Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.19 KB, 12 trang )

BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
“ Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 ”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Trong chương trình bậc tiểu học, môn Tiếng Việt nhằm hình thành và phát triển
cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và
giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở tiếp
thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn Tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu
có một nhiệm vụ cung cấp nhiều kiến thức sơ giản về viết Tiếng Việt và rèn luyện
kỹ năng dùng từ đặt câu (nói - viết), kỹ năng đọc cho học sinh. Cụ thể là:
1- Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản
về từ và câu.
2- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu
3- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý
thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện cho học sinh các
thao tác tư duy cơ bản ( phân tích, tổng hợp, phán đoán…)
Cung cấp những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn
hóa và văn học của Việt Nam và nước ngoài để từ đó:
- Góp phần bồi dưỡng tình yêu cái đẹp, cái thiện, lòng trung thực, lòng tốt, lẽ phải
và sự công bằng xã hội; góp phần hình thành lòng yêu mến và thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt.
- Góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại: Có tri thức, biết tiếp
thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc, biết rèn luyện lối sống lành mạnh, ham thích
làm việc và có khả năng thích ứng với cuộc sống xã hội sau này.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của phân môn Luyện từ và câu , tôi mạnh
dạn chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở
lớp 4 ”
II. Thực trạng
1. Thuận lợi


a. Giáo viên:
- Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác giảng dạy được tốt nhất. Lớp học
được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất như bàn ghế hợp quy chuẩn, bảng chống lóa,
thiết bị chiếu sáng đầy đủ,…phục vụ cho việc dạy và học được đảm bảo.
- Giáo viên là người có tay nghề, đầy đủ SGK, sách hướng dẫn, tài liệu Chuẩn
kiến thức và được học về cách sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại như máy
tính, đèn chiếu,… Đội ngũ giáo viên luôn yêu nghề, có năng lực sư phạm.
- Phân môn luyện từ và câu của lớp 4 nhìn chung ngắn gọn, cụ thể với 2 dạng
bài: Bài lý thuyết và bài tập thực hành với định hướng rõ ràng.
b. Học sinh:
- Học sinh đã quen với cách học mới từ lớp 1,2,3 nên các em đã biết các lĩnh hội
và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Hầu hết các em học sinh đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập.
1


- Sự quan tâm của phụ huynh học sinh mua sắm cho con em các loại sách tham
khảo,sách hướng dẫn tương đối đầy đủ cũng góp phần nâng cao chất lượng môn học
nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
- Các em học sinh được học đầy đủ hai dạng bài Lí thuyết và Thực hành nên kiến
thức được phần nào củng cố.
2. Khó khăn
a. Giáo viên:
- Trình độ giáo viên chưa đồng đều đôi lúc còn giảng dạy theo phương pháp cũ.
Nên việc phân chia thời lượng lên lớp ở mỗi môn dạy đôi khi còn dàn trải, hoạt
động của cô - của trò có lúc thiếu nhịp nhàng.
- Do đặc thù của môn học, còn quan điểm cho rằng khi dạy Luyện từ và câu
thường khô khan, khó truyền đạt được hết ý trong bài học, nhất là trong cách tìm từ,
giải nghĩa hay dùng từ đặt câu,…. khiến cho học sinh cũng phải tiếp thu bài thụ
động.

b. Học sinh:
- Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình , “ trăm sự nhờ
trường, nhờ thầy cô ” cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của phân môn.
- Có nhiều học sinh chưa thật sự chú trọng khi học môn Tiếng Việt nói chung và
phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Trong tâm tưởng của các em và một số phụ
huynh đều hướng đến học môn Toán nhiều hơn, coi nhẹ Tiếng Việt, cho rằng các em
đọc được, viết được là được. Chính vì vậy, nhiều học sinh không hứng thú với môn
học, thậm chí là thờ ơ và lệ thuộc vào các loại sách tham khảo, hướng dẫn. Các em
không chịu khó học, suy nghĩ hay chú tâm vào môn học.
3. Thực trạng chung và cụ thể của trường, của bộ môn, hoạt động mảng:
- Trường có nhiều điểm phụ, học sinh vừa có dân vùng biển vừa có dân ở vùng
đồng nên có nhiều khó khăn trong giảng dạy và tiếp thu kiến thức các môn nói
chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng.
- Chỉ có điểm chính được học 2 buổi/ ngày, các điểm còn lại học 1 buổi / ngày
nên chất lượng học tập không đồng đều ở các điểm trường.
- Điều kiện kinh tế của địa phương còn khó khăn nên cũng phần nào ảnh hưởng
đến việc học của các em.
- Vốn ngôn ngữ của các em còn hạn chế, độ tuổi vội ăn vội nói, không chịu khó
suy nghĩ.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận
1. Mục đích, ý nghĩa và tác dụng của phân môn trong nhà trường và ngoài xã
hội.
Là người Việt Nam , mỗi chúng ta ai cũng thấy rằng ngôn ngữ chúng ta hết sức
phong phú và đa dạng. Mỗi con người ngay từ khi sinh ra đến tuổi đi học đều hình
thành cho mình vốn ngôn từ Tiếng Vệt, quy tắc giao tiếp nhất định. Bởi vậy, để tăng
nhanh được vốn từ, để chính xác hóa nội dung ngữ nghĩa của từ cũng như thúc đẩy
việc hình thành kĩ xảo ngữ pháp diễn ra một cách nhanh chóng, thuận lợi không thể
không chú ý đến việc rèn luyện, trau dồi cho các em vốn kiến thức về Tiếng Việt
qua phân môn Luyện từ và câu.

Kế thừa và phát huy những ưu điểm của chương trình cũ đồng thời cũng để tạo
ra phong thái mới trong dạy và học hiện nay, chương trình SGK mới ra đời với
2


mong muốn giúp học sinh tiếp cận dễ dàng hơn với tri thức mới. Phân môn Luyện
từ và câu sẽ giúp học sinh tăng thêm vốn từ, biết dùng từ và đặt câu; biết dùng từ
đúng, nói đúng, viết đúng; có ý thức sử dụng Tiếng Việt có văn hóa trong giao tiếp.
Đây là những điều cơ bản mà xã hội yêu cầu ở lứa tuổi của các em.
Với vị trí, vai trò như vậy, việc dạy học Luyện từ và câu chiếm vị trí hết sức to
lớn trong nhà trường cũng như cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để đi
sâu vào tìm hiểu các lĩnh vực khác.
2. Cùng với việc đổi mới chương trình SGK thì việc đổi mới về phương pháp dạy
học cũng là điều tất yếu.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chương trình và SGK là đổi
mới phương pháp dạy và học: chuyển từ phương pháp truyền thụ sang phương pháp
tích cực hóa hoạt động của người học, trong đó người dạy đóng vai trò tổ chức hoạt
động của học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động , bộc lộ mình và được phát
triển. Đó cũng chính là bản chất của phương pháp dạy học mới.
Theo phương pháp tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, SGK Tiếng Việt
4 nói chung, phân môn Luyện từ và câu nói riêng không trình bày kiến thức như
những kết quả có sẵn mà xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh tự
học, tự thực hiện các hoạt động nhằm chiếm lĩnh tri thức và phát triển kĩ năng sử
dụng tiếng Việt.
3. Một số nhận xét về phân môn hiện nay:
- Phương pháp dạy học Luyện từ và câu hiện nay kế thừa và phát huy các ưu
điểm của cách dạy Từ ngữ - Ngữ pháp trước đây.
- Tổ chức dạy học Luyện từ và câu theo phương pháp dạy học hiện nay có nhiều
điểm mới. Đó là tăng cường luyện tập, thực hành, tổ chức nhiều hình thức làm bài
tập khác nhau.

- Học sinh có điều kiện bộc lộ năng lực, khả năng sử dụng và giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt. Có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp.
- Học sinh là người đóng vai trò chủ đạo, làm trung trâm, tự chiếm lĩnh tri thức
dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên.
- Mỗi học sinh đều được hoạt động, bộc lộ mình và được phát triển.
- Học sinh được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của
thầy cô giáo.
- Học sinh được rèn luyện thói quen dùng từ đúng, nói, viết thành câu và ý thức
sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với chuẩn mực văn hóa.
- Trang bị cho học sinh phương pháp học tập để học sinh có thể tự học sau này.
II. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
1.Các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài:
1.1 Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình, yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng của
phân môn.
a. Nội dung chương trình gồm 62 tiết được phân như sau:
Mỗi tuần 2 tiết. Học kì I : 32 tiết gồm 5 chủ điểm. Học kì II : 30 tiết gồm 5
chủ điểm. Mỗi chủ điểm học sinh được học một chủ đề tương ứng với từng chủ
điểm đó.
b. Yêu cầu kiến thức:
- Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ: môn Tiếng Việt có 10 đơn vị học thì phân
môn Luyện từ và câu mở rộng và hệ thống hóa 10 chủ điểm đó.
3


- Trang bị các kiến thức giảng dạy về từ và câu:
. Từ - Cấu tạo tiếng: + Cấu tao từ: từ đơn, từ ghép, từ láy.
+ Từ loại: danh từ, động từ, tính từ.
. Các kiểu câu : câu hỏi, câu kể, câu cầu khiến, câu cảm.

.


Các dấu câu: dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép,
dấu ngoặc đơn.
- Yêu cầu kĩ năng về từ và câu:
+ Từ:
. Nhận biết được cấu tạo của tiếng.
. Giải các câu đố tiếng liên quan đến cấu tạo tiếng.
. Nhận biết từ loại.
. Đặt câu với từ đã cho.
. Xác định tình huống sử dụng thành ngữ - tục ngữ.
+ Câu:
. Nhận biết các kiếu câu.
. Đặt câu theo mẫu.
. Nhận biết các kiểu trạng ngữ.
. Thêm trạng ngữ cho câu.
. Tác dụng của dấu câu.
. Điền dấu câu thích hợp.
+ Dạy tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp:
Thông qua nội dung day Luyện từ và câu ở lớp 4, bồi dưỡng cho học sinh ý
thức và thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu và ý thức sử dụng tiếng Việt
trong giao tiếp phù hợp các chuẩn mực văn hóa:
. Chữa lỗi dấu câu.
. Lựa chọn kiểu câu có kiến thức , kĩ năng mà học sinh cần đạt được và cũng
như là nhiệm vụ mà người giáo viên cần nắm vững khi giảng dạy phân môn
này.
1.2 Nắm vững qui trình dạy:
Cách dạy theo hai dạng bài Lí thuyết và Thực hành.

Dạy bài lí thuyết
1. KTBC: (3-5')

2. Bài mới
a. GBT: 1 - 2'
b. Hình thành KN: 10-12'
- Giáo viên sẽ phân tích ngữ liệu
c. Hướng dẫn luyện tập: 20 - 22'
- Đọc và xác định yêu cầu của bài

Dạy bài thực hành
1. KTBC(3-5')
2. Bài mới
a. GTB (1-2')
b. Hướng dẫn thực hành (32-34')
- Đọc và xác định yêu cầu của BT
- Hướng dẫn 1 phần BT mẫu
- Học sinh là BT
4


tập
- Hướng dẫn giải 1 phần bài tập mẫu- Chấm chữa - nhận xét -> Chốt
KT
- Học sinh làm bài tập
- Chữa, chấm nhận xét -> chốt KT
d. Củng cố -dặn dò (2-3')
c. Củng cố - dặn dò (2-3')
1.3Vận dụng một số phương pháp khi dạy học:
a. Phương pháp vấn đáp:
Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra
những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng dẫn cho học sinh tư duy từng bước
một để các em tự tìm ra kiến thức mới. Phương pháp này nhằm tăng cường khả

năng suy nghĩ, tư duy sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và xác định mức
độ hiểu bài cũng như kinh nghiệm đã có của học sinh. Giúp các em hình thành
khả năng tự lực tìm tòi kiến thức. Qua đó học sinh ghi nhớ tốt hơn, sâu sắc hơn.
Khi sử dụng phương pháp này giáo viên phải lựa chọn câu hỏi phù hợp nội
dung bài học, câu hỏi đưa ra phải rõ ràng, dễ, phù hợp mọi đối tượng học sinh
trong cùng một lớp. Giáo viên dành thời gian cho học sinh suy nghĩ sau đó cho
học sinh trả lời, các em khác nhận xét, bổ sung. Phương pháp này phù hợp cho
cả hai loại bài Lí thuyết và Thực hành.
b. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề:
Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề là cách mà giáo viên đưa ra những
tình huống gợi vấn đề để học sinh phát hiện, tự giác hoạt động, trực tiếp, chủ
động , sáng tạo giải quyết vấn đề thông qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn luyện kĩ
năng.
Khi sử dụng phương pháp này giáo viên phải lưu ý chuẩn bị trước câu hỏi
phù hợp mục đích, yêu cầu, nội dung của bài; đảm bảo tính sư phạm , phù hợp
các đối tượng học sinh, giáo viên chuẩn bị tốt kiến thức để giải quyết vấn đề mà
học sinh đưa ra.
c. Phương pháp trực quan:
Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học trong đó giáo viên sử dụng
các hình ảnh trực quan nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về sự vật và thu
nhận được kiến thức, rèn luyện kĩ năng theo nội dung bài học một cách thuận
lợi. Qua đó thu hút sự chú ý, giúp học sinh hiểu bài, ghi nhớ tốt hơn; khái quát
và phát hiện mối liên hệ của các đơn vị kiến thức.
Muốn vậy, giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát theo nội dung cần
truyền đạt.
d. Phương pháp rèn luyện theo mẫu:
Phương pháp rèn luyện theo mẫu là phương pháp mà giáo viên đưa ra các
mẫu cụ thể, qua đó hướng dẫn học sinh tìm hiểu các đặc điểm của mẫu, cấu tạo
mẫu và thực hiện theo mẫu. Giúp học sinh có điểm tựa để làm bài đặc biệt với
học sinh chậm, khó khăn trong học tập . Còn đối với học sinh học tốt không bắt

buộc phải theo mẫu để học sinh có thể phát huy được tính tích cực, chủ động.
e. Phương pháp phân tích:
5


Đây là phương pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn, tổ chức
của giáo viên tiến hành tìm hiểu theo định hướng bài học từ đó rút ra bài học.
Học sinh tìm tòi huy động vốn kiến thức cũ của mình ra kiến thức mới. Tạo điều
kiện cho tự phát hiện kiến thức ( về nội dung và hình thức thể hiện ).
Trên đây là một số phương pháp tôi áp dụng vào giảng dạy phân môn
Luyện từ và câu, tuy nhiên tôi cũng nhận thấy rằng không có một phương pháp
dạy học nào là tối ưu. Mỗi phương pháp thường có mặt mạnh – mặt yếu của nó.
Mặt mạnh của phương pháp này sẽ hỗ trợ cho mặt yếu của phương pháp kia.
Cho nên để tránh nhàm chán cần phối hợp nhiều phương pháp giảng dạy phù
hợp với nhiều đối tượng học sinh, có như vậy tiết học mới đạt kết quả tốt.
2. Công tác tổ chức:
- Giảng dạy trên lớp được giao chủ nhiệm
- Thăm lớp dự giờ trong khối
- Kiểm tra chất lượng qua các đợt kiểm tra định kì
3. Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
3.1. Lập kế hoạch bài học
Việc lập kế hoạch bài học tức là tạo ra cho mình một cẩm nang cho việc dạy học.
Vì vậy, việc lập kế hoạch bài học của giáo viên phải logic, tích hợp đầy đủ các nội
dung dạy học ở trong đó, phải có đầy đủ mục đích, yêu cầu cũng như quy trình một
bài dạy sao cho phù hợp, có hoạt động người dạy, người học. Khi lập kế hoạch bài
học, giáo viên phải đặt ra những tình huống trong giờ dạy ngoài dự kiến của mình
để có thể kịp thời xử lý, đồng thời tạo cho giờ học sinh động, hấp dẫn.
3.2. Chuẩn bị đồ dùng
Việc dạy học theo phương pháp mới hiện nay đòi hỏi giáo viên phải năng động,
sáng tạo tìm tòi học hỏi để làm tăng hiệu quả giờ dạy đồng thời nâng cao chất lượng

học tập của học sinh. Vì vậy, việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cho mỗi bài dạy là
khâu quan trọng, mỗi bài yêu cầu mỗi loại đồ dùng riêng như: Phiếu học tập, bảng
phụ, hình ảnh trực quan…Đồ dùng dạy học sẽ đóng góp phần lớn cho hiệu quả cũng
như thành công của tiết dạy.
Ví dụ: Khi dạy bài "câu kể Ai là gì?" với yêu cầu dùng câu kể Ai là gì? viết đoạn
văn giới thiệu về gia đình mình hoặc tập thể lớp mình. Chắc chắn rằng, giờ học này
sẽ sinh động hơn khi học sinh có tấm ảnh chụp cả gia đình, các em sẽ nhìn vào đó
để giới thiệu thành viên của gia đình cho cả lớp nghe qua tấm ảnh đó.
3.3. Hướng dẫn chuẩn bị bài
Đây cũng là biện pháp góp phần to lớn vào việc nâng cao hiệu quả dạy học. Sau
mỗi tiết học, giáo viên cần dành chút ít thời gian để hướng dẫn cho các em xem
trước bài học sắp tới và những phần cần chuẩn bị, có như vậy khi học bài mới các
em đã được làm quen, xem qua những kiến thức mình sắp học đồng thời cũng bổ
sung những kiến thức đã học liên quan đến bài mới.
3.4. Tổ chức thực hiện
Đây là điều kiện cần cho một giờ Tiếng Việt nói chung và Luyện tập và câu nói
riêng. Có thể có nhiều hình thức tổ chức khác nhau để thực hiện bài tập:
+ Làm việc độc lập.
+ Làm việc theo cặp, theo nhóm.
+ Làm việc theo lớp.
-Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả làm việc bằng nhiều hình thức khác nhau và
6


phải luân phiên nó bằng phiếu bài tập, có khi là phiếu học tập, có khi là bằng bảng
giấy hay bảng lớp, có khi trình bày bằng miệng. Ngoài ra còn có thể cho thi đua
giữa các nhóm.
-Trao đổi với học sinh sửa đổi cho học sinh hoặc tổ chức cho các em góp ý đánh giá
cho nhau trong quá trình làm bài.
-Sơ kết tổng kết ý kiến, ghi bảng nếu cần thiết.

3.5. Hoạt động ngoài giờ
Ngoài việc dạy học ở trên lớp nên tổ chức cho học sinh những giờ học ngoại khóa
thật bổ ích như tổ chức các trò chơi đố vui để học…các hội thi tìm từ nhanh, đặt câu
đúng…để các em tăng thêm vốn hiểu biết tạo ra sự thi đua, hứng thú trong học tập
Tiếng Việt và phân môn Luyện từ và câu nói riêng.
Giáo viên cũng nên tổ chức cho các em đi tham quan thực tế học tập để các em mở
rộng vốn kiến thức về quê hương, đất nước để giúp đỡ các em hiểu hơn về cuộc
sống, từ đó làm giàu thêm vốn từ. Hay từ trong cuộc sống hằng ngày của các em
thường giao tiếp với thầy cô, bạn bè, cha mẹ…học sinh phải nắm bắt được điều đó
để điều chỉnh cho học sinh trong hoạt động giao tiếp.
Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp như các giờ chơi, chào cờ, các cuộc
toạ đàm trao đổi học sinh sẽ tích luỹ được vốn từ cho mình.
VD: Qua bài ''Mở rộng vốn từ đố chơi - trò chơi'' các em cũng thấy được những trò
chơi nào có lợi - Những trò chơi có hại, cần tránh.
Thông qua các cuộc toạ đàm trao đổi, các em biết đặt câu hỏi một cách lịch sử,
tránh hỏi trống không hoặc những câu hỏi tò mò thiếu tế nhị. Biết giữ phép lịch sự
khi bày tỏ yêu cầu. đề nghị.
* Tóm lại: Việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp có tác dụng rất lớn đến việc
dạy phân môn luyện từ và câu giúp các em có thói quen dùng từ đúng, nói viết
thành câu, biết quý biết giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
3.6. Giáo viên phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa các phương pháp dạy học,
cũng như thay đổi các phương pháp đó trong giờ học để tạo hứng thú cho học sinh
trong học tập.
- Giao việc cho học sinh :
+ Cho học sinh trình bày yêu cầu, câu hỏi, bài tập.
+ Cho học sinh thực hiện một phần câu hỏi, bài tập trong SGK, nếu nhiệm vụ
đặt ra là khó hoặc mới sau khi học sinh làm thử cần tổ chức chữa bài để các em
nắm được cách làm.
+ Tóm tắt nhiệm vụ, nêu những điểm cần chú ý khi làm bài
- Kiểm tra học sinh: Trong quá trình học sinh làm bài tập, giáo viên cần tới từng

bàn để kiểm tra công việc của các em.
+ Xem học sinh có làm việc không.
+ Xem học sinh có hiểu việc phải làm không.
+ Trả lời thắc mắc của học sinh
- Tổ chức báo cáo làm việc
- Tổ chức đánh giá.
3.7. Phân môn Luyện từ và câu có nhiệm vụ rèn cho học sinh dùng từ đúng,
nói viết thành câu. Bởi vậy, giáo viên cần khai thác triệt để sức mạnh của phương
pháp dạy học luyện tập theo mẫu, phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp
thực hành giao tiếp.
7


3.7.1. Phương pháp luyện từ theo mẫu
Là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra các mẫu cụ thể về lời nói hoặc
mô hình lời nói (cũng có thể cùng học sinh xây dựng mẫu lời nói) để thông qua đó
hướng dẫn học sinh tìm hiểu đặc điểm của mẫu, có thể tạo mẫu, từ mẫu đó học sinh
biết cách tạo ra các đơn vị lời nói theo định hướng của mẫu.
Ví dụ: Khi dạy học về dấu câu với bài tập
Em đặt dấu phẩy vào những chỗ nào trong mỗi câu dưới đây?
a. Vì thương dân Chử Đồng Tử và công chúa đi khắp nơi dạy dân cách trồng lúa
nuôi tằm dệt vải.
b. Vì nhớ lời mẹ dặn không được làm phiền người khác, chị em Xô-phi đã về ngay.
c. Tại thiếu kinh nghiệm nôn nóng và coi thường đối thủ Quắm Đen đã bị thua.
Để giúp học sinh làm được bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh làm mẫu
một phần chẳng hạn khi làm mẫu câu và bài tập trên. Giáo viên đọc lên câu đó thể
hiện rõ chỗ nghỉ hơi sau trạng ngữ và các thành phần cùng loại rồi nói: Trong câu a)
chúng ta cần dùng đúng dấu phẩy, để tách các từ ngữ chỉ nguyên nhân (vì thương
dân) với bộ phận câu còn lại và tách các loại công việc được kể ở trong câu với
nhau ( cách trồng lúa, nuôi tằm, dệt vải….). Khi đọc ta nghỉ hơi nhẹ sau dấu phẩy.

" Vì thương dân, /Chử Đồng Tử và công chúa đi khắp nơi dạy dân cách trồng
lúa, /nuôi tằm, /dệt vải".
Sau khi làm mẫu và suy ra cách làm bài các bài tập tương tự còn lại giáo viên
có thể lưu ý học sinh : Nếu trong câu nhắc đến nhiều nguyên nhân thì phải dùng dấu
phẩy để tách các nguyên nhân đó với nhau.
3.7.2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Yêu cầu phân tích ngôn ngữ đối với học sinh Tiểu học chỉ ở mức độ đơn giản,
với sự giúp đỡ, gợi ý, hướng dẫn tỉ mỉ của giáo viên. Bởi vậy phương pháp này
được áp dụng để dạy học dấu câu nhằm giúp học sinh làm rõ cấu trúc các kiểu đơn
vị được học trong chương trình.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập.
Chép đoạn văn dưới đây vào vở .Sau khi đặt dấu chấm vào chỗ thích hợp em
hãy viết hoa những chữ đầu câu:
Ông tôi vốn là thợ gò hàn vào loại giỏi có lần, chính mắt tôi đã nhìn thấy
ông tán đinh đồng chiếc búa trong tay ông hoa lên, nhát nghiêng, nhát thẳng,
nhanh đến mức tôi không thể thấy được, mặt ông phất phơ những sợi tơ mỏng Ông
là niềm tự hào của cả gia đình tôi.
Với bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh đọc lướt, tìm các câu được viết
theo các mẫu đã học (ai là gì? ai làm gì? ai thế nào?) rồi tách riêng các câu đó ra.
Ông tôi vốn là thợ hàn loại giỏi. // Có lần, chính mắt tôi đã nhìn thấy ông
tán đinh đồng.Chiếc búa trong tay ông hoa lên, nhát nghiêng, nhát thẳng, nhanh
đến mức tôi không thể thấy được, mặt ông phất phơ những sợi tơ mỏng //. Ông là
niềm tự hào của cả gia đình tôi.
Khi đã xác định được các câu đã viết theo các mẫu đã học, các em có thể tìm
cách ngắt câu, bằng cách đọc lên sau khi xác định nghỉ hơi hoặc giáo viên có thể
chuyển thành bài tập trắc nghiệm nhiều lựa chọn để học sinh lựa chọn. Cụ thể học
sinh phải đặt được dấu câu cho đoạn còn lại như sau: "Có lần, chính mắt tôi đã
nhìn thấy ông tán đinh đồng. Chiếc búa trong tay ông hoa lên, nhát nghiêng, nhát
8



thẳng, nhanh đến mức tôi không thể thấy được, mặt ông phất phơ những sợi tơ
mỏng".
3.7.3. Phương pháp thực hành giao tiếp
Với phương pháp này không chỉ hướng học sinh vận dụng lí thuyết được học
vào thục hiện các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp mà còn là phương pháp cung cấp
lí thuyết cho học sinh. Trong quá trình giao tiếp chẳng hạn, khi dạy xong bài luyện
từ và câu Câu kể Ai làm gì? giáo viên có thể cho học sinh làm việc theo nhóm 4-8
để các em tự giới thiệu về gia đình mình.
Sau khi các em thảo luận các em trong nhóm có thể tự giới thiệu về công việc
của bố mẹ mình, anh chị, ông, bà. Như thế sẽ tạo ra không khí giờ học và giúp các
em hiểu nhau hơn.
Khi vận dụng phương pháp này thì chúng ta đã kiểm tra được kĩ năng sử
dụng từ đặt câu và giúp học sinh rèn được kĩ năng học tập mới.
3.8. Một điều quan trọng nữa để nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn
Luyện từ và câu là giáo viên phải giúp học sinh nắm vững được vị trí, nhiệm vụ, tác
dụng của việc học phân môn này
Ngôn ngữ là phương tiện kỳ diệu của con người, nhờ nó mà xã hội tồn tại và
phát triển được. Vì vậy, dạy Tiếng Việt giáo viên dần dần từng bước dẫn dắt học
sinh đi vào chiều sâu của ngôn ngữ Tiếng Việt, hiểu được những điều bí ẩn đằng sau
những hiện tượng và giải thích được cơ chế vận hành của ngôn ngữ.
Việc dạy Luyện từ và câu trong trường Tiểu học là vấn đề không thể thiếu được.
Bởi đây là nền tảng giúp học sinh hiểu được bản chất của tiếng mẹ đẻ và góp phần
bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng nơi và viết thành câu và ý thức sử
dụng Tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hóa.
Việc học Tiếng Việt sẽ giúp cho học sinh nắm vững tiếng mẹ đẻ, tạo vốn từ
của học sinh. Qua đó làm cho học sinh nắm vững phạm vi sử dụng chúng nắm từ
nhiều nghĩa và sự chuyển đổi nghĩa của các từ đồng nghĩa, gần nghĩa. Phân môn
Luyện từ và câu sẽ giúp các em hình thành căn bản về từ và câu tiếng Việt để các
em ứng dụng trong các phân môn khác như: Tập làm văn; Tập đọc …..

3.9. Tổ chức các hoạt động đa dạng và phong phú để giúp học sinh lĩnh hội
kiến thức và hình thành kỹ năng. Điều này có ý nghĩa là phải tổ chức cho học sinh
hoạt động một cách tích cực. Học sinh là người tham gia các hoạt động ấy, tự tìm
tòi khám phá dưới sự hướng dẫn của giáo viên
Ví dụ: Học sinh phải trao đổi, thảo luận để giải quyết nhiệm vụ, học sinh
được đóng vai tham gia vào trò chơi học tập, đóng kịch, diễn xuất …..Giáo viên chú
ý cho học sinh nhiều cơ hội thực hành, để được thể hiện phát biểu trên lớp.
3.10. Tổ chức các hoạt động phát triển năng lực tự học của học sinh
Tổ chức hướng dẫn học sinh cách tự học, cách đọc sách, cách lấy thông tin, cách
phân tích và hiểu thông tin, cách quan sát hiện tượng xung quanh.
3.11.Tổ chức hoạt động khám phá bằng cách đưa ra một hệ thống các câu hỏi
hướng dẫn học sinh tìm ra được kết quả
Giáo viên phải biết kĩ năng đặt câu hỏi: Sau đây là một số kĩ năng:
1. Đặt những câu hỏi mà học sinh có thể trả lời được.
2. Có thể để cho học sinh có thời gian trả lời.
3. Sử dụng ngôn ngữ cử chỉ (ánh mắt, nụ cười…) để khuyến khích học sinh
trả lời.
9


4. Khen ngợi hay ghi nhận câu trả lời đúng của học sinh.
5. Tránh cho học sinh ngại ngùng với câu trả lời của mình.
6. Nếu không có ai trả lời, có thể đặt câu hỏi khác đơn giản nhằm gợi mở
cách trả lời.
7. Câu hỏi ngắn gọn dễ hiểu.
8. Phân phối câu hỏi đều cả lớp .
3.12. Luôn kiểm tra đánh giá kiến thức và kĩ năng đạt được ở học sinh
Đánh giá vừa nhằm mục đích xác định mức độ năng lực và kiến thức hình
thành ở người học vừa giúp giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy của mình. Sự đánh
giá của thầy về kết quả học của trò dần phải chuyển thành kĩ năng tự đánh giá của

trò. Sự tự đánh giá giúp cho sự phát triển khả năng tự học của học sinh.
3.13. Một điều không thể thiếu là để nâng cao chất lượng dạy học các bộ môn
cũng như phân môn Luyện từ và câu là phải sử dụng và phát huy hết khả năng của
phương tiện đồ dùng dạy học như băng đĩa, tranh, ảnh, bảng phụ…
Để góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Luyện từ và câu theo tinh thần "lấy
học sinh làm trung tâm" giáo viên phải hình thành ở học sinh tính tích cực đối với
học tập và khêu gợi những kích thích bên trong quá trình nhận thức và quá trình
lĩnh hội kiến thức.
3.14. Giáo viên cần nắm vững nội dung, mức độ yêu cầu của từng bài tập để
hướng dẫn học sinh thực hành cho sát hợp. Củng cố phát triển những kiến thức kĩ
năng đã học ở lớp 3.
Có nhiều biện pháp, hình thức tổ chức nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh. Chú ý hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa , sưu tầm hoặc tự làm đồ
dùng dạy học đơn giản nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức và tích cực tham
gia vào hoạt động luyện tập thực hành, luyện tập về các kĩ năng: Mở rộng vốn từ,
phân tích cấu tạo tiếng, từ, nhận biết danh từ chung, nhận biết danh từ riêng, cách
viết hoa, dùng các dấu câu, các kiểu câu.
III. Hiệu quả
Qua quá trình vừa nghiên cứu vừa áp dụng vào thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy
rằng những phương pháp dạy học mà tổ nhóm tôi áp dụng đã có những kết quả
đáng mừng.
Qua đợt kiểm tra cuối năm học 2014-2015 tại lớp chủ nhiệm lớp 4/5:

Lớp

Sĩ số

4/5

21


Xếp loại
Hoàn thành
21

Chưa hoàn thành
0

Tôi tiếp tục áp dụng cho năm học 2015 -2016 với 3 lớp ở cơ sở Phong Thạnh.
Kết quả khảo sát vào cuối tháng 9 năm học 2015 -2016 với bài Từ đơn – Từ ghép
như sau:
Xếp loại
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
4/B
21
17
4
4/C
22
19
3
10


4/D
Tổng số


21
64

18
84%

3
16%

Sau khi kiểm tra khảo sát số lượng học sinh chậm còn nhiều và số học sinh tốt
chưa cao. Tôi đã thảo luận trong tổ nhóm vào những buổi sinh hoạt chuyên môn để
tìm ra cách giảng dạy phù hợp với nhận thức của học sinh nhằm giúp học sinh nắm
bắt bài tốt hơn, nâng cao chất lượng hiệu quả bộ môn.
Sau khi áp dụng đổi mới phương pháp dạy , tôi tiến hành khảo sát lần 2 vào cuối
tháng 3 . Kết quả cho thấy:
Xếp loại
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
4/B
21
21
0
4/C
22
22
0
4/D
21

21
0
Tổng số
64
100 (%)
0 (%)
Kết quả khảo sát cho thấy chất lượng học sinh nâng lên rõ rệt. Cụ thể trong bài
làm của các em đã hiểu và phân biệt được từ, sử dụng từ vào đặt câu.
Với kết quả như vậy cho thấy chúng tôi càng mạnh dạn tiếp tục thực hiện và phát
huy những mặt đã đạt được, khắc phục những mặt còn tồn đọng để nâng cao chất
lượng dạy học hơn nữa.
C. KẾT LUẬN, PHẠM VI ỨNG DỤNG, Ý NGHĨA ĐỀ TÀI:
I. Kết luận:
Để nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 trước hết
giáo viên phải làm cho học sinh thấy rõ Tiếng Việt rất lý thú và bổ ích. Phân môn
Luyện từ và câu giúp học sinh hiểu được sự phong phú, cái hay, cái đẹp của tiếng
Việt, nâng cao cảm thụ thẫm mĩ. Với vai trò quan trọng như vậy, bản thân tôi trong
quá trình làm đề tài cũng có nhiều trăn trở, tìm tòi để làm sao tìm được phương
pháp tối ưu nhất để nâng cao hiệu quả dạy học Luyện từ và câu ở lớp 4. Đây còn là
vấn đề bức thiết để đáp ứng nhu cầu học tập cho bản thân học sinh ngay từ bậc học
đầu tiên các em mới bước vào ngưỡng của văn hóa giáo dục, phải trang bị cho các
em vốn từ phong phú, chính xác để giúp các em đi vào cuộc sống, tạo cho các em
thói quen biết sử dụng tiếng Việt có văn hóa.
Tiếng Việt rất giàu và rất đẹp có thể diễn tả được tất cả các sắc thái tình cảm rất
tinh tế trong suy nghĩ của mỗi người. Chúng ta sẽ không hài lòng khi đọc một bài
văn, một suy nghĩ, ý kiến của các em mà vốn từ còn nghèo nàn, cách diễn đạt thiếu
trôi chảy, mạch lạc. Trách nhiệm đó một phần thuộc về người giáo viên Tiểu học.
Trong quá trình thực hiện đề tài '' Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện
từ và câu ở lớp 4 ''. Tôi xin lưu ý những vấn đề như sau:
1. Nắm vững nội dung chương trình. mức độ yêu cầu và các đối tượng học

sinh.
2. Lập kế hoạch bài học:
Giáo viên cần nắm vững nội dung cơ bản của từng bài học trong SGK và những
hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt. Tuỳ theo đặc điểm của từng bài học mà xây
11


dựng kế hoạch bài giảng cho phù hợp. Song dù thế nào cũng cần có đầy đủ các hoạt
động và tổ chức các hoạt động đó.
3. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học:
Giáo viên nắm vững các phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học để lựa
chọn phối hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức cho phù hợp với nội dung
của bài dạy và chủ điểm của bài học đó.
4. Tổ chức hoạt động lên lớp
Giáo viên cần khéo léo sử dụng linh hoạt các phương pháp, các hình thức tổ
chức dạy học.
Các hoạt động của tiết dạy không tách rời nhau, mà phải có sự đan xen liên kết và
hỗ trợ lẫn nhau.
Bên cạnh đó giáo viên cần phải có dự kiến về các câu trả lời của học sinh và các
tình huống sư phạm xảy ra trong mỗi hoạt động, có biện pháp giải quyết và điều
chỉnh kịp thời.
5. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học:
Giáo viên có thể vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học theo nhóm,
dạy học cá nhân,.....có thể tổ chức học sinh dưới hình thức trò chơi để kích thích sự
hứng thú học tập của học sinh, nhằm đạt kết quả cao trong giờ học mà học sinh
không nhàm chán.
II. Phạm vi ứng dụng: Học sinh toàn khối 4 trường tiểu học Ninh Lộc.
III. Ý nghĩa:
- HS cải thiện vốn từ, tăng khả năng giao tiếp.
- Chất lượng học của phân môn sẽ nâng lên đáng kể.

- Tăng hứng thú trong dạy – học phân môn.

12



×