Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

skkn Một số biện pháp giúp dạy tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.14 KB, 17 trang )

BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: “Một số biện pháp giúp dạy tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 3”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1/ Lí do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh
4 kĩ năng đó là “ nghe - nói- đọc - viết” trong đó môn Tiếng Việt có các phân môn
như: Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn, tập viết... trong đó,
phân môn luyện từ và câu là phân môn có tính chất tạo lập văn bản, đó là bài nói, bài
viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng , thông qua đó con người
thực hiện quá trình tư duy chiếm lĩnh tri thức trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm
giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống.
Luyện từ và câu là một trong những phân môn có vai trò đặc biệt quan trọng
trong hệ thống ngôn ngữ nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. Phân môn này đòi
hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ nhiều phân môn. Phân môn
Luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh,
cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu , rèn cho học sinh kĩ năng
dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thực hiện tư tưởng, tình cảm của mình,
đồng thời có khả năng hiểu và sử dụng các kiểu câu của người khác nói ra trong hoàn
cảnh giao tiếp nhất định. Vì vậy, Luyện từ và câu được coi là phân môn có tính tổng
hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình
phân môn luyện từ và câu có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy luyện từ và câu
phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ ràng hơn. Ngoài phương pháp của người giáo
viên, học sinh cần có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc
dạy tốt phân môn Luyện từ và câu không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là
phương tiện rèn kĩ năng nói, viết, cách thành văn cho học sinh.
Để thực hiện việc đổi mới phương pháp có hiệu quả và có sự thống nhất trong
nhà trường và trong việc chỉ đạo dạy và học phân môn Luyện từ và câu. Giáo viên
phải chủ động tổ chức tốt việc thực hiện đổi mới phương pháp và các hình thức tổ
chức dạy học phân môn Luyện từ và câu nhằm đạt được mục tiêu đề ra, đó là nhằm
rèn cho học sinh thực hiện tốt bốn kỹ năng “nghe, nói, đọc, viết”.
Ngôn ngữ (nói – viết) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội.


Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết.
Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói
chung và phân môn Luyện từ và câu lớp 3 nói riêng. Với đặc thù của môn luyện từ và
câu là mang tính khô khan, trừu tượng đối với học sinh, vốn từ ngữ của học sinh còn


rất hạn hẹp, học sinh chưa mạnh dạn trong việc nói trước tập thể,các bài tập trong
sách giáo khoa nhiều, đa dạng và cấu tạo tương đối khó với học sinh, học sinh gặp
khó khăn trong việc giải nghĩa từ, đặt câu chưa hay, chưa đúng so với yêu cầu, chưa
phân biệt được nghĩa của từ. Đối với gia đình học sinh thì vốn từ ngữ phổ thông đa
phần còn hạn chế và chưa có sự nhận thức đúng mức về tập quan trọng của phân môn
Luyện từ và câu, bên cạnh đó một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em
mình, còn có quan điểm “ trăm sự nhờ nhà trường, nhờ cô” cũng làm ảnh hưởng đến
chất lượng học tập của bộ môn. Nên trong thực tế ở Trường tiểu học Ninh Lộc việc
giảng dạy phân môn Luyện từ và câu mất nhiều thời gian, đa phần cung cấp kiến thức
theo hướng một chiều và việc dạy của một số giáo viên chưa thực sự đổi mới phương
pháp, hình thức tổ chức trong dạy phân môn luyện từ và câu chưa có các biện pháp
rèn luyện cụ thể cho các em để từ đó các em học tốt phân môn này, nhằm trang bị cho
các em vốn từ phong phú, cách viết câu trong phân môn tập làm văn dẫn đến kết quả
đạt được chưa cao. Vấn đề đặt ra: Người giáo viên dạy luyện từ và câu ra sao để đạt
hiệu quả như mong muốn ?
Bởi những lí do trên nên tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 3”.
II. Thực trạng:
Để có những biện pháp dạy – học tốt môn từ ngữ này, chúng ta hãy nhìn lại và đánh
giá hiện trạng năm học.
1/ Thuận lợi:
* Đối với giáo viên:
- Trang thiết bị, đồ dùng dạy học tương đối đầy đủ và hiện đại đảm bảo phục vụ cho
hoạt động giảng dạy của GV.

- GV được tập huấn nắm được nội dung, phương pháp dạy học, biết bám sát mục
tiêu để lập kế hoạch bài dạy. Một số GV đã tổ chức được các hoạt động dạy- học hiệu
quả.
* Đối với học sinh:
- Đa số học sinh địa bàn gần trường, các em có ý thức học tập tốt.Học sinh đều chăm
ngoan, ham tìm hiểu và có thái độ chủ động tích cực trong học tập.
- Đến lớp 3,kỹ năng đọc viết của HS tương đối vững chắc nên việc dạy các kiểu câu
trần thuật đơn theo mẫu khá thuận lợi.
2/ Khó khăn:
* Đối với giáo viên:
Bên cạnh những thuận lợi vẫn còn nhiều hạn chế trong quá trình dạy học phân môn
Luyện từ và câu , đó là những hạn chế nổi bật sau:


- GV thiếu nghiên cứu kỹ SGK, dạy bài nào biết bài đó( chưa đặt bài dạy vào hệ
thống kiến thức, kỹ năng của môn học, tiết học) nên thiếu củng cố, khắc sâu, mở rộng
cho HS).
- Tiết dạy rời rạc, chưa thể hiện được mối liên hệ giữa các bài tập trong cùng một bài
học.
- Việc lựa chọn hình thức và phương pháp dạy học còn mang tính hình thức, chiếu lệ
chưa phù hợp với yêu cầu, nội dung từng bài.
- Không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của HS.
* Đối với học sinh:
- Đối với HS lớp 3 khả năng nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập
còn yếu.
- Các từ cần giải nghĩa đa số là từ Hán Việt nên học sinh khó hiểu, khó giải nghĩa.
- Các từ, các thành ngữ, tục ngữ cần giải nghĩa, cần tìm có nghĩa gần giống nhau,
khiến cho học sinh khó phân biệt nghĩa của chúng.
- Ranh giới giữa các từ hoặc từ trong tiếng việt không mang tính xác định, không dễ
nhận biết nên các em còn thiếu tự tin khi học phân môn này.

3. Thực trạng chung của vấn đề:
Để xây dựng được kế hoạch thực hiện nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát tình hình
thực tế việc dùng từ, đặt câu của học sinh ngay từ đầu năm học. Qua khảo sát đầu
năm tôi thống kê học sinh còn mắc lỗi về dùng từ, đặt câu rất nhiều, có một số học
sinh dùng từ chưa chính xác, chưa hiểu nghĩa từ, đặt câu chưa đúng ngữ pháp, chưa
biết dùng hình ảnh so sánh (đã học ở lớp hai). Cụ thể khảo sát chất lượng môn Luyện
từ và câu đầu năm học 2013-2014, tôi thống kê kết quả như sau:
Lớp
SSHS
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
3/2
25
5
20
8
32
10
40
2

4
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lý luận:
a. Cơ sở khoa học:
Mỗi chúng ta ai cũng tự nhận thấy rằng ngôn ngữ hết sức phong phú và đa
dạng. Con người ngay từ khi sinh ra đến tuổi đi học đều hình thành cho mình vốn
ngôn từ, quy tắc giao tiếp nhất định. Bởi vậy, để tăng nhanh được vốn từ, để chính
xác hóa nội dung ngữ nghĩa của từ cũng như thúc đẩy việc hình thành kĩ năng giao
tiếp diễn ra một cách nhanh chóng, thuận lợi không thể không chú ý đến việc rèn
luyện,trau dồi cho các em vốn kiến thức về từ ngữ qua phân môn Luyện từ và câu.
Phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh: Mở rộng hệ thống hóa vốn từ và trang bị
cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu; rèn luyện cho học sinh kĩ năng


dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu; bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ
đúng, nói và viết thành câu; rèn luyện ý thức sử dụng Tiếng Việt có văn hóa trong
giao tiếp.
Với mục đích như vậy, việc dạy học Luyện từ và câu chiếm vị trí hết sức quan
trọng trong nhà trường cũng như cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để tìm
hiểu và học tốt các môn học khác.
b. Cơ sở thực tiễn:
Phân môn Luyện từ và câu là phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt, nhằm
mở rộng vốn từ, cung cấp những hiểu biết sơ giản về từ loại và về kiểu cấu tạo của
các từ thông qua vốn từ các em sẵn có các từ mới học. Đồng thời rèn kỹ năng nói,
viết thành câu, dùng một số dấu câu khi viết, cung cấp những mẫu câu cần thiết đế
học sinh vận dụng trong giao tiếp và học tập.
Đối với học sinh lớp 3 do vốn sống, vốn từ của các em còn quá ít, mà chúng ta
đã biết từ ngữ, ngữ pháp trong tiếng Việt rất phong phú, như nhiều người thường nói
“ Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Bởi vậy làm cho các em hiểu
đúng đắn về từ, câu để có thể phát triển một cách đồng đều về mọi mặt là một việc

không dễ.
Chính vì nhận thức trên, chúng tôi nghĩ rằng muốn học sinh học tốt phân môn
Luyện từ và câu giai đọan đầu ở bậc tiểu học, không gì hơn phải thiết kế và giảng
dạy sao cho tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả cao mà vẫn đảm bảo được
nguyên tắc học sinh là nhân vật trung tâm, phát huy được tính chủ động tích cực của
từng học sinh, của tập thể học sinh trong giờ học.
II. Các giải pháp, biện pháp thực hiện:
Từ thực tế trên, tôi nhận thấy để thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho giờ
học Luyện từ và câu trở nên“nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn, chất lượng hơn” theo
hướng dẫn nhiệm vụ dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Qua quá trình nghiên cứu,
tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy phân môn Luyện từ và câu và nâng cao chất
lượng học của học sinh, người giáo viên cần phải thực hiện tốt những biện pháp sau:
Biện pháp 1: Giáo viên cần nắm vững những nội dung cần dạy học cho học sinh
trong từng tiết học cũng như nội dung của bộ môn xuyên suốt năm học:
Để giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn Luyện từ và câu, giáo viên phải xem xét
hệ thống bài tập, cấu trúc tri thức Tiếng Việt cần hình thành cho học sinh. Nguyên tắc
phát triển tri thức - vốn từ Tiếng Việt và kiến thức – nguyên tắc ngữ pháp để làm cơ
sở định hướng chọn lọc những phương pháp – phương tiện dạy học thích hợp thực
hiện một cách có hệ thống, đạt hiệu quả bài dạy.
1/ Các bài tập về từ:
1.1 Loại bài tập giúp học sinh mở rộng vốn từ theo chủ điểm:


Loại bài tập này ngoài tác dụng giúp học sinh mở rộng vốn từ còn có tác dụng hình
thành và phát triển cho các em khả năng tư duy có hệ thống về mối quan hệ phương
ngữ. Về cách dạy loại bài tập tìm từ cùng chủ điểm, giáo viên cần chú ý đến từ mẫu,
đó là điểm tựa có tác dụng gợi ý định hướng cho học sinh trong quá trình tìm từ.
Đồng thời giáo viên hướng dẫn cho các em xác định đúng yêu câu của bài tập.
Ví dụ: Tìm những từ ngữ chỉ gộp những người trong gia đình ( chủ điểm: Mái ấm )

M: Ông bà, chú cháu…….
Học sinh tìm: Bố mẹ, anh chị……. ( cùng chủ điểm: Mái ấm)
1.2/ Loại bài tập giúp học sinh nắm nghĩa của từ, mở rộng vốn từ theo quan hệ
ngữ nghĩa:
Đối với bài tập này, giáo viên cần giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập là
hiểu nghĩa của từ. Do đó, giáo viên cần dựa vào hệ thống câu hỏi để học sinh thực
hiện tìm những từ có nghĩa ấy hoặc những từ đó có nghĩa như thế nào. Sau đó giáo
viên chữa một phần nhỏ của bài tập làm mẫu bằng cách gọi 1 học sinh làm cho cả lớp
theo dõi góp ý. Giáo viên tiến hành tổ chức cho học sinh cả lớp làm bài tập. Cuối
cùng giáo viên tổ chức cho học sinh trong lớp trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra
những điểm ghi nhớ về kỹ năng và kiến thức: học sinh nắm nghĩa của từ và biết cách
vận dụng làm bài tập.
Ví dụ: Tìm các từ:
a) Chỉ trẻ em.
Mẫu : thiếu niên.
b) Chỉ tính nết của trẻ em.
Mẫu : ngoan ngoãn.
c) Chỉ tình cảm của người lớn đối vơi trẻ em. Mẫu : thương yêu.
Loại bài tập này, dựa trên mối quan hệ ngữ nghĩa các từ. Nói cách khác là giữa các từ
có mối quan hệ với nhau về nghĩa như: quan hệ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa. Để
tiến hành tìm các từ ngữ có quan hệ với nhau về nghĩa nhằm mở rộng và phát triển
vốn từ cho các em, làm phong phú vốn từ. Như vậy, giáo viên phải hướng dẫn học
sinh nắm nghĩa của từ cho sẵn, để định hướng tìm đúng từ cần tìm theo những từ mà
bài tập đã cho. Ngoài ra, giáo viên cần hướng dẫn cho các em nắm được quan hệ của
từ như quan hệ đồng nghĩa là gì? ; Gần nghĩa là gì?; Trái nghĩa là gì? . Từ đó việc
liên hệ tìm từ của học sinh sẽ dễ dàng hơn.
Ví dụ: Tìm từ trái nghĩa với từ:
tốt, lười biếng, nhanh…
Tìm từ đồng nghĩa với từ: chăm chỉ, siêng năng…
Tìm từ gần nghĩa với từ: vui vẻ, lo lắng…

Các loại bài tập kiểu này thường có từ cho sẵn gọi là từ mẫu , từ điểm tựa làm cơ
sở. Từ đó, học sinh tự liên hệ tìm hiểu mối quan hệ của chúng. Đối với trường hợp từ
cho sẵn có nghĩa trừu tượng, khó nhận biết, để trợ giúp hoạt động tìm từ cho học sinh,
giáo viên có thể giải thích nghĩa của từ cho sẵn và nêu một số ngữ cảnh điển hình


trong đó có sử dụng từ cho sẵn ấy để học sinh phát hiện từ. Khi đó việc tìm từ của các
em sẽ đúng hướng, đúng yêu cầu của bài tập và đơn giản hơn nhiều.
Ví dụ: Tìm một số từ có tiếng bóng hoặc có tiếng chạy.
1.3/ Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ:
Dạng bài tập này dựa trên quan hệ liên tưởng có tác dụng rất lớn trong việc giúp
học sinh mở rộng và phát triển vốn từ. Về cách dạy các dạng bài tập này, giáo viên
hướng dẫn các em lần lượt tự chọn và ghép với các tiếng còn lại. Nếu tạo ra từ ghép
quen thuộc hoặc quen dùng thì các em tự ghép được.
Ví dụ: Hãy kể các môn thể thao bắt đầu bằng tiếng:
a) Bóng
Mẫu: bóng đá, bóng bàn, bóng chuyền.
b) Chạy
c) Đua
d) Nhảy
1.4/ Loại bài tập tìm từ ngữ cùng chủ điểm:
Loại bài tập này, ngoài tác dụng giúp học sinh mở rộng vốn từ, còn có tác dụng
hình thành và phát triển cho các em khả năng tư duy có hệ thống về mối quan hệ
phương ngữ. Về cách dạy loại bài tập tìm từ cùng chủ điểm, giáo viên cần chú ý
đến từ mẫu, đó là điểm tựa có tác dụng gợi ý định hướng cho học sinh trong quá
trình tìm từ. Đồng thời giáo viên hướng dẫn cho các em xác định đúng yêu câu
của bài tập.
Ví dụ: Tìm những từ ngữ chỉ gộp những người trong gia đình ( chủ điểm: Mái
ấm )
M: Ông bà, chú cháu…….

Tìm những từ nói về tình cảm yêu thương giữa anh chị em (chủ điểm: Anh em)
M: đùm bọc, khuyên bảo, chăm sóc……
1.5/ Loại bài tập cung cấp về từ loại:
Đối với loại bài tập này, ở lớp 3 thường tập trung phát triển vốn từ cho học sinh và
lồng ghép trong nhiều dạng bài khác nhau. Những từ loại ở đây chỉ là những kiến
thức sơ giản về danh từ, động từ, tính từ như cung cấp cho các em nắm được
những từ chỉ người, con vật, đồ vật; từ chỉ hoạt động, trạng thái; từ chỉ đặc điểm,
tính chất. Việc hướng dẫn làm các bài tập này, giáo viên cần chú ý dẫn dắt các em
dựa vào kinh nghiệm sống của bản thân là chủ yếu để vận dụng vào làm bài, giáo
viên tránh giải thích dài dòng hoặc sa vào lý thuyết. Qua việc cung cấp các từ loại,
giáo viên cần giúp các em biết dùng các từ loại đó đặt câu cho phù hợp.
Ví dụ: Đọc khổ thơ dưới đây và trả lời câu hỏi:
Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn tròn


Trên sân, trên cỏ.
Tìm các từ chỉ hoạt động trong khổ thơ trên?
Hoạt động chạy của những chú gà con được miêu tả bằng cách?
2/ Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu:
2.1/ Loại bài tập dùng từ đặt câu:
Loại bài sử dụng từ này chủ yếu luyện cho học sinh biết kết hợp các từ ngữ trong
câu có tác dụng rèn luyện tư duy hệ thống các từ cho các em. Như vậy khi các từ
kết hợp với nhau để tạo nên câu thì ở chúng hình thành mối quan hệ về ý nghĩa và
quan hệ về ngữ pháp. Do đó muốn “dùng từ đặt câu” đúng thì các em phải thiết
lập được mối quan hệ về ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp giữa các từ phải hợp lý. Đối
với kiểu bài tập này không chỉ liên quan đến vấn đề ngữ pháp nên yêu cầu giáo
viên rèn cho học sinh kỹ năng “lựa chọn từ, kết hợp từ” để tạo thành câu. Giáo
viên lưu ý đến việc hưỡng dẫn cho các em biết dựa vào đặc điểm của sự vật và

hiện tượng để phân loại, phân nhóm từ; mỗi loại và mỗi nhóm từ này là một hệ
thống ngữ nghĩa cho việc dùng từ đặt câu chính xác hơn.
Ví dụ: Dùng mỗi từ ngữ sau để đặt câu theo mẫu Ai là gì?: bác nông dân, em
trai tôi, những chú gà con, đàn cá.
2.2/ Loại bài tập “ đặt câu theo các kiểu câu Ai ( cái gì, con gì)? Là gì?( ở đâu,
làm gì, bằng gì). Ai thế nào? và những bộ phận chính của các kiểu câu ấy”:
Giúp học sinh biết nhận ra và biết đặt câu theo các kiểu câu đơn, ngay những
bài tập đầu tiên ở dạng này, giáo viên cần cho các em nắm rõ yêu cầu của đề bài và
bám theo mẫu cho sẵn, tập trung uốn nắn trong quá trình luyện nói cho học sinh để
giúp các em biết vận dụng tốt khi làm bài tập
Ví dụ: Đặt câu theo mẫu Ai thế nào? để miêu tả:
Một bác nông dân.
Một bông hoa trong vườn.
Một buổi sớm mùa đông.
Mẫu: Buổi sớm hôm nay lạnh cóng tay.
2.3/ Loại bài tập sử dụng dấu câu:
Loại bài tập này giúp các em bước đầu có ý thức và biết đăt dấu chấm, dấu
chấm hỏi, dấu chấm than, dấu phẩy vào đúng chỗ. Trong quá trình hướng dẫn học
sinh làm bài tập, giáo viên cần đảm bảo quy trình sau: Cho các em đọc và xác định
đúng yêu cầu của bài tập, học sinh được tham gia giải một phần bài tập yêu cầu các
em nắm được đặc điểm của câu thông qua đọc nhẩm để tư duy tìm và điền dấu câu
cho thích hợp ( dựa vào vốn sống của các em, ở mức độ kiến thức lớp 2 không có
phần bài học).
Ví dụ: Em hãy chọn dấu chấm hay dấu phẩy để điền vào chỗ trống ( )?
TRÁI ĐẤT VÀ MẶT TRỜI


Tuấn lên bảy tuổi ( ) em rất hay hỏi ( ) một lần ( ) em hỏi bố:
Bố ơi, con nghe nói trái đất quay xung quanh mặt trời. Có đúng thế không bố?
Đúng đấy ( ) con ạ! – Bố Tuấn đáp.

Thế ban đêm không có mặt trời thì sao?
2.4/ Loại bài tập đặt câu theo mẫu hoặc tìm bộ phận của câu thông qua đăt câu
hỏi:
Với loại bài tập trên giúp học sinh biết tư duy có hệ thống về ngữ nghĩa và nắm
vững hơn về cấu tạo câu để thực hành khi nói và viết. Giáo viên cần lưu ý đến đối
tượng học sinh học yếu và giúp các em bằng cách gợi ý, dẫn dắt hướng làm bài thật
dễ hiểu, có như vậy các em mới làm được.
Ví dụ: Dựa theo nội dung các bài tập đọc đã học ở tuần 3, tuần 4, hãy đặt câu theo
mẫu Ai là gì? để nói về:
Bạn Tuấn trong truyện Chiếc áo len.
Bạn nhỏ trong bài thơ Quạt cho em ngủ.
Bà mẹ trong truyện Người mẹ.
Chú chim sẻ trong truyện Chú sẻ và bông hoa bằng lăng.
Ví dụ: Tìm các bộ phận của câu:
Trả lời câu hỏi “ Ai ( con gì, cái gì)?”.
Trả lời câu hỏi “ Làm gì?”.
Đàn sếu đang sải cách trên cao.
Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về.
Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi.
Ví dụ: Đặt câu hỏi cho các bộ phận câu được in đậm:
Mấy bạn học trò bỡ ngỡ đứng nép bên người thân.
Ông ngoại dẫn tôi đi mua vở, chọn bút.
Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng.
3/ Các bài tập về biện pháp tu từ: so sánh và nhân hóa:
Thông qua các bài tập về biện pháp tu từ nhằm giúp các em có nhận biết về các
biện pháp tu từ như: biết phép so sánh, phép nhân hóa. Qua đó, làm cơ sở để các em
bước đầu sử dụng biện pháp tu từ vào việc dùng từ, đặt câu. Loại bài tập này, đòi hỏi
mức đôï phát triển tư duy về ngôn ngữ của các em cao hơn nhiều so với các dạng bài
tập đã nêu ở trên. Do đó. giáo viên phải có vốn kiến thức vững vàng, biết sử dụng thủ
pháp và hình thức dạy học sáng tạo để tạo cho các em hứng thú tìm tòi kiến thức nhờ

chủ động làm các bài tập. Yêu cầu đặt ra là phải cho học sinh xác đinh đúng trọng
tâm yêu cầu của bài tập, phải hướng cho học sinh làm bài tập từ bước dễ làm đến
bước phức tạp hơn. Giáo viên có thể giúp và cùng học sinh làm một phần bài tập, sau
đó hướng dẫn cho cả lớp làm bài tập, trao đổi nhận xét và giáo viên chốt lại kiến thức
cần cung cấp ( kiến thức học sinh cần nắm).


Ví dụ: Tìm những sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ dưói đây:
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao.
Đêm hè, hoa nở cùng sao
Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh.
* Sự vật được so sánh: quả dừa được so sánh với đàn lợn con
tàu dừa được so sánh với chiếc lược
Ví dụ: Đọc và trả lời câu hỏi:
Đồng làng vương phút heo may
Mầm cây tỉnh giấc, vườn đầy tiếng chim.
Hạt mưa mải miết trốn tìm
Cây đào trước cửa lim dim mắt cười.
* Sự vật được nhân hóa:
Mầm cây ( tỉnh giấc ), hạt mưa ( mải miết trên cây ), cây đào ( lim dim mắt )
Biện pháp 2: Thường xuyên tạo ra những tình huống có vấn đề trong tiết học,từ
đó gây cho học sinh những bất ngờ thú vị khi học phân môn này.
Ví dụ 1: Khi dạy bài so sánh trang 42,tập 1 tôi đố học sinh câu hỏi Cái dấu hỏi giống
như cái gì? (Học sinh trả lời: Cái dấu hỏi như vành tai nhỏ). Từ đó, tôi giới thiệu cho
học sinh biết đây là câu có hình ảnh so sánh bài học hôm nay các em sẽ được học bài
“So sánh”.
Ví dụ 2: Khi dạy bài Luyện từ và câu: Bài So sánh - dấu chấm trang 24, tập 1.Trước
khi vào bài tập 3: Đặt dấu chấm thích hợp trong đoạn văn và viết hoa những chữ đầu
câu, tôi nói: Trong bài cuộc họp của chữ viết bạn Hoàng không biết dùng dấu chấm

câu có đoạn bạn viết thế này : Tôi gắn bảng phụ đoạn văn bạn Hoàng viết trên bảng
và cho học sinh đọc “Chú lính bướcvào đầu chú.đội chiếc mũ sắt dưới chân.Đi đôi
đôi giày da trên trán lấm tấm mồ hôi.” Cho học sinh nhận xét đoạn văn bạn Hoàng
viết, bạn dùng dấu chấm đúng hay sai? (Học sinh trả lời ‘Sai’) Giáo viên nói : vậy
bây giờ chúng ta sẽ giúp bạn Hoàng sửa lại dấu chấm câu cho đúng .
Tôi cho học sinh sửa dấu chấm câu cho đúng, học sinh sẽ sửa được và cho học sinh
đọc đoạn văn vừa sửa rồi so sánh với đoạn văn chưa sửa .
Khi học sinh đã sửa xong, giáo viên hỏi : Nếu dùng dấu chấm không thích hợp thì
nghĩa của câu văn thế nào? (Nghĩa của câu văn sẽ khác đi làm cho người đọc cảm
thấy buồn cười). Từ đó học sinh sẽ thận trọng đặt dấu câu,dấu chấm câu cho đúng ở
các bài tập cùng dạng và vận dụng khi viết văn.Những tiết học như thế sẽ sinh động
hơn, học sinh cảm thấy hứng thú học tập hơn.Như vậy tôi đã dùng phương pháp dạy
học nêu vấn đề và đòi hỏi học sinh phải giải quyết vấn đề cho những tình huống đặt
ra.Tình huống có vấn đề đóng vai trò quan trọng trong dạy học nêu vấn đề.Việc giải
quyết vấn đề trong tình huống cụ thể, học sinh nắm tri thức và phát triển tư duy sáng


tạo.Phương pháp này nhằm phát huy tính độc lập suy nghĩ và tính sáng tạo của học
sinh.
Biện pháp 3: Tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập mở rộng vốn từ và hệ
thống hoá vốn từ:
Từ tồn tại trong đầu óc con người được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất
định. Nhờ quy luật này, từ được tích luỹ nhanh chóng hơn. Cũng nhờ quy luật
này, từ mới có thể sử dụng được trong lời nói, vì khi sử dụng từ, nhờ hệ thống liên
tưởng, học sinh sẽ nhanh chóng huy động, lựa chọn được từ ngữ phù hợp với yêư cầu
giao tiếp.
Toàn bộ loại bài tập mở rộng, hệ thống hoá vốn từ yêu cầu học sinh tìm những
từ theo một dấu hiệu chung nào đó. Ở tiểu học, biện pháp được sử dụng phổ biến nhất
để hệ thống hoá vốn từ là mở rộng vốn từ theo chủ điểm. Các chủ điểm này có phạm
vi rộng hẹp rất khác nhau, vì thế các bài tập rất đa dạng, phong phú. Nhóm từ theo

chủ đlểm bao gồm các từ thuộc nhiều từ loại khác nhau. Cái quy định là đề tài nên
theo phạm vi liên tưởng rộng, tuỳ thuộc vào các nhân học sinh. Giáo viên cần định
hướng những từ nhất định, thu hẹp phạm vi liên tưởng lại. Cũng có thể liên tưởng
theo một dấu hiệu ngữ nghĩa nào đó. Để giải các bài tập này, tôi gợi ý cho học sinh
tìm trong vốn từ của mình những từ có mang những nét nghĩa phù hợp với chủ điểm.
Cũng có thể liên tưởng theo các lớp từ vựng: từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa. Cuối cùng
là tìm các từ có cùng cấu tạo. Giải các bài tập mở rộng và hệ thống hoá vốn từ, học
sinh sẽ xây dựng được những nhóm từ khác nhau. Để hướng dẫn học sinh làm những
bài tập này, giáo viên cần có vốn từ cần thiết và biết phân loại các từ. Các bài tập mở
rộng và hệ thống hóa vốn từ vừa sức với học sinh tiểu học, được các em thực hiện
một cách tự nhiên và có hứng thú.
Biện pháp 3: Tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập giải nghĩa từ:
Tầm quan trọng của việc dạy nghĩa từ cho học sinh đã được thừa nhận từ lâu trong
phương pháp dạy Tiếng Việt. Nó là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ em. Việc giải nghĩa từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở
đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm thì ở đó có dạy nghĩa từ.
Để dạy nghĩa từ, trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa từ và biết giải nghĩa phù
hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh. Ở tiểu học, tôi thường sử
dụng một số biện pháp giải nghĩa sau:
+ Giải nghĩa bằng trực quan là biện pháp đưa ra các vật thật, tranh ảnh, sơ đồ v.v…
để giải nghĩa từ.
Ví dụ: Tôi đưa ra bức tranh vẽ hình quả na, củ sắn, cho học sinh tôi xem và nói
“Đây là quả mãng cầu dai”. “Đây là củ khoai mì”. Khi đọc bài “Hạt gạo làng ta”, tôi
cho học sinh xem tranh “cái quang” để giúp học sinh nắm nghĩa của từ.
Trực quan chiếm vị trí quan trọng trong giải nghĩa từ ở tiểu học vì nó giúp học


sinh hiểu nghĩa từ một cách dễ dàng nhưng cách giải nghĩa này đòi hỏi giáo viên phải
chuẩn bị khá công phu và không thể dùng để giải thích những từ trừu tượng. Biện
pháp này nên dùng ở các lớp đầu cấp. Tương ứng với biện pháp giải nghĩa từ bằng

trực quan có các bài tập giải nghĩa.
Ví dụ: Bài tập yêu cầu học sinh “Nhìn vào hình vẽ chỉ xem đâu là đỉnh núi,
sườn núi, chân núi” hoặc đưa tranh, yêu cầu học sinh tìm một nét nghĩa: “Dựa vào
tranh em hãy nói xe làm là loại xe dùng để làm gì?”.
+ Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh là để cho từ xuất hiện trong một nhóm từ, một
câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ. Tôi không cần giải thích, nghĩa của từ được bộc
lộ nhờ ngữ cảnh.
Ví dụ: Để giải nghĩa từ “rực rỡ”, tôi đưa ra câu “Những đoá hồng rực rỡ đang
đón chào nắng sớm”.
+ Giải nghĩa từ bằng đối chiếu, so sánh với từ khác.
Ví dụ: Giải nghĩa từ “đồi” bằng cách so sánh “đồi” với “núi”: đồi thấp hơn núi,
sườn thoai thoải hơn”. Cách giải nghĩa này sẽ được xây dựng thành các bài tập kiểu
“Đồi khác núi như thế nào?”…
+ Giải nghĩa bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa. Ví dụ: Hãy giải nghĩa các từ
dưới đây bằng từ trái nghĩa với nó: trẻ con, cuối cùng, xuất hiện, bình tĩnh.
+ Giải nghĩa bằng cách phân tích thành các từ tố (tiếng). Ví dụ: “Tâm sự là một
từ ghép gốc Hán, có nghĩa là nỗi lòng (tâm: lòng, sự: nỗi)
+ Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung
nghĩa bằng một định nghĩa. Ví dụ: “cộng đồng là những người cùng sống trong một
tập thể hoặc một khu vực, gắn bó với nhau”. Đây là biện pháp giải nghĩa phổ biến
nhất, là biện pháp giải nghĩa làm cơ sở cho rất nhiều bài tập dạy nghĩa khác nhau.
Hình thức giải nghĩa này có 3 dạng bài tập theo từ tực từ dễ đến khó như sau:
Mức độ thấp nhất: cho sẵn cả nội dung (nghĩa từ) và tên gọi (từ), chỉ yêu cầu học sinh
phát hiện ra sự tương ứng giữa chúng. Đó là kiểu bài tập yêu cầu nối một ô ở
cột này (cột ghi các từ) với một ô tương ứng ở cột kia (cột ghi nội dung các từ) sao
cho hợp nghĩa. Khi hướng dẫn giải bài tập này, giáo viên phải làm cho học sinh hiểu
ý nghĩa của từng yếu tố ở hai cột để thấy sự tương ứng của từng cặp.
Mức thứ hai: cho sẵn nội dung từ (các nét nghĩa của từ) yêu cầu tìm tên gọi
(từ). Ví dụ: bài tập yêu cầu điền tiếp vào chỗ trống trong các câu: “Người làm nghề
cày ruộng, trồng trọt trên đồng ruộng gọi là …”, học sinh phải trả lời được câu hỏi

“Người làm nghề cày ruộng, trồng trọt trên đồng ruộng là ai?” để ghi vào chỗ trống
từ “nông dân” cho đúng.
Mức cao nhất, cho sẵn từ, yêu cầu học sinh xác lập nội dung tương ứng. Phổ
biến nhất là kiểu bài tập đưa ra các câu hỏi trực tiếp “Theo em, thám hiểm là gì?”.
Đây là dạng bài tập tương đối khó với học sinh tiểu học. Để thực hiện loại bài tập


này, học sinh phải có kĩ năng định nghĩa. Giải nghĩa bằng định nghĩa sẽ làm cho ngôn
ngữ và tư duy của học sinh trở nên rõ ràng và sâu sắc hơn. Hình thức định nghĩa vừa
sức với học sinh là bài tập ra dưới hình thức trắc nghiệm, hỏi nghĩa của từ và đưa ra
3, 4 phương án trả lời để học sinh lựa chọn.
Việc phân chia thành các biện pháp và các bài tập giải nghĩa như trên chỉ là
tương đối. Trong thực tế, khi giải nghĩa từ hoặc xây dựng những bài tập giải nghĩa
người ta thường kết hợp các biện pháp khác nhau. Việc lựa chọn các biện pháp và các
bài tập giải nghĩa tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Nó bị quy định bởi nhiệm vụ
học tập, bởi đặc điểm của từ, bởi trình độ của học sinh.
Biện pháp 4: Thay đổi hình thức tổ chức dạy học thường xuyên:
Nếu giáo viên và học sinh chuẩn bị bài rất kĩ mà không có sự thay đổi hình thức tổ
chức dạy học thì các tiết học sẽ trở nên nhàm chán và hiệu quả tiết dạy không cao.Vì
thế tôi thường thay đổi các hình thức tổ chức học tập.Khi thì hoạt động nhóm đôi,
nhóm 4, khi hoạt động cá nhân, khi tổ chức trò chơi học tập.
Ví dụ: thi đua giữa các nhóm xem nhóm nào tìm được nhiều từ đúng và nhanh.Khi
hoạt động nhóm 4 các nhóm thường được thay đổi vị trí.
Ví dụ: 2 em bàn trước và 2 em bàn sau quay mặt về nhau, khi thì phát ra những bông
hoa có 4 màu (Xanh,đỏ,tím,vàng) giáo viên yêu cầu những em có cùng màu hoa với
nhau vào cùng một nhóm và học sinh sẽ rất hứng thú thi đua học tập khi được ghép
nhóm theo hình thức này.
Hoạt động nhóm đôi : Khi thì cho 2 em ngồi cùng bàn, khi thì cho em bàn trên ngồi
quay mặt với em bàn dưới, khi thì đánh số theo em số 1 và số 2 theo từng tổ và những
em số 1 ở tổ này ghép với em số 1 ở tổ kia, làm tương tự với các em số 2.3...

Biện pháp 5: Thường xuyên sử dụng phương pháp trò chơi học tập:
-Học tập thông qua trò chơi là phương pháp có hiệu quả cao trong dạy học phân môn
Luyện từ và câu.Trò chơi học tập không chỉ nhằm vui chơi giải trí mà còn góp phần
củng cố kiến thức, kĩ năng học tập cho học sinh
Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động hấp dẫn học sinh, nó tạo
cho các em ghi nhớ sâu hơn kiến thức vừa được học.
Trò chơi học tập là hình thức tổng hợp trí tuệ giữa các đội chơi, đã tổ chức chơi thì
đội nào cũng muốn giành chiến thắng nên các em đều cố gắng hết mình vì vậy kết
quả học tập sẽ được nâng cao.
Việc sử dụng trò chơi học tập làm cho tiết học giảm bớt phần khô khan tăng thêm
phần sinh động,hấp dẫn. Những bài tập tổ chức chơi trò chơi thường là các bài tập
cuối tiết hoặc các bài tập dưới dạng củng cố mở rộng kiến thức nó thường diễn ra
khoảng 5 đến 6 phút.
Ví dụ : Tiết luyện từ và câu bài so sánh trang 42,tập 1.Trong phần củng cố bài, tôi
chia 3 đội chơi mỗi đội 3 em đại diện cho tổ chơi trò chơi tiếp sức học tập, 3 em trong


đội phải nối tiếp nhau mỗi em viết một câu có hình ảnh so sánh.Kết quả tôi thấy các
em viết được các câu có hình ảnh so sánh rất nhanh và rất hay. Như vậy chỉ trong
khoảng 5 phút các em đã viết được 9 câu câu văn có hình ảnh so sánh mà còn tạo cho
các em không khí thoải mái trong tiết học mà khắc sâu được kiến thức mới học đồng
thời giúp học sinh biết cách sử dụng từ để viết câu có hình ảnh so sánh thành thạo.
Tôi tin rằng những tiết học như thế các em sẽ nhớ lâu hơn và mong muốn được tham
gia các trò chơi ở các tiết tiếp theo.
Biện pháp 6:Tạo tâm thế thoải mái cho các em trong học tập:
Tiết học được coi là thành công nếu tiết học đó học sinh có thể lĩnh hội không chỉ
nội dung chính trong sách giáo khoa mà còn mở rộng được kiến thức mở rộng.Khi
dạy tiết Luyện từ và câu tôi thường lấy thêm các bài tập nâng cao ngoài sách giáo
khoa cho học sinh làm với hình thưc khuyến khích học sinh chứ không áp đặt nên các
em rất thoải mái tiếp nhận những bài tập làm thêm và làm có hiệu quả. Tôi luôn gần

gũi giúp đỡ các em làm tốt các bài tập từ đó học sinh đã hứng thú học phân môn này.
Việc giao tiếp với thầy cô,bạn bè của các em có phần tự tin rất nhiều.Các em áp dụng
vào viết văn cũng tốt hơn.
Biện pháp 7: Sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học
Đồ dùng dạy học thông thường trong tiết Luyện từ và câu là tranh phóng to minh
họa của sách giáo khoa, hay một số vật thực hoặc mô hình để giảng từ và ý. Ngoài ra,
nếu có điều kiện, trong tiết Luyện từ và câu cũng có thể sử dụng các trang thiết bị
hiện đại như máy chiếu hay các băng hình để nghe, xem, minh họa cho nội dung bài
Luyện từ và câu. Tuy nhiên, không nên lạm dụng nếu không thật cần thiết, làm mất
thời gian trong tiết dạy.
VD: Bài tập 1 (TV 3 SGK trang 50 tuần 6).
Bài tập mở rộng vốn từ về trường học qua bài tập giải ô chữ. Đối với bài tập này
giáo viên có thể thiết kế một bảng cài và các chữ cái ứng với các từ tìm được, khi học
sinh tìm được từ theo gợi ý, giáo viên cài lần lượt các chữ cái của từ vào các ô tương
ứng của bảng cài theo từng dòng như vậy sẽ gây được sự chú ý của học sinh hơn.
Biện pháp 8: Vận dụng phương pháp thực hành giao tiếp để tổ chức dạy học
Nội dung dạy học Luyện từ và câu ở lớp 3 được xây dựng qua một hệ thống bài
tập, không có phần lý thuyết nên tổ chức thực hiện tốt các bài tập Luyện từ và câu có
vai trò quyết định đối với chất lượng dạy học phân môn này. Chính vì thế phương
pháp thực hành là phương pháp giảng dạy bắt buộc trong các tiết Luyện từ và câu ở
lớp 3. Nó tạo cơ hội cho học sinh tự hình thành kĩ năng, còn giáo viên lại có ngay
thông tin phản hồi về kết quả học tập của học sinh. Cụ thể giáo viên có thể dùng
phương pháp thực hành giao tiếp để truyền đạt tri thức luyện từ và câu, để dạy sử
dụng từ và câu,…


Để đảm bảo thành công cho các hoạt động thực hành trong các tiết học Luyện từ
và câu, giáo viên phải dành thời gian chuẩn bị các nội dung thực hành sao cho phù
hợp với từng đối tượng học sinh; phải kiểm tra được các hoạt động thực hành của học
sinh để tránh tình trạng học sinh làm sai từ đầu đến cuối hoặc không tham gia thực

hành.
Ví dụ: Tiết Luyện từ và câu ở tuần 6; bài tập 2 giúp học sinh ôn luyện dùng dấu
phẩy để đặt giữa các thành phần câu có cùng một chức vụ ngữ pháp như nhau.
Giáo viên có thể đưa ra 3 cách thực hiện phù hợp với từng đối tượng học sinh
trong lớp. Ba cách đó là:
- Cách 1: Hệ thống câu hỏi gợi mở ( thường sử dụng hướng dẫn đối tượng học
sinh chậm nhất);
- Cách 2: Phiếu sơ đồ trợ giúp ( thường sử dụng hướng dẫn đối tượng học sinh
trung bình);
- Cách 3: Khai thác sử dụng ngữ cảm của học sinh ( đối tượng học sinh khá,
giỏi)
Ba cách trên giáo viên sử dụng một cách linh hoạt. Một bài tập, giáo viên có thể
chia nhóm cùng trình độ để sử dụng cả ba cách để hoàn thành bài tập phù hợp với đối
tượng học sinh.Với những bài khó giáo viên có thể sử dụng cách 1, 2 để hướng dẫn
đối tượng học sinh khá, giỏi khi các em lúng túng, không làm được bài. Đối với
những bài tập mức độ không quá khó đối với học sinh trung bình, giáo viên có thể sử
dụng cách khai thác khả năng ngữ cảm của học sinh. Như vậy cả ba cách trên sẽ được
sử dụng mềm dẻo, linh hoạt tùy thuộc vào nội dung bài tập và đối tượng học sinh cả
lớp.
Ví dụ: Bài 3 ( Tiếng Việt 3 tập 1 – trang 135)
Hãy chép đoạn văn sau và đặt dấu phẩy vào những chỗ thích hợp:
Nhân dân ta luôn ghi sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đồng bào Kinh hay Tày
Mường hay Dao Gia – rai hay Ê – đê Xơ – đăng hay Ba – na và các dân tộc anh em
khác đều là con cháu Việt Nam đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau
sướng khổ cùng nhau no đói giúp nhau.
Cách 1: Hệ thống câu hỏi gợi mở:
- Tìm cặp từ ngữ chỉ tên các dân tộc trong lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Các cặp từ ngữ đó cùng trả lời cho câu hỏi gì ?
- Dùng dấy phẩy tách các bộ phận câu giống nhau cùng trả lời cho câu hỏi Ai ?
- Bác đã khẳng định đồng bào các dân tộc trên đất nước ta là gì ?

- Các từ ngữ đó dùng trả lời cho câu hỏi gì ?
- Dùng dấu phẩy tách các từ ngữ cùng trả lời cho câu hỏi là gì ?


Cách 2 : sơ đồ hỗ trợ
Ai ?

Là gì ?

Đồng bào Kinh hay Tày

Ai ?

Thế nào ?

Cách 3 : Khai thác kinh nghiệm ngữ cảm của học sinh.
Ví dụ: bài 2 (Tiếng Việt 3 tập 2 – trang 35)
Em đặt dấu phẩy vào chỗ nào trong mỗi câu sau:
a) Ở nhà em thường giúp bà xâu kim.
b) Trong lớp Liên chăm chú nghe giảng.
c) Hai bên bờ sông những bãi ngô bắt đầu xanh tốt.
d) Trên cánh rừng mới trồng chim chóc lại bay về ríu rít.
Cách 1: GV đặt câu hỏi gợi mở giúp học sinh biết cách dùng dấu phẩy tách bộ
phận câu trả lời câu hỏi ở đâu ? với bộ phận câu trả lời Ai làm gì ? Ai thế nào ?
Cách 2: Sơ đồ hỗ trợ.
Ở đâu ?

Ai làm gì ? ( Ai thế nào ?)

a)

b)
c)
d)
Cách 3: Khai thác kinh nghiệm ngữ cảm của học sinh.
Biện pháp 9: Thực hiện đổi mới phương pháp trong dạy phân môn Luyện từ và
câu.
Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung
đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp không thể được hình thành
và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển những kĩ năng
này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của
thầy, cô. Các kiến thức về ngôn ngữ văn học, văn hóa, tự nhiên xã hội có thể được
tiếp thu qua lời giảng, nhưng học sinh chỉ làm chủ được những kiến thức này khi các
em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như vậy, những
tư tưởng, tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông
qua sự rèn luyện trong thực tế. Đó là những lý do cắt nghĩa sự ra đời của phương
pháp mới – phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học.


Tích cực hóa hoạt động của người học được hiểu là phương pháp dạy học lấy
người học làm trung tâm, trong đó thầy, cô đóng vai trò người tổ chức hoạt động của
học sinh; mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và
được phát triển.
* Phương pháp thực hiện cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm.
III. Hiệu quả của đề tài nghiên cứu:
Qua nghiên cứu tìm hiểu thực trạng, cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, tìm ra giải

pháp khắc phục và áp dụng thực hiện đối với lớp của mình giảng dạy.Bản thân tôi
thực sự hài lòng về kết quả thu được. Cụ thể như sau:
Chất lượng phân môn Luyện từ và câu trong năm học 2013-2014 :
Sĩ số: 25 HS
Lớp
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
3/2
4
16
8
32
10
40
3
12

Chất lượng phân môn Luyện từ và câu trong năm học 2014-2015 :
Lớp 3/1 - Sĩ số : 25 HS
CUỐI HỌC KỲ I

CUỐI HỌC KỲ II
Xếp loại
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Số lượng
24/25
1/25
25/25
0
Tỉ lệ
96%
4%
100%
0
Chất lượng phân môn Luyện từ và câu trong học kỳ I năm học 2015-2016 như sau:
Lớp 3D - Sĩ số: 20 HS

Xếp loại
Số lượng
Tỉ lệ

CUỐI HỌC KỲ I
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
20/20
0
100 %
0


Qua sáng kiến này còn giúp giáo viên dạy tiết học Luyện từ và câu trở nên tự nhiên,
hiệu quả hơn. Chất lượng các tiết dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh chủ động,sáng
tạo trong việc lĩnh hội kiến thức mới.


Ngoài ra,sáng kiến này còn giúp các em bộc lộ được trí tuệ, tài năng của mình trong
khi làm các bài tập, dạng trò chơi, câu đố… Vốn từ ngữ của học sinh trở nên phong
phú hơn. Khả năng diễn đạt khi nói và viết văn tốt hơn.
Như vậy, kết quả trên đã chứng minh các biện pháp tôi áp dụng là có hiệu quả.
Hiện nay tôi vẫn tiếp tục thực hiện và phát huy những mặt đã đạt được và khắc phục
những mặt còn tồn đọng để chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu ngày một
tốt hơn.
C. KẾT LUẬN
1. Phạm vi ứng dụng:
Đề tài được áp dung đối với học sinh lớp 3, trường Tiểu học Ninh Lộc.
2. Ý nghĩa:
Sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn
Luyện từ và câu Lớp 3 ” mang một ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết. Đề tài đã giúp
giáo viên linh hoạt, sáng tạo hơn khi dạy phân môn luyện từ và câu.
Còn đối với học sinh, đề tài góp phần giúp học sinh lớp ba học tốt hơn nữa phân
môn luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt.
Bên cạnh đó, đề tài còn giúp học sinh có hứng thú học tập phân môn Luyện từ và
câu, từ đó giúp các em học tốt các phân môn khác như phân môn Tập làm văn, Kể
chuyện... và biết áp dụng vào thực tế cuộc sống, làm cho các em thêm yêu quê hương
đất nước.




×