thuế cho phù hợp.
Hiện nay trên thế giới có 02 phương pháp đánh thuế:
Thứ nhất, có Quốc gia tính thuế vào từng khoản thu nhập thực tế của
mỗi cá nhân;
Thứ hai, có Quốc gia tính thuế trên tổng thu nhập của cả hộ gia đình:
+ Cách thứ nhất được áp dụng phổ biến ở Anh, Nhật, Thụy Ðiển, các
nước Châu Phi, Liên Xô, Hunggari, Tiệp khắc ... Ưu điểm của cách này là
đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào Ngân sách nhà nước
(NSNN). Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu phân phối lại thu
nhập quốc dân qua thuế sao cho có hiệu quả, đáp ứng được sự công bằng xã
hội, nhất là đối với những cá nhân có nhiều nhân khẩu ăn theo.
+ Cách thứ hai được áp dụng ở Pháp, Hà Lan ... Các chuyên gia cho
rằng cách này công bằng hơn về mặt đạo đức xã hội nhưng không kịp thời vì


13

mỗi gia đình đều có ít nhất hai người trở lên. Ðã có nhiều người thì sẽ có
nhiều khoản thu nhập khác nhau, do đó phải mở sổ sách kế toán, theo dõi

từng nguồn thu nhập và phải đối chiếu với nơi phát sinh thu nhập, vì có nhiều
phức tạp nên rất ít quốc gia áp dụng cách này.
Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
Một là, đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của
cá nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát
sinh trong nước hay ở nước ngoài;
Hai là, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người
có thu nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người nước
ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt,
làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của pháp Luật về thuế TNCN.
Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế TNDN ở
chỗ nó thường gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia cho dù quốc gia đó
có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế, xây dựng một chính sách thuế có tính
trung lập không nhằm nhiều mục tiêu khác nhau. Thể hiện, nó luôn quy định
loại trừ một số khoản thu nhập trước khi tính thuế TNCN như thu nhập mang
tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình người
nộp thuế, khoản chi mang tính nhân đạo xã hội…
Thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh
thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể,
có áp dụng phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội,
người có thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn một
khoản thu nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế.
Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao và đã được ủy ban Thường vụ Quốc
hội thông qua, pháp lệnh có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/04/1991. Ðể cho


14

phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước, từ năm 1991 đến năm 2004 đã có 06 lần sửa đổi, bổ sung Pháp
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: Lần thứ nhất vào ngày
10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần
thứ 4 vào ngày 30/6/1999, lần thứ năm vào ngày 13/6/2001( có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/7/2001) và lần thứ 6 là pháp lệnh sửa đổi, bổ sung số
14/2004/PL-UBTVQH11 ban hành năm 2004 (có hiệu lực từ ngày
01/07/2004 đến 31/12/2008). Thông tư 81/2004/TT-BTC và thông tư số
12/2005/TT-BTC là những văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh này.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước
trong giai đoạn mới, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật số 04/2007/QH12 - Luật thuế thu
nhập cá nhân. Luật này có hiệu lực thi hành chính thức từ ngày 01/01/2009.
1.2.1.2. Vai trò của công tác kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công
- Thuế TNCN là một công cụ rất cần thiết để thực hiện việc kiểm soát
thu nhập của các tầng lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội, điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.
Để kiểm soát thu nhập dân cư đòi hỏi phải làm tốt công tác kiểm soát
việc thực hiện chính sách thuế TNCN. Muốn vậy, Nhà nước phải sử dụng
đồng thời cả hai cơ chế quản lý, đó là quản lý quỹ tiền lương, tiền công, chế
độ báo cáo quyết toán kinh doanh…và cơ chế kê khai nộp thuế TNCN.
- Trong giai đoạn mở cửa và hội nhập, thu nhập của mọi tầng lớp dân
cư ngày càng tăng, công tác quản lý chặt chẽ nguồn thu nhập của mọi cá nhân
là đòi hỏi bức thiết. Có quản lý chặt chẽ các nguồn thu nhập của mọi cá nhân
trong xã hội thì mới có cơ sở hoạch định chính sách xã hội phù hợp với yêu
cầu của từng giai đoạn phát triển. Do đó tăng cường kiểm soát trong khâu


15

quản lý đối tượng nộp thuế có vai trò hết sức quan trọng và quyết định sự

thành công của việc triển khai chính sách thuế TNCN của mỗi quốc gia.
- Song song với việc quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế thì công tác
kiểm soát nguồn thu đóng vai trò hết sức quan trọng. Để làm tốt nội dung này
cần phải thông qua công cụ kế toán tại các tổ chức chi trả. Bằng việc kiểm
soát chặt chẽ công tác kế toán tại các tổ chức chi trả sẽ góp phần xác định đầy
đủ, chính xác nguồn thu nhập tiền lương, tiền công của các cá nhân có thu
nhập, chống thất thu NSNN.
Trong giai đoạn đầu công tác kiểm soát tất yếu còn những hạn chế,
nhưng kết quả của công tác kiểm soát sẽ là căn cứ quan trọng để thống kê thu
nhập dân cư, phục vụ chương trình mục tiêu nghiên cứu quốc gia, hoạch định
chính sách phát triển phù hợp khi tính tuân thủ pháp luật, pháp chế xã hội
được nâng lên.
Để làm tốt công tác kiểm soát cả về đối tượng nộp thuế và thu nhập
chịu thuế đòi hỏi phải nắm chắc các thông tin về đối tượng và thu nhập thông
qua công tác quản lý và công tác kế toán tại tổ chức chi trả thu nhập.
1.2.1.3. Đối tượng nộp thuế TNCN
Luật thuế TNCN quy định đối tượng nộp thuế TNCN là các cá nhân cư
trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt nam và các cá
nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt nam
không phân biệt nơi chi trả thu nhập.
(1) Cá nhân cư trú: Theo Luật Thuế TNCN là người đáp ứng một
trong các điều kiện sau đây:
- Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương
lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam;
- Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký
thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có
thời hạn.


16


(2) Cá nhân không cư trú: Là người không đáp ứng điều kiện quy định
như cá nhân cư trú.
Nắm chắc những quy định về đối tượng cư trú và không cư trú cho
phép chúng ta thực hiện tốt hơn công tác kiểm soát việc quản lý đối tượng
nộp thuế trong mỗi kỳ tính thuế.
1.2.1.4. Căn cứ tính thuế TNCN đối với cá nhân có thu nhập từ tiền lương,
tiền công
* Thứ nhất, Đối với cá nhân cư trú: Căn cứ tính thuế TNCN là thu
nhập tính thuế và thuế suất thuế TNCN.
(1)Thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công là tổng
thu nhập chịu thuế trừ (-) Các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải tham gia bảo
hiểm bắt buộc, các khoản giảm trừ.
+ Thu nhập từ tiền lương, tiền công, bao gồm: Tiền lương, tiền công và
các khoản có tính chất tiền lương, tiền công; Các khoản phụ cấp, trợ cấp; Tiền
thù lao dưới các hình thức; Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh,
hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản lý và các tổ chức; Các khoản
lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc không bằng
tiền; Tiền thưởng.
+ Các khoản giảm trừ: Bao gồm các khoản sau đây:
Một là, Giảm trừ gia cảnh: là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế
trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công đối
với người nộp thuế là cá nhân cư trú. Mức giảm trừ đối với người nộp thuế là
4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm). Bên cạnh đó còn được giảm trừ cho
người phụ thuộc với mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu
đồng/tháng (người phụ thuộc là người mà người nộp thuế có trách nhiệm nuôi
dưỡng).



17

Hai là, Giảm trừ đối với các khoản đóng góp bảo hiểm bắt buộc như
bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp…
Ba là, Giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến
học được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế đối với thu nhập từ tiền lương,
tiền công của người nộp thuế là cá nhân cư trú.
- Thuế suất thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công:
Theo Luật thuế TNCN quy định, thì biểu thuế suất áp dụng cho thu nhập từ
tiền lương, tiền công và từ kinh doanh là biểu thuế lũy tiến từng phần.
* Thứ hai, đối với cá nhân không cư trú
Thuế TNCN phải nộp = TNCT từ tiền lương, tiền công * thuế suất 20%
Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công của cá nhân không cư trú là
tổng số tiền lương, tiền công mà cá nhân không cư trú nhận được do thực hiện
công việc tại Việt Nam, không phân biệt nơi trả thu nhập.
** Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế
+ Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế đối với thu nhập từ tiền lương,
tiền công là thời điểm tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập cho cá nhân có thu
nhập từ tiền lương, tiền công.
Nếu làm tốt công tác kiểm soát hoạt động kế toán tại các tổ chức chi
trả, cơ quan thuế sẽ có cơ sở quản lý tốt các nguồn thu nhập chịu thuế, thu
nhập tính thuế và thuế thu nhập cá nhân phải nộp của người nộp thuế.
* Trách nhiệm của tổ chức trả thu nhập và của người nộp thuế:
- Đối với cá nhân cư trú:
+ Tổ chức, cá nhân trả thu nhập có trách nhiệm kê khai, khấu trừ, nộp
thuế vào NSNN và quyết toán thuế đối với thu nhập chịu thuế từ tiền lương,
tiền công chi trả cho các cá nhân có thu nhập;
+ Cá nhân có thu nhập chịu thuế có trách nhiệm kê khai, nộp thuế vào
NSNN và quyết toán thuế đối với mọi khoản thu nhập theo quy định của pháp



18

luật về quản lý thuế; Tổ chức, cá nhân trả thu nhập có trách nhiệm cung cấp
thông tin về thu nhập và người phụ thuộc của các cá nhân người nộp thuế
thuộc đơn vị mình quản lý theo quy định của pháp luật.
- Đối với cá nhân không cư trú:
Tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế
vào NSNN theo từng lần phát sinh đối với các khoản thu nhập chịu thuế trả
cho NNT; NNT là cá nhân không cư trú có trách nhiệm kê khai, nộp thuế theo
từng lần phát sinh thu nhập đối với thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp
luật về quản lý thuế.
1.2.2. Kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công
Kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công là việc kiểm soát về số
lượng người nộp thuế, thu nhập chịu thuế, các khoản giảm trừ gia cảnh, thu
nhập tính thuế, thuế suất, khấu trừ thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, tình hình
kê khai và nộp thuế vào NSNN. Thông qua hoạt động kiểm soát, Nhà nước
đảm bảo cho Luật thuế TNCN ngày càng hoàn thiện và đi vào đời sống xã
hội. Hoạt động kiểm soát thuế TNCN chủ yếu do cơ quan thuế thực hiện, tuy
nhiên bên cạnh đó cần có sự phối hợp của các cơ quan hữu quan, các cấp, các
ngành và của toàn cộng đồng xã hội.
1.2.2.1. Sự cần thiết của kiểm soát thuế TNCN
Với mục tiêu ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế, đảm bảo
bao quát hết nguồn thu, công bằng, hiệu quả, chính xác, dễ hiểu, dễ thực hiện
và phù hợp với thông lệ quốc tế thì việc kiểm soát nguồn thu từ thuế nói
chung và kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công nói riêng là việc làm
đòi hỏi phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục của cơ quan thuế
các cấp. Đó là hoạt động kiểm tra, rà soát lại quá trình chấp hành quy trình
quản lý thuế. Có thể thấy sự cần thiết của hoạt động kiểm soát thuế TNCN từ
tiền lương, tiền công được thể hiện như sau:



19

- Kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công nhằm đảm bảo nguồn
thu của Ngân sách nhà nước (NSNN), thực hiện chức năng tái phân phối thu
nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
- Kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công để Nhà nước thực hiện
chức năng điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ phát triển
kinh tế xã hội nhất định.
- Kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công để góp phần khuyến
khích, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh theo kế hoạch, chiến lược một
cách toàn diện của Nhà nước.
- Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật về thuế của các cấp trong
ngành thuế, công chức thuế và NNT; Chống thất thu ngân sách về thuế, thực
hiện cải cách hành chính và hiện đại hóa ngành thuế theo chủ trương của
Đảng và Nhà nước.
Tóm lại, thông qua công tác kiểm soát thuế nói chung, thuế TNCN từ
tiền lương, tiền công nói riêng, Nhà nước sẽ có những tác động tích cực trong
việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở sử dụng hợp lý mọi nguồn nhân
tài, vật lực của đất nước trong việc điều chỉnh quan hệ cung cầu và cơ cấu
kinh tế, tạo ra sự công bằng trong xã hội.
1.2.2.2. Những mục tiêu cơ bản của công tác kiểm soát thuế TNCN
Thứ nhất, Kiểm soát thuế TNCN phải giúp cho công tác quản lý nguồn
thu ngân sách được thực hiện một cách tốt nhất, tập trung và huy động đầy đủ
số thu cho NSNN. Đây là mục tiêu chủ yếu, vì với mục tiêu này việc kiểm
soát thuế TNCN mới thể hiện đầy đủ vai trò của nó trong việc quản lý nguồn
thu cho NSNN.
Thứ hai, Đề cao ý thức tự giác chấp hành chính sách, pháp luật về thuế
và tạo điều kiện cho người nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ về thuế. Mục tiêu

này có tính chất thường xuyên, lâu dài và tác động tới ý thức tự giác của


20

người nộp thuế. Để thực hiện tốt mục tiêu này thì việc kiểm soát thuế TNCN
phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh quy trình quản lý thuế và các quy định
của quá trình kiểm tra, kiểm soát.
Thứ ba, Nhằm điều chỉnh những bất hợp lý, những kẽ hở của chính
sách pháp luật trong quá trình thực hiện Luật thuế TNCN, hạn chế các tình
trạng tránh thuế, trốn thuế của người nộp thuế; phát hiện và xử lý kịp thời đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
Thứ tư, Cải tiến thủ tục quản lý thuế, phân công, phân nhiệm rõ ràng,
chuẩn hóa dần công tác quản lý thuế để nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy quản lý thuế, nâng cao chất lượng làm việc của đội ngũ cán
bộ công chức thuế.
Thứ năm, Việc kiểm soát thuế TNCN phải góp phần phát huy tốt nhất
vai trò của thuế TNCN trong nền kinh tế; bởi vì có làm tốt công tác kiểm soát
thuế TNCN thì mới cung cấp đầy đủ và kịp thời những thông tin chính xác
cho công tác quản lý thuế TNCN, từ đó giúp cho chính sách thuế TNCN thực
sự phát huy được hiệu quả trong đời sống xã hội.
Để đạt được những mục tiêu cơ bản nêu trên, cơ quan thuế và công
chức thuế cần phải: Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý thuế, sắp xếp tổ chức bộ
máy quản lý thuế, phân rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận tại Cục
Thuế, Chi cục Thuế; tăng cường công tác phân tích thông tin, phát hiện các
dấu hiệu nghi ngờ vi phạm về thuế để kịp thời thanh tra, kiểm tra và xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về thuế; Cán bộ thuế phải nắm vững
chính sách, chế độ về thuế; có ý thức trách nhiệm cao, tuân thủ đúng quy trình
nghiệp vụ và các bước công việc trong quy trình; tăng cường trang bị cơ sở
vật chất, thiết bị làm việc để đảm bảo khai thác thông tin phục vụ kịp thời cho

công tác quản lý và chỉ đạo thu thuế TNCN.


21

1.2.2.3. Quy trình quản lý thuế TNCN từ tiền lương, tiền công
Việc kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công đòi hỏi phải tuân
theo quy trình quản lý thuế. Quy trình đó được thể hiện bằng hình 1.1, 1.2
như sau:

(7)

(5)
(1)

TỔ CHỨC CHI TRẢ
THU NHẬP, CÁ NHÂN

CƠ QUAN
THUẾ
(2)

(3)

(6)

(4)

KHO BẠC
NHÀ NƯỚC


Hình 1.1: Sơ đồ mối quan hệ công việc của Quy trình quản lý thuế
(1) NNT đăng ký thuế, kê khai thuế với cơ quan thuế theo quy định;
(2) Cơ quan thuế kiểm tra hồ sơ ĐKT, KKT của NNT để cấp MST, TBT cho
NNT;
(3) NNT nộp thuế theo kê khai hoặc theo thông báo của cơ quan thuế;
(4) Kho bạc chuyển chứng từ nộp thuế của người nộp thuế về cơ quan thuế
để kiểm tra, đối chiếu;
(5) NNT nộp quyết toán thuế về cơ quan thuế, cơ quan thuế kiểm tra, thanh
tra theo quy trình;
(6) NNT nộp hồ sơ hoàn thuế về cơ quan thuế;
(7) Cơ quan thuế kiểm tra, đối chiếu và làm thủ tục hoàn thuế cho NNT;


×