Lời mở đầu
Vào các thập kỷ 80 kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng có
tính chu kỳ. Nền kinh tế đóng nớc ta với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu
bao cấp đã biểu hiên rõ những khuyết nhợc điểm của nó. Chính điều này đã
làm cho nhiều ngời nghi ngờ về con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và
nhà nớc ta đã lựa chọn.
Trớc tình hình đó, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI( tháng 12 năm
1986) Đảng ta đã đề ra chủ trơng đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện,
chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng định h-
ớng xã hội chủ nghĩa. Lý luận kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
lúc này đã có những thay đổi cơ bản. Đó là thừa nhận sự tồn tại khách quan
của năm thành phần kinh tế và xác định rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc
trong cơ cấu nền kinh tế đa thnàh phần.
Trong hơn 10 năm đổi mới, nớc ta đã thu đợc nhiều thành tựu đáng ghi
nhận, nhất là sự phát triển về kinh tế, chứng tỏ đờng lối của Đảng và nhà nớc
ta đề ra là đúng đắn. Việc phát triển nền kinh tế thị trờng, định hớng xã hội
chủ nghĩa rất cần có sự điều tiết của nhà nớc, để đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển đúng hớng.
Do đó tại các kỳ đại hội VII, VIII, XI Đảng ta đã không ngừng khẳng
định, bổ sung và nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc-một công cụ
điều tiết vĩ mô đắc lực của nhà nớc, để nó thực sự có thể đảm nhận vai trò con
trởng trong một gia đình đông con.
Để đi sâu tìm hiểu vấn đề này, qua một năm học tập và nghiên cứu, dới sự
hớng dẫn giảng dạy của thầy Mai Hữu Thực em đã chọn đề tài Kinh tế nhà
nớc và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam ta hiện nay. Do trình độ có hạn, bài viết còn nhiều sai
sót, em mong thầy giáo giúp đỡ em sửa chữa cho bài viết hoàn chỉnh.
.
1
Kinh tế nhà nớc và vai trò chủ đạo của nó
trong nền kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa
ở nớc ta hiện nay.
I.Tính tất yếu tồn tại thành phần kinh tế nhà nớc.
1.Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều đặc điểm, nhng đặc điểm nổi
bật là cơ cấu của nền kinh tế có kinh tế nhiều thành phần. Cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần tồn tại không phải do ý kiến chủ quan của nhà nớc; nó xuất hiện,
tồn tại và phát triển phụ thuộc vào những tiền đề kinh tế và chính trị khách
quan của nền kinh tế. Trong cơ cấu này, mỗi thành phần kinh tế luôn có vai
trò, vị trí và vận động, phát triển theo một xu hớng nhất định. Xuất phát từ qui
luật vốn có của nền kinh tế thị tròng có thể thấy các thành phần kinh tế đều
vận động hớng tới mục tiêu lợi ích. Sự vận động này cũng có thể khác hớng,
thậm chí ngợc chiều nhau tuỳ theo mục tiêu ấy là gì, ai là chủ thể của lợi ích
đợc tạo ra, việc phân chia và sử dụng lợi ích đó nh thế nào.
Trong suốt 15 năm qua, nhất là từ Đại Hội VI đến nay, trên cơ sở t duy
ngày càng rõ hơn về thực tiễn của đất nớc và con đờng xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta đã không ngừng đổi mới quan điểm, chính sách về chế độ sở hữu
và thành phần kinh tế. Điều này đợc thể hiện tóm tắt trên 6 điểm lớn:
Thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần: mỗi thành phần
đều có vị trí quan trọng trong cơ cấu của nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp
cũng đan xen nhiều hình thức sở hữu, thực hiện sự bình đẳng về cạnh tranh
để phát triển.
Sở hữu nhà nớc có thể tồn tại ở nhiều hình thức tổ chức kinh tế, kinh
tế nhà nớc có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vì nó chiếm lĩnh một số
ngành, lĩnh vực rất cơ bản. Do đó nó có thể làm đòn bẩy thúc đẩy nhanh
chóng tăng trởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đờng hớng
dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm chỗ dựa để
nhà nớc thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nề tảng cho
chế độ kinh tế xã hội.
Hợp tác là tổ chức kinh tế đựơc hình thành trên cơ sở ngời lao động
tự nguyện đóng góp sức, vốn và quản lý dân chủ, với mọi qui mô và mức
độ tập thể hoá t liệu sản xuất khác nhau, phát huy vai trò tự chủ của các hộ
xã viên.
Kinh tế cá thể có thể có vai trò quan trọng, có thể tham gia nhiều
hình thức liên kết, hợp tác khác nhau để có thể tiếp tục lớn hơn.
2
Kinh tế t bản t nhân là một bộ phận trong cơ cấu của nền kinh tế
quốc dân, có khả năng góp phần xây dựng đất nớc, đợc phát triển không
hạn chế trong những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, đợc khuyến
khích đầu t nh mọi thành phần kinh tế khác.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
độnh là hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn
lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan, nó
khắc phục đợc những yếu nhợc điểm của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
nó phù hợp với sự phát triển của xã hội, phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lợng sản xuất, thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, cho phép tận dụng tối
đa mọi nguồn lực hiện có của đất nớc một cách hiệu quả nhất. Nhng để phát
triển kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta ngày nay không phải bằng bất kỳ cách
nào, mà Đảng chủ trơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần phải định h-
ớng xã hội chủ nghĩa. Đại Hội VIII của Đảng, kinh tế nhà nớc đựơc giao giữ
vai trò chủ đạo trong việc thực hiện trọng trách này.
Tuy nhiên việc xác định rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc không rõ
ràng chút nào, bởi vì nó còn nằm trong sự tác động qua lại giữa các thành phần
kinh tế khác. Do đó đòi hỏi chúng ta cần đi sâu nghiên cứu tính chủ đạo của
kinh tế nhà nớc dựa trên cơ sở thực tiễn và đổi mới t duy đúng đắn.
2.Kinh tế nhà n ớc.
Mọi nhà nớc đều có chức năng kinh tế, chức năng này đợc thể hiện với
mức độ khác nhau tuỳ theo từng giai đoạn phát triển. ở bất kỳ nớc nào dù kém
phát triển, đang phát triển hay phát triển thì chức năng kinh tế của nhà nớc
luôn gắn liền và thể hiện thông qua các hoạt động kinh tế của nhà nớc trên cơ
sở tiềm lực vật chất của nhà nớc. Nhà nớc còn có lực lợng vật chất mạnh trong
tay để chi phối, hớng dẫn, điều tiết sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Lực l-
ợng vật chất này cùng với luật pháp, kế hoạch, chính sách tạo cho nhà nớc một
sức mạnh làm cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hớng đã định.
ở nớc ta, sau khi đất nớc giành đợc độc lập, chúng ta đã phiến diện và giản
đơn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp ngày càng tỏ ra không phù hợp, đã bộc lộ rất rõ nét những nhợc
điểm căn bản làm thui chột tính năng động sáng tạo, không phát huy tối đa đ-
ợc các tiềm lực tồn tại trong nền kinh tế.
Trớc tình hình đó tại Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng tađã đề
ra chủ trơng đối với nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế tập
trung sang nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận sự
3
tồn tại khách quan của 5 thành phần kinh tế, mỗi thành phần kinh tế dựa trên
một hình thức sở hữu nhất định.
Kinh tế nhà nớc là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân về t
liệu sản xuất. Vệc tổ chức kinh doanh tiến hành theo nguyên tắc hạch toán
kinh tế và tiến hành phân phối theo lao động. Đây là thành phần kinh tế
đại diện cho quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể. Nó bao
gồm những đơn vị do những ngời lao động góp vốn, góp sức sản xuất kinh
doanh theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. Nó đợc phát
triển dới nhiều hình thức đa dạng từ thấp tới cao, từ tổ nhóm hợp tác đến
hợp tác xã.
Kinh tế t bản t nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu t nhân t
bản chủ nghĩa và sử dụng lao động làm thuê, trả lơng nh các công ty trách
nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp t nhân các công ty cổ phần không có
vốn của nhà nớc.
Kinh tế cả thể tiểu chủ là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở t hữu
nhỏ và lao động của bản thân ngời sở hữu. Tức là hoàn toàn dựa vào vốn
và lao động của bản thân và các thành viên trong gia đình. Kinh tế tiểu chủ
cũng dựa trên t hữu nhỏ nhng có sử ụng lao động làm thuê, tuy nhiên thu
nhập chủ yếu vẫn dựa vào lao động của bản thân và các thành viên trong
gia đình
Kinh tế t bản nhà nớc là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu hỗn hợp
giữa nhà nớc và t nhân. Nó bao gồm các hình thức hợp tác kinh doanh giữa
t bản nhà nớc với t bản t nhân trong và ngoài nớc.
Kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài: là thành phần kinh tế mới đợc Đảng
và nhà nớc ta công nhận tại Đại Hội IX, nó là một bộ phận của nền kinh tế
Việt Nam bao gồm vốn do ngời Việt Nam ở nớc ngoài về nớc đầu t kinh
doanh. Nhà nớc cần tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài phát
triển thuận lợi hớng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng, gắn với thu
hút công nghệ hiện đại. Hiện nay cần tiếp tục cải thiện môi trờng kinh tế,
pháp lý để thu hút, tận dụng triệt để các nguồn vốn đầu t nớc ngoài.
Sự tồn tại của kinh tế nhà nớc ở hầu hết các nớc trên thế giới chứng tỏ sự
cần thiết khách quan của khu vực này trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện
đại, khi các hoạt động vĩ mô đòi hỏi nhà nớc phải đóng vai trò ngày càng to
lớn trong nền kinh tế. Có thể nói khu vực kinh tế nhầ nớc giữ vai trò nh một
công cụ kinh tế của nhà nớc vừa thực hiện chức năng kinh tế, vừa làm một
phần chức năng xã hội, góp phần thực hiện sự tăng trởng và ổn định kinh tế
mỗi nớc.
4
Trên thực tế, không một nớc nào phát triển nền kinh tế thị trờng lại không
sử dụng các xí nghiệp nhà nớc trong các lĩnh vực quan trọng nhằm thực hiện
chức năng kinh tế vĩ mô, đặc biệt vì lợi ích của toàn xã hội nh:
Những ngành thuộc cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: năng lợng, giao
thông, bu điện, ngân hàng, bảo hiểm nhằm đảm bảo ổn định xã hội và
tạo ra quá trình liên tục trong tái sản xuất xã hội.
Những ngành kinh tế chiến lợc bảo đảm đẩy nhanh tiến bộ khoa học
kỹ thuật nh: kỹ thuật hàng không vũ trụ, năng lợng nguyên tử, chế tạo ô
tô
Những ngành thuộc về sản xuất và dịch vụ các loại hàng hoá công
cộng cần thiết cho sinh hoạt xã hội đợc nhà nớc trợ cấp hoặc bù lỗ nh: giáo
dục, y tế, văn hoá, bảo vệ môi trờng
Nh vậy, dù phát triển theo định hớng nào mỗi nớc đều phải có khu vực
kinh tế nhà nớc. Sự khác nhau chủ yếu ở mức độ chiếm giữ của sở hữu nhà n-
ớc trong các ngành, các lĩnh vực cũng nh mục tiêu và cách thức hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nớc.
3.Các bộ phận cấu thành kinh tế nhà n ớc.
Kinh tế nhà nớc đợc thể hiện dới nhiều hình thức hoạt động khác nhau với
các tổ chức tơng ứng nh hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, các
hoạt động đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội mà ở đó nhà nớc đợc biểu
hiện nh một chủ sở hữu, chủ thể kinh doanh, ngời tham gia. Nghĩa là kinh tế
nhà nớc có nhiều bộ phận hợp thành, mỗi bộ phận hợp thành kinh tế nhà nớc
có chức năng và nhiệm vụ khác nhau.
a.Nếu xét theo lĩnh vực hoạt động thì kinh tế nhà nớc bao gồm các hoạt
động kinh tế của nhà nớc trong việc:
Quản lý, khai thác, bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên tự nhiên
nhằm mục dích phát triển kinh tế xã hội.
Đầu t, quản lý và khai thác các công trình hạ tầng kỹ thuật nh: bến bãi,
cảng, đờng xá, các khu công nghiệp tập trungnhằm tạo điều kiện chung
thuận lợi cho nền kinh tế phát triển.
Các hoạt động kinh tế trong công nghiệp, nông nghiệp, thơng mại, dịch
vụ; trong lĩnh vực tín dụng, tài chính, ngân hàng, dự trữ quốc gia
Hoạt động bảo hiểm cũng là một lĩnh vực hoạt động quan trọng của khu
vực kinh tế nhà nớc, thực hiện chế độ bảo hiểm do nhà nớc quy định
5
đối với kinh tế nhà nớc và các thành phần kinh tế khác nhằm đảm
bảo hoạt động kinh tế xã hội bình th ờng trong những điều
kiện bị tổn thất do rủi ro khách quan.
Tất cả các lĩnh vực hoạt động trên có thể gộp thành hai nhóm lớn:
Hoạt động trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
Hoạt động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội.
b.Xét theo hình thức tổ chức.
Kinh tế nhà nớc bao gồm nhiều bộ phận hoạt động trong các lĩnh vực then
chốt, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Mỗi bộ phận có chức năng nhiệm vụ
khác nhau nhng đều nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc ở một
mức độ nhất định. Cụ thể là:
Ngân sách nhà nớc: thực hiện chức năng thu chi ngân sách và có nhiệm vụ
điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động của kinh tế nhà nớc và các thành
phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội đã định.
Ngân hàng nhà nớc: có tác dụng điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt
động kinh doanh tiền tệ, đặc biệt là xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách
tiền tệ để phát triển kinh tế xã hội.
Kho bạc nhà nớc: với chức năng quản lý quỹ tiền tệ tập trung của nhà nớc,
đồng thời kiểm soát quá trình chi tiêu ngân sách cho những mục đích khác
nhau.
Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của khu vực kinh tế nhà nớc,
nhân dân bảo đảm cho khu vực này hoạt động bình thờng trong mọi tình
huống, là lực lợng vật chất để nhà nớc điều tiết, quản lý, bình ổn giá cả thị tr-
ờng, bảo đảm kinh tế xã hội.
Các tổ chức sự nghiệp có thu: hoạt động gần giống nh doanh nghiệp nhà
nớc trong cung ứng một số dịch vụ công, đặc biệt trong giáo dục, y tế, dịch vụ
hành chính công.
Hệ thống doanh nghiệp nhà nớc: theo luật doanh nghiệp nhà nớc của Việt
Nam năm 1995, doanh nghiệp nhà nớc là tổ chức kinh tế do nhà nớc đầu t vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc công ích, nhằm thực
hiện mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nớc giao cho. Doanh nghiệp nhà nớc có t
cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự. Đây là một bộ phận chính
yếu của kinh tế nhà nớc, đóng vai trò then chốt là một lực lợng vất chất cơ bản,
đảm bảo cho viêc thực hiện các mặt trân kinh tế xã hội của đất nớc.
c.Xét theo mục tiêu hoạt động.
6
Các doanh nghiệp nhà nớc đợc chia làm ba nhóm với những tiêu chí tơng
ứng để đánh giá kết quả hoạt động:
Nhóm I: Nhóm các doanh nghiệp nhà nớc hoạt động công ích. Các doanh
nghiệp này hoạt động theo các chính sách xã hội của nhà nớc phục vụ cho lợi
ích của toàn xã hội hay lợi ích công cộng, chuyên sản xuất hàng quốc phòng,
an ninh, y tế, văn hoáMục đích hoạt động của nhóm này không phải vì lợi
nhuận mục tiêu phát triển của nó là sự ổn định và an toàn xã hội gắn với môi
trờng kinh tế-xã hội-chính trị.
Nhóm II: nhóm các doanh nghiệp hoạt động bán công ích. Về thực chất,
hoạt động của nhóm này là bán kinh doanh, là loại doanh nghiệp nửa bao cấp
nửa kinh doanh. Loại doanh nghiệp này đợc nhà nớc hỗ trợ một phần.
Nhóm III: nhóm các doanh nghiệp thuần tuý kinh tế. Mục đích hoạ động
của nhóm này là sản xuất và kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Nếu nh nhóm
II chỉ trong chừng mực nào đó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị tr-
ờng thì nhóm này hoàn toàn bình đẳng với các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau trong cạnh tranh trên thị trờng.
Xuất phát từ những yếu tố trên, đối với mỗi nhóm hay đối với mỗi loại
hình doanh nghiệp cần phải xác định một cơ chế quản lý mang tính đặc thù
riêng.
4.Vị trí, vai trò của kinh tế nhà n ớc đối với các thành phần kinh tế khác.
a.Giai đoạn trớc năm 1986.
ở nớc ta, sau khi miền Bắc giải phóng (1954) và thống nhất đất nớc
(1975), trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội do nhận thức giản đơn
phiến diện đã đồng nhất sở hữu nhà nớc với chủ nghĩa xã hội, công hữu ngày
càng hiều thì chủ nghĩa xã hội càng nhiều. Chúng ta đã coi kinh tế quốc doanh
chủ yếu bó hẹp trong phạm vi các xí nghiệp quốc doanh. Các xí nghiệp quốc
doanh ở thời kỳ này đợc quản lý theo kiểu kế hoạch hoá tập trung của Liên
Xô. Các xí nghiệp quốc doanh hoạt động dựa trên cơ sở các nguồn lực đợc nhà
nớc phân bổ một cách trực tiếp, chỉ có nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh theo
kế hoạch đã đợc định trớc, lỗ thì đợc bù còn lãi thì phải nộp ngân sách. Cơ chế
này đã có tác dụng kích thích huy động một cách tích cực các nguồn lực của
đất nớc đáp ứng yêu cầu giải phóng miền Nam và bảo vệ miền Bắc trong giai
đoạn 1954-1975. Xong trong điều kiện mới khi đất nớc đã thống nhất, nền
kinh tế thế giới phát triển với tốc độ chóng mặt thì những yếu nhợc điểm căn
bản của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã bộc lộ rõ nét, làm thui
chột tính năng động sáng tạo của các xí nghiệp vì sản xuất kinh doanh không
tính đến hiệu quả, đặc biệt là thiếu vắng môi trờng cạnh tranh
7
Thêm vào đó số lợng xí nghiệp quốc doanh quá nhiều, dàn trải chồng
chéo, trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp
đã đẩy đất nớc lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
b.Giai đoạn từ 1986 đến nay.
Đứng bên bờ vực thẳm của chủ nghĩa xã hội trong tình hình hệ thống các
nớc xã hội chủ nghĩa đang theo chiều hớng tan rã, con đờng đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nớc ta bị giao động mạnh. Trớc tình hình đó, với phơng châm nhìn
thẳng vào sự thật, tại Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) Đảng ta đã
đề ra chủ trơng đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện. Lý luận kinh tế về thời
kỳ quá độ trong thời kỳ này đã có những thay đổi cơ bản. Trớc hết là sự thừa
nhận sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế, kinh tế quốc doanh
đựơc thừa nhận là thành phần kinh tế nhà nớc trong cơ cấu nền kinh tế đa
thành phần.
Nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại với t cách là một chỉnh thể thống
nhất, trong đó mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận không thể tách rời, vì nó
đều nằm trong tổng thể của nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế
không tồn tại độc lập mà đan xen nhau, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ
thông qua liên doanh, liên kết và tác động qua lại lẫn nhau, vừa thống nhất vừa
mâu thuẫn. Tính thống nhất thể hiện ở chỗ các thành phần kinh tế đều nằm
trong cơ cấu thống nhất, luôn biến đổi, phát triển và đều chịu sự điều tiết vĩ
mô của nhà nớc. Các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa hợp tác để nâng
cao hiệu quả kinh tế của các nguồn lực, huy động tối đa sức mạnh và lợi thế
của từng thành phần vào việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế xã hội của đất n-
ớc.
Các thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu đặc thù và mục tiêu, lợi
ích riêng mà nó hình thành. Do đó tất yếu sẽ tồn tại những mâu thuẫn, điển
hình là mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Tuy nhiên mỗi chế độ
xã hội bao giờ cũng có một phơng thức sản xuất thống trị. Đó là một sự thật đã
từng và sẽ tồn tại trong lịch sử. Trên cơ sở kinh tế đó mà dựng lên kiến thức
thợng tầng, quan trọng nhất là chế độ chính trị thích ứng với nó, chúng ta đã
lựa chọn chế độ chính trị là chế độ xã hội chủ nghĩa thì tất yếu chúng ta phải
có một cơ sở kinh tế đảm bảo cho định hớng đã lựa chọn.
Chủ nghĩa xã hội vơn tới là sở hữu toàn dân về t liệu sản xuất, thích ứng
với nó chỉ có kinh tế nhà nớc cùng với kinh tế tập thể mới có thể tạo đợc một
nền tảng vững chắc cho cơ sở kinh tế xây dựng lên chủ nghĩa xã hội. Nh vậy,
sự phát triển kinh tế nhiều thành phần không phải là phát triển theo bất kỳ xu
hớng nào mà phải có định hớng cụ thể phù hợp với mục tiêu chính trị xã hội
mà Đảng và nhà nớc ta đã lựa chọn. Xét trên giác độ này thì kinh tế nhà nớc
có thể nói là một công cụ đắc lực để nhà nớc thông qua nó hỗ trợ, hớng dẫn
8
định hớng cho các thành phần kinh tế khác cũng phát triển theo con đờng mà
Đảng và nhà nớc ta đã đề ra.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) đã nêu lên sáu thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nớc, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh
tế t bản t nhân, kinh tế t bản nhà nớc, kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài. Trong
nền kinh tế đó, kinh tế nhà nớc và kinh tế tập thể là nền tảng của kinh tế quốc
dân và kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo.
II. Kinh tế nhà nớc và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân hiện
nay ở nớc ta.
1.Cơ sở lý luận cho tính chủ đạo của kinh tế nhà n ớc.
Tại các đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI, VII, VIII, IX Đảng ta đã
xác định: chủ động hội nhập, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
nhà nớc, kinh tế tập thể. Trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo, cùng
với kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, vấn đề đặt ra là trong
nền kinh tế nớc ta hiện nay có hay không có mặt thành phần kinh tế nào đó
đóng vai trò chủ đạo. Nếu có thì căn cứ nào để xác định tính chất chủ đạo của
một thành phần kinh tế, và vì sao vai trò chủ đạo đó lại đợc giao cho thành
phần kinh tế này chứ không phải thành phần kinh tế khác.
Từ sau đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay Việt Nam chủ trơng
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị tr-
ờng, có sự quản lý của nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Nh vậy nền
kinh tế thi trờng ở Việt Nam đợc xây dựng trên cơ sở đa dạng hoá sở hữu, đa
dạng hoá thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế này có nhiều thành phần kinh
tế cùng tồn tại.
Ai cũng biết rằng, trong một gia đình nếu chỉ có một con thì không thể có
con trởng, con thứ. Nhng với một gia đình đông con thì sự phân định con trởng
con thứ là tất yếu. Trong nền kinh tế nhiều thành phần cũng vậy, sự tồn tại của
nhiều thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu đặc thù làm cho vai trò
vị trí của chúng khác nhau và tất yếu sẽ có một sự phân vai, đó là thành phần
kinh tế chủ đạo cùng với các thành phần còn lại. Vấn đề nằm ở chỗ thế nào là
chủ đạo và ai là chủ đạo?. Căn cứ vào đâu đế xác định tính chất chủ đạo này?.
Trớc đây chúng ta lý giải vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế đợc thể
hiện ở phạm vi của nó chiếm hữu trong nền kinh tế, ở tính hiệu quả hơn, u việt
hơn hẳn của nó so với các thành phần kinh tế khác. Nhng qua quá trình thực
tiễn cùng với đổi mói t duy thì thành phần kinh tế chủ đạo phải là thành phần
kinh tế chi phối, làm thay đổi và xác định phơng hớng hoạt động của các thành
phần kinh tế khác, hớng tới mục tiêu kinh tế-chính trị-xã hội mà Đảng và nhà
9
nớc đã chọn. Vì bản chất cốt lõi của một chế độ xã hội sẽ quyết định tính chất
chủ đạo của nền kinh tế.
Đối với một nớc đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội nh nớc
ta thì kinh tế nhà nớc cần và có thể giữ vai trò chủ đạo vì những lý do sau đây:
Thứ nhất: kinh tế nhà nớc dựa trên chế độ công cộng về t liệu sản
xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hớng xã hội hoá của lực lợng sản
xuất.
Thứ hai: kinh tế nhà nớc đại diện cho phơng thức sản xuất tiên tiến
trong nền kinh tế, tạo ra cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới- xã hội xã hội
chủ nghĩa.
Thứ ba: kinh tế nhà nớc nắm giữ những vị trí then chốt, xơng sống
của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của
các thành phần kinh tế khác, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hớng
đã định.
Thứ t: kinh tế nhà nớc là lực lợng bảo đảm cho sự phát triển ổn định
của nền kinh tế, là lực lợng có khả năng can thiệp, điều tiết, hớng dẫn giúp
đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát
triển.
Thứ năm: kinh tế nhà nớc có thể tác động tới các thành phần kinh tế
khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đ-
ờng gián tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thợng
tầng xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu: kinh tế nhà nớc dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học
công nghệ hiện đại, tiên tiến. Do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng
góp phần lớn cho ngân sách nhà nớc và sự tích tụ để có thể không ngừng
tái sản xuất mở rộng.
Thứ bảy: kinh tế nhà nớc là lực lợng nòng cốt hình thành các trung
tâm kinh tế, đô thị mới, là lực lợng có khả năng đầu t vào những lĩnh vực
có vị trí quan trọng sống còn nhng ít ai dám đàu t vì đòi hỏi vốn quá nhiều
mà thời gian thu hồi vốn quá chậm.
Trong xã hội t bản, một xã hội dựa trên sở hữu t nhân về t liệu sản xuất thì
hoạt động kinh doanh sinh lợi là cái chi phối các nhà kinh doanh. Do vậy tính
chất chủ đạo của nền kinh tế này thể hịên ở hiệu quả kinh tế, là lợi nhuận. Nh-
ng con đờng mà chúng ta đang đi là quá độ lên một xã hội mà ở đó bản chất
của nó là bình đẳng-xã hội xã hội chủ nghĩa, vì vậy tính chất chủ đạo của nó
phải thể hiện đợc quan hệ sản xuất đặc thù của xã hội đó. Đáp ứng với nó kinh
10
tế nhà nớc với hình thức sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo là một tất yếu của
nền kinh tế nhiều thành phần trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà n ớc.
Cùng với tíên trình lịch sử, xã hội đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội
khác nhau. Nhng đến nay trên thế giới vẫn song song tồn tại hai hệ thống đại
diện cho hai hình thái kinh tế xã hội là hệ thống t bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa. Lực lợng sản xuất phát triển không ngừng, cùng với nó quan hệ sản
xuất t bản chủ nghĩa dựa trên chế độ t hữu về t liệu sản xuất đã bộc lộ rõ
những khuyết tật kìm hãm lực lợng sản xuất nh:
Về kinh tế: phân hoá giàu nghèo, bóc lột, phân phối không cân
bằng, thất nghiệp, tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, sự phá hoại môi
trờng tự nhiên.
Về chính trị: áp bức, bất bình đẳng, không dân chủ, quyền lợi cá
nhân không đợc đảm bảo, thiếu tự do, mối đe dạo về chiến tranh
Về tinh thần: trống rỗng, suy đồi, sa đoạvà suy cho cùng tất cả
đều bắt nguồn từ chế độ sở hữu t nhân về t liệu sản xuất.
Bởi vậy, để đạt đợc mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là dân chủ,
công bằng, xã hội phải xoá bỏ chế độ t hữu, thiết lập chế độ công hữu. Chế độ
công hữu và chế độ t hữu vì thế cũng trở thành hai tiêu chí cơ bản để phân biệt
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa t bản.
Thiết lập chế độ công hữu là quá trình lâu dài, không thể tiến hành bằng
những biện pháp chủ quan duy ý trí nh trớc đây đã từng tiến hành. Nớc ta đang
trong thời kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nớc ta là nền kinh
tế nhiều thành phần. Định hớng trong kinh tế đòi hỏi phải có vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nớc.
Với tiềm lực vật chất to lớn, gồm nhiều bộ phận hợp thành mà không một
thành phần kinh tế nào có đợc và trên nền tảng sở hữu toàn dân và quyền lực
chính trị của nhà nớc, kinh tế nhà nớc của chúng ta có đầy đủ tiền đề để thực
hiện vai trò chủ đạo. Tuy nhiên trong thực tế, để thực hiện đợc vai trò chủ đạo,
bản thân khu vực kinh tế nhà nớc phải đủ mạnh, có thực lực thật sự. Bởi vì:
lực lợng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lợng vật chất, vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nớc phải đợc thông qua lực lợng vật chất để cải tạo các thành
phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo chung, không thể lấy ý muốn chủ quan hay
ý trí chính trị áp dụng cho nó. ý chí dó phải đợc đảm bảo bởi lực lợng vật chất
đủ sức tác động, định hớng, chi phối trực tiếp tới nền kinh tế. Do vậy, vai trò
chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nớc đợc thể hiện ở các nội dung sau:
11
Thứ nhất: kinh tế nhà nớc trở thành lực lợng vật chất và là công cụ
sắc bén để nhà nớc thực hiện chức năng định hớng, điều tiết và quản lý vĩ
mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản
lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nớc với t cách
là một yếu tố, một chủ thể đặc biệt của nền kinh tế đất nớc. Nó có vai trò
vĩ mô điều hành trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, làm cho nền kinh tế đợc
hoạt động thông suốt, tạo lập những cân đối lớn theo định hớng xã hội chủ
nghĩa mà thị trờng không tự điều chỉnh đợc. Đây là một trong những vai
trò cực kỳ quan trọng của kinh tế nhà nớc. Bởi là trong nền kinh tế thị tr-
ờng mặc dù sự can thiệp của nhà nớc là cần thiết và đúng đắn nhng nếu
không có một lực lợng kinh tế mạnh làm hậu thuẫn thì trong nhiều trờng
hợp sự can thiệp đó có thể bị cơ chế thị trờng vô hiệu hoá. Mặt khác, trong
cơ chế thị trờng nhà nớc thờng xuất hiện nh một chủ thể kinh tế có lợi ích
độc lập với các chủ thể kinh tế khác và trong một số trờng hợp lợi ích của
nhà nớc có thể mâu thuẫn với lợi ích cục bộ của các thành phần kinh tế
khác, đặc biệt là thành phần kinh tế t bản t nhân. Chính vì vậy, trong nhiều
trờng hợp sự điều tiết của nhà nớc có thể không thuận chiều với động cơ
lợi nhuận và lợi ích cá nhân của các chủ thể kinh tế khác. Để đảm bảo hiệu
lực điều tiết, nhà nớc cần một tiềm lực kinh tế đủ để hoặc đền bù xứng
đáng cho sự thua thiệt về lợi ích của các chủ thể kinh tế hớng họ hành
động theo mục tiêu nhà nớc định ra, hoặc đủ sức cạnh tranh thắng thế các
thành phần kinh tế khác. Tiềm lực kinh tế ấy do khu vực kinh tế nhà nớc
cung cấp phần rất cơ bản.
Thứ hai: hoạt động của khu vực kinh tế nhà nớc là nhằm mở đờng,
hớng dẫn, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế
khác( chức năng tạo lập môi trờng). Tức là nó phải tạo đợc tiền đề thuận
lợi để khai thông và tận dụng mọi nguồn lực ở tất cả các thành phần kinh
tế khác nhau vì sự tăng trởng chung của nền kinh tế, nền kinh tế phát triển
theo đúng mục tiêu đã chọn.
Thứ ba: kinh tế nhà nớc là lực lợng xung kích chủ yếu thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Mặc dù quan điểm công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế đã
đợc khẳng định. Nhng trong bối cảnh tiềm lực của khu vực dân doanh còn
cha đủ mạnh để đảm đơng nhiệm vụ nặng nề do quá trình công nghiệp hoá
đất nớc đặt ra nên trong giai đoạn hiện nay kinh tế nhà nớc đặc biệt là đầu
t mới của nhà nớc vẫn là lực lợng chủ chốt đi đầu trong quá trình chuyển
nớc ta thành nớc công nghiệp hiện đại, văn minh, tiến bộ. Để đảm đơng đ-
ợc nhiệm vụ này kinh tế nhà nớc phải huy động tổng lực, trớc hết là chiến
lợc đầu t đúng đắn, trong đó bao hàm cả đầu t trực tiếp của nhà nớc lẫn
chính sách khuyến khích để tập thể và t nhân tập trung vào các ngành mũi
12
nhọn, tạo đà tăng trởng nhanh cho nền kinh tế. Tiếp nữa là nỗ lực về tài
chính và ngoại giao, chính trị để thực thi chiến lợc chuyển giao công nghệ
có hiệu quả với phơng châm kế thừa tích cực tiến bộ kỹ thuật mà loài ngời
đã đạt đợc. Đồng thời với các nỗ lực trên là chiến lợc về đào tạo, chiến lợc
tranh thủ chất xám của thế giới, là nỗ lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
tìm kiếm thị trờng. Điểm mới ở đây là kinh tế nhà nớc không tiến hành
công nghiệp hoá một cách đơn độc nh trớc kia mà trở thành hạt nhân tổ
chức, thu hút và định hớng để lôi kéo các thành phần kinh tế khác cùng
tham gia vào quỹ đạo công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Thứ t: kinh tế nhà nớc nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế
nhằm đảm bảo cân đối vĩ mô của nền kinh tế cũng nh tạo đà tăng trởng lâu
dài, bền vững và hiệu quả cho nền kinh tế. Đó là các khu vực nh công
nghiệp sản xuất t liệu sản xuất quan trọng, các ngành công nghiệp mũi
nhọn, kết cấu hạ tầng vật chất cho nên kinh tế(giao thông, bu chính, năng
lợng). Các ngành có ảnh hởng to lớn đến kinh tế đối ngoại nh các liên
doanh lớn, xuất nhập khẩu quy mô lớn, hoặc các lĩnh vực có liên quan đến
an ninh quốc phòng và trật tự xã hội. Tuy nhiên quan điểm nắm giữ vị trí
then chốt đợc hiểu theo một cách linh động, có nghĩa là nhà nớc không
độc quyền cứng nhắc trong các lĩnh vực ấy mà cần có hợp tác liên doanh
hợp lý với các thành phần kinh tế khác, nhất là trong lĩnh vực cơ sở hạ
tầng, xuất nhập khẩu và công nghiệp. Hơn nữa, sự cần thiết để nhà nớc
kiểm soát từng lĩnh vực cụ thể cũng đợc xem xét theo từng thời kỳ, đặc
biệt là trong lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn. Khi mới thành lập thì đầu t
của nhà nớc sẽ là chủ yếu, khi ngành sản xuất mới đã đi vào ổn định thì
không nhất thiết cần đầu t nhà nớc mà có thể chuyển giao cho các thành
phần kinh tế khác đảm nhiệm. Ngợc lại cũng có những lĩnh vực lúc đầu
không cần đầu t nhng đến lúc nào đó rất cần đầu t trực tiếp của nhà nớc thì
có thể chuyển những cơ sở kinh tế đó sang hình thức sở hữu nhà nớc bằng
cách nhà nớc đứng ra mua cổ phiếu hoặc quốc hữu hoá có đền bú cơ sở
sản xuất t nhân đó. Kinh tế nhà nớc phải tạo ra lợng hàng hoá và dịch vụ
khả dĩ chi phối đợc giá cả thị trờng, dẫn dắt giá cả thị trờng bằng chất lợng
và giá cả sản phẩm dịch vụ do mình cung cấp. Mặt khác trong điều kiện
toàn cầu hoá nền kinh tế, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển
nh vũ bão, để giữ vững độc lập dân tộc và sự ổn định về kinh tế xã hội,
kinh tế nhà nớc càng phải vững mạnh và giữ vững vị trí then chốt tong nền
kinh tế.
Thứ năm: kinh tế nhà nớc trực tiép tham gia khắc phục mặt trái của
cơ chế thị trờng, điều chỉnh các biến động trong quan hệ cung cầu hàng
hoá và dịch vụ do cơ chế thị trờng tạo ra. Trong các lĩnh vực hoạt động cần
thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội, nhng khả năng sinh lời cấp thiết,
13
không hấp dẫn t nhân đầu t vào nh cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi
xã hội và bảo vệ môi trờng thờng kinh tế nhà nớc phải trực tiếp đảm
nhiệm.
Thứ sáu: kinh tế nhà nớc phải là hình mẫu về ứng dụng tiến bộ khoa
học công nghệ, về năng suất, chất lợng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp
hành pháp luật, quan điểm hiện tại của Đảng ta, chế dộ xã hội mới chỉ có
thể dựa trên nền tảng là công hữu(sở hữu nhà nớc và tập thể), cũng có
nghĩa là kinh tế nhà nớc và kinh tế hợp tác là yếu tố tiến bộ hơn chủ nghĩa
t bản về năng suất, chất lợng và hiệu quả. Đây thực chất là sự lựa chon chủ
nghĩa xã hội. Trên thực tế kinh tế nhà nớc tiềm tàng các yếu tố cho phép
nó u việt hơn nh quy mô hữu lớn và khả năng tập trung cao cho nghiên cứu
khoa học, đổi mới công nghệ, triển khai công nghệ mớiTuy nhiên để tất
cả các yếu tố tiềm tàng trở thành hiện thực cần phải có mô hình và cơ chể
tổ chức quản lý phf hợp thì mới phát huy đợc thế mạnh.
Thứ bảy: thực hiện dự trữ quốc gia nhằm đảm bảo hành lang an toàn
cho nền kinh tế. Nền kinh tế thị trờng chứa đựng trong nó rất nhiều biến
động, đặc biệt là từ những thập kỷ 80 trở lại đây, kinh tế thế giới lâm vào
khủng hoảng có chu kỳ. Trong khi nớc ta là một nớc đang phát triển, nếu
không thực hiện dự trữ thì khó laòng có thể giải quyết đợc các hậu quả khi
có biến động. Công việc này các thành phần kinh tế khác không đảm bảo
đợc.
Thứ tám: Giải quyết các vấn đề xã hội. ở một nớc kinh tế còn cha
phát triển, lại trải qua thời kỳ chiến tranh kéo dài nh Việt Nam, giải quyết
các vấn đề xã hội, nhất là vấn đề đền ơn đáp nghĩa với ngời có công với n-
ớc là nhiệm vụ phức tạp khó khăn nhng lại có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã
hội rất quan trọng, thể hiện bản chất u việt của chế độ chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ
chế thị trờng, việc giải quyết các vấn đề xã hội không thể một lực lợng t
nhân nào có thể đảm nhiệm đợc. Chính thực tế đó đòi hỏi nhà nớc với
trách nhiệm là ngời đảm bảo ổn định xã hội, tạo tiền đề để mỗi ngời có thể
phát triển toàn diện, phải là lực lợng chính trong việc giải quyết các vấn đề
xã hội, kinh tế nhà nớc sẽ là lực lợng vật chất và công cụ để nhà nớc thực
hiện, hoàn thành nhiệm vụ nói trên.
Thứ chín: kinh tế nhà nớc tạo nền tảng cho xã hội mới. Khu vực
kinh tế nhà nớc gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong đó hệ thống doanh
nghiệp nhà nớc là bộ phận cơ bản nhất. Tuy nhiên, điều cần phải luận kỹ ở
đây là vai trò cụ thể của doanh nghiệp nhà nớc trong từng giai đoạn phát
triển, để trên cơ sở đó có giải pháp tổ chức quản lý đúng, vừa đảm bảo vai
14