Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

định hướng về việc áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán việt nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.46 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
-------&&&-------

LÊ VŨ NGỌC THANH

ĐỊNH HƯỚNG VỀ VIỆC ÁP DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ
TRONG KẾ TOÁN VIỆT NAM
Ngành: Kế toán
Mã số: 62.34.03.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017


Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Vũ Hữu Đức
2. PGS.TS. Huỳnh Đức Lộng
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Trường họp tại:
Vào hồi:

giờ

ngày


tháng

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:

năm


PHẦN GIỚI THIỆU
1. Lý do chọn đề tài
Đề tài “Định hướng về việc áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán Việt Nam”
được tác giả lựa chọn để làm luận án tiến sĩ vì ba lý do sau:
Thứ nhất, Giá trị hợp lý (GTHL) là cơ sở đo lường khắc phục các nhược
điểm của các cơ sở đo lường khác và được đa số các quốc gia trên thế giới
áp dụng. Cairns (2006) cho rằng GTHL ngày càng chiếm vai trò quan trọng
trong IFRS với nhiều cách thức sử dụng khác nhau như để đo lường ban
đầu, đo lường sau ban đầu, để phân bổ giá trị ban đầu và để đánh giá tổn
thất. Vì vậy, hiện nay, GTHL đã được thừa nhận và áp dụng ở 132 quốc gia
theo khảo sát của IASB năm 2015
Thứ hai, VN chưa áp dụng GTHL cho đo lường sau ban đầu. Luật kế toán
VN 2015 đã đề cập đến sử dụng GTHL để đánh giá lại tài sản và nợ phải trả
tại ngày lập báo cáo [Luật kế toán 2015. Điều 6, Điều 28]. Tuy nhiên, về
phạm vi áp dụng GTHL của VN so với quốc tế cho thấy GTHL ở VN được
sử dụng để đo lường ban đầu, để phân bổ ban đầu, để đánh giá tổn thất mà
không áp dụng cho đo lường sau ban đầu như chuẩn mực kế toán quốc tế
(viết tắt IFRS) - chuẩn mực được đa số quốc gia lựa chọn và áp dụng. Điều
này dẫn đến sự khác biệt trong BCTC của VN và đa số các quốc gia khác.
Thứ ba, do sức ép của hội nhập kinh tế thế giới ở VN. Để hội nhập kinh tế
quốc tế thì trước tiên Việt Nam (VN) cần gia tăng mức độ hòa hợp giữa các
quy định của kế toán VN và chuẩn mực kế toán quốc tế, đặc biệt là về
phương diện đo lường, cụ thể cần phải áp dụng GTHL cho đo lường sau

ban đầu. Hiện tại, Bộ tài chính VN đang mong muốn đẩy mạnh hơn nữa
việc hòa hợp kế toán quốc tế, trong đó vấn đề chính là áp dụng IFRS. Và
GTHL được xác định là một thách thức trong việc chấp nhận IFRS tại các
quốc gia, kể cả VN (Chris Fabling, 20161).
1

Chuyên gia cao cấp Ngân hàng thế giới. Phát biểu tại Hội thảo IFRS – Định
hướng và lộ trình áp dụng tại VN tại TP.HCM ngày 21/12/2016.

1


Tuy nhiên, đến nay các nghiên cứu về GTHL ở VN còn khá khiêm tốn, đặc
biệt chưa có nghiên cứu đi sâu vào việc áp dụng GTHL cho đo lường sau
ban đầu. Vì vậy, luận án này được thiết kế để đánh giá sự cần thiết và khả
năng áp dụng GTHL cho đo lường sau ban đầu trong kế toán VN để đưa ra
những định hướng về việc áp dụng GTHL trong kế toán VN.
2. Mục tiêu nghiên cứu – Câu hỏi nghiên cứu
Theo lý thuyết thể chế (institutional theory), một thể chế sẽ ban hành các
quy định mới nếu có sức ép phải áp dụng hoặc tự nguyện ban hành do nhận
thấy đó là một quy định tốt cần thiết phải áp dụng. Vì vậy để đánh giá liệu
GTHL cho đo lường sau ban đầu có nên được áp dụng ở VN hay không,
trước tiên, luận án sẽ đánh giá vai trò của GTHL trong tiến trình hội nhập
quốc tế về kế toán để đánh giá liệu có sức ép phải áp dụng GTHL hay
không và sau đó chứng minh GTHL có phải là một cơ sở đo lường tốt cần
thiết phải áp dụng hay không. Bên cạnh đó, luận án cũng đánh giá khả năng
áp dụng GTHL trong thực tế thông qua khả năng đo lường đáng tin cậy của
GTHL ở VN, mức độ ủng hộ áp dụng GTHL ở VN, đồng thời nhận diện
các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp dụng GTHL để nhận diện
những lý do, đặc điểm của doanh nghiệp (DN) ủng hộ/không ủng hộ áp

dụng GTHL vào VN. Cụ thể các mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
được đặt ra như sau:
(1). Làm rõ vai trò của GTHL trong tiến trình hội nhập quốc tế về kế
toán tại VN.
Mục tiêu nghiên cứu 1 sẽ được giải quyết thông qua câu hỏi nghiên cứu 1:
GTHL có ảnh hưởng trọng yếu đến sự hòa hợp giữa quy định về đo lường
của VN và chuẩn mực kế toán quốc tế không?
(2). Làm rõ sự cần thiết của việc áp dụng GTHL vào VN
Mục tiêu nghiên cứu 2 sẽ được trả lời thông qua câu hỏi nghiên cứu 2:
GTHL có giúp cung cấp thông tin thích hợp cho người sử dụng BCTC ở
VN không?
(3). Làm rõ khả năng áp dụng GTHL ở VN
2


Mục tiêu nghiên cứu 3 sẽ được giải quyết thông qua ba câu hỏi:
Câu hỏi nghiên cứu 3: GTHL ở VN có thể đo lường một cách đáng tin cậy
không?
Câu hỏi nghiên cứu 4: Người lập BCTC và người sử dụng BCTC có ủng hộ
áp dụng GTHL ở VN không?
Câu hỏi nghiên cứu 5: Các nhân tố nào ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp
dụng GTHL ở VN?
3. Phương pháp nghiên cứu
Để đánh giá vai trò của GTHL trong tiến trình hội nhập quốc tế về kế toán
luận án thực hiện đo lường chỉ số hòa hợp trước và sau khi điều chỉnh ảnh
hưởng của GTHL. Chênh lệch chỉ số chính là mức độ tác động của GTHL
đến sự hòa hợp giữa quy định của VN và chuẩn mực kế toán quốc tế về
phương diện đo lường. Dữ liệu nghiên cứu là IFRS, VAS và hướng dẫn kế
toán của VN.
Để đánh giá sự cần thiết cũng như khả năng áp dụng GTHL ở VN luận án

thực hiện phân tích quan điểm của nhà đầu tư (NĐT) và nhà quản lý DN
(NQL) ở VN.
Như vậy luận án thực hiện hai nghiên cứu độc lập để giải quyết các vấn đề
nêu trên:
Nghiên cứu 1 – Mức độ ảnh hưởng của GTHL đến sự hòa hợp giữa quy
định của kế toán VN và chuẩn mực kế toán quốc tế về phương diện đo
lường. Nghiên cứu 1 sẽ trả lời câu hỏi nghiên cứu 1.
Nghiên cứu 2 – Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn áp dụng GTHL của
các DN VN. Nghiên cứu 2 trả lời các câu hỏi 2, 3, 4 và 5.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Trong nghiên cứu 1 đối tượng nghiên cứu là các quy định của VN và chuẩn
mực kế toán quốc tế liên quan đến đo lường các đối tượng kế toán. Trong
nghiên cứu 2, đối tượng nghiên cứu là quan điểm của nhà quản lý (người
3


lập BCTC) và nhà đầu tư (người sử dụng BCTC) đối với việc áp dụng
GTHL.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện ở VN.
5. Kết quả nghiên cứu
Luận án đã đưa ra ba kết quả chính:
(1) GTHL đóng vai trò quan trọng trong việc áp dụng IFRS ở VN.
(2) Người sử dụng và người lập BCTC cho rằng đo lường BĐSĐT,
TSCĐHH, TSVH và TSTC theo GTHL là thích hợp, đáng tin cậy và họ ủng
hộ áp dụng GTHL cho các khoản mục này.
(3) Các nhân tố có tác động tích cực bao gồm tính thích hợp, tính đáng tin
cậy. Các nhân tố chi phí đo lường, việc tiết lộ nhiều thông tin và các đặc
điểm DN không có ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp dụng GTHL.
6. Đóng góp mới của luận án

Luận án có 4 đóng góp mới:
(1) Xác định mức độ ảnh hưởng của GTHL đến sự hòa hợp giữa quy định
của VN và chuẩn mực kế toán quốc tế về mặt đo lường. (2) Xây dựng thang
đo mới để đo lường tính thích hợp và tính đáng tin cậy của GTHL. (3) Xây
dựng mô hình nghiên cứu với đầy đủ các biến hơn các mô hình trước đây
để giải thích lý do lựa chọn áp dụng GTHL của DN cũng như nhận diện đặc
điểm DN ủng hộ áp dụng GTHL. (4) Đánh giá sự cần thiết cũng như khả
năng áp dụng GTHL trong thực tế ở VN.

4


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ GTHL
Chương này sẽ làm rõ các nghiên cứu trước đây về GTHL để xác định khe
hổng nghiên cứu và đề xuất vấn đề cần nghiên cứu tại VN.
1.1. Tổng quan các nghiên cứu về GTHL trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về tính thích hợp của GTHL
Kết quả của các nghiên cứu trước đây cho thấy tính thích hợp của GTHL
được khẳng định hoàn toàn trên nhiều phương diện: đầu tiên, GTHL được
chứng minh là giá trị thích hợp (Barth và Clinch, 1998, Koonce và cộng sự,
2011), điều này càng có ý nghĩa hơn khi giá gốc, giá hiện hành được chứng
minh không là giá trị thích hợp (Lev, 1989; Collins và cộng sự, 1994) và
GTHL được chứng minh không là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng
tài chính (Laux và Leuz, 2009; Sebastian và cộng sự, 2014).
1.1.2. Nghiên cứu về tính đáng tin cậy của GTHL
Tính đáng tin cậy là một nhược điểm mà GTHL bị phê phán so với giá gốc.
Tuy nhiên kết quả của đa số các nghiên cứu có cho thấy rằng GTHL là đáng
tin cậy ở các cấp độ ước tính. Thông qua các phương pháp nghiên cứu có
thể rút ra 3 lý do cho thấy GTHL là đáng tin cậy, thậm chí là đáng tin cậy
hơn giá gốc: (1) GTHL là một đo lường đúng đắn, (2) GTHL không bị chi

phối bởi NQL, (3) GTHL đáng tin cậy hơn giá gốc (GG) vì GTHL hạn chế
hành vi chi phối thu nhập của NQL.
1.1.3. Nghiên cứu về sự ủng hộ GTHL
GTHL được ủng hộ áp dụng bởi các NĐT chuyên nghiệp (nghiên cứu của
Ủy ban chuẩn mực kế toán Đức, đại học Humboldt tại Berlin và Hội phân
tích tài chính của Liên đoàn Châu Âu năm 2008), được ủng hộ bởi NQL
(nghiên cứu của Fargher, 2001; Tan va cộng sự, 2005). 1.1.4. Nghiên cứu
về các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn áp dụng GTHL
Kết quả nghiên cứu cho thấy: biến tỉ lệ biến quy mô công ty, tỉ lệ bất động
sản/tổng tài sản cố định là có tác động đến việc lựa chọn đánh giá lại theo
GTHL (Brown và cộng sự, 1992). Biến đòn bẩy tài chính có tác động đến
sự lựa chọn đánh giá lại ở (Christensen và Nikolaev, 2013). Các biến về đặc
5


điểm DN và biến tính đáng tin cậy của GTHL không có tác động đến việc
lựa chọn áp dụng GTHL (P value > 10%). Biến sự dễ thay đổi của thu nhập
báo cáo thì có tác động nghịch đến việc lựa chọn áp dụng GTHL (Fargher,
2001). Sự dễ thay đổi của thu nhập báo cáo, tính thích hợp, tính đáng tin
cậy, chi phí đo lường cao có ảnh hưởng đến việc lựa chọn GTHL ở mức ý
nghĩa 5%. (Tan và cộng sự, 2005).
1.1.5. Nghiên cứu về đo lường mức độ áp dụng GTHL.
Đo lường mức độ áp dụng GTHL chính là đo lường sự hòa hợp về mặt định
giá giữa các quy định kế toán của các quốc gia được so sánh với chuẩn mực
kế toán quốc tế (còn gọi là hòa hợp hình thức – formal harmonization) hoặc
giữa các quy định kế toán và thực hành kế toán của các quốc gia (còn gọi là
hòa hợp thực tế - material harmonization). Để đo lường mức độ hòa hợp các
nghiên cứu sử dụng chỉ số về khoảng cách, hệ số tương quan, hệ số hồi quy
hoặc phương pháp gom nhóm.
1.2. Các nghiên cứu trước đây tại VN

1.2.1 Các nghiên cứu về GTHL ở VN
Các chủ đề nghiên cứu ở VN về GTHL còn rất hạn chế, chủ yếu làm rõ các
quy định về GTHL. Dữ liệu nghiên cứu của các đề tài hầu hết có được
thông qua khảo sát, trừ đề tài của tác giả Huỳnh Thị Xuân Thủy (2013)
phân tích dữ liệu BCTC của các DN niêm yết trên sàn chứng khoán. Các đề
tài chủ yếu dừng ở thống kê kết quả khảo sát, chỉ có ba đề tài phân tích sâu
hơn là đề tài của Lê Thị Mộng Loan (2013) sử dụng mô hình cân bằng của
McCaslin và Stanga (1983) để kiểm tra tính cân đối giữa thích hợp và đáng
tin cậy của một số khoản mục trên BCTC, đề tài của Nguyễn Thanh Tùng
(2014) và đề tài của Phạm Thị Lý (2015) sử dụng nhân tố khám phá và
phương trình hồi quy để đo lường các nhân tố tác động đến vận dụng
GTHL.
1.2.2. Các nghiên cứu về đo lường mức độ áp dụng GTHL ở VN
Có nhiều nghiên cứu về đo lường mức độ hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán
VN và chuẩn mực kế toán quốc tế như nghiên cứu của Pham (2010, 2012),
6


nghiên cứu của Nguyễn và Trần (2012), nghiên cứu của Nguyễn và Goong
(2012), nghiên cứu của Trần Hồng Vân (2014). các nghiên cứu này đã đo
lường mức độ hòa hợp về mặt đo lường giữa chuẩn mực kế toán VN và
chuẩn mực kế toán quốc tế, tuy nhiên các nghiên cứu này chỉ dừng lại ở
việc xác định mức độ hòa hợp mà chưa giải thích các nguyên nhân ảnh
hưởng đến mức độ hòa hợp.
1.3. Xác định vấn đề nghiên cứu của luận án
Ngoài những điểm đóng góp đã trình bày bên trên, các nghiên cứu trước
đây có một số hạn chế sau:
(1) Các nghiên cứu trên thế giới được thực hiện ở các quốc gia đã phát triển
và vì vậy có thể không phù hợp với VN. (2) Các nghiên cứu về nhân tố tác
động đến việc lựa chọn GTHL được nghiên cứu ở các nước trên thế giới,

chưa được nghiên cứu ở VN. (3) Các nghiên cứu ở VN chưa làm rõ được
tính thích hợp và đáng tin cậy của GTHL – hai đặc điểm chất lượng cơ bản
mà một loại giá phải thỏa mãn để được áp dụng. (4) Các nghiên cứu ở VN
chưa giải thích được tại sao GTHL được lựa chọn áp dụng ở VN.
Với những khoảng trống nghiên cứu như đã phân tích ở trên, tác giả cho
rằng thực hiện nghiên cứu về GTHL cho đo lường sau ban đầu ở VN là điều
cần thiết để cung cấp các bằng chứng trong bối cảnh của VN, nhằm làm rõ
vai trò của GTHL, sự cần thiết và khả năng áp dụng GTHL cho đo lường
sau ban đầu ở VN. Từ đó luận án xác định các mục tiêu nghiên cứu cụ thể
như đã trình bày ở chương mở đầu.
CHƯƠNG 2 – CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ÁP DỤNG GTHL
Chương này trước tiên sẽ làm rõ cơ sở lý thuyết về GTHL thông qua việc
giới thiệu các cơ sở đo lường trong kế toán, cơ sở đo lường theo GTHL,
phạm vi áp dụng GTHL và các lý thuyết nền tảng của GTHL. Sau đó luận
án sẽ làm rõ các lý thuyết nền hình thành các nghiên cứu về áp dụng GTHL
trong kế toán.
2.3 Áp dụng GTHL trong chuẩn mực kế toán quốc tế và ở các quốc gia
trên thế giới
7


Trong chuẩn mực kế toán quốc tế, GTHL được bắt buộc áp dụng đối với
một số khoản mục tài chính, tài sản sinh học và cho phép lựa chọn áp dụng
đối với các khoản mục phi tài chính.
Tháng 5/2011 Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) ban hành chuẩn
mực kế toán IFRS 13 – Đo lường GTHL để làm rõ định nghĩa về GTHL,
đưa ra một khuôn mẫu về đo lường và các yêu cầu công bố về GTHL. Bốn
vấn đề chính mà IFRS 13 đề cập đến là định nghĩa, các kỹ thuật định giá,
đầu vào của kỹ thuật định giá và hệ thống cấp bậc của GTHL.
Kết quả khảo sát các cơ quan ban hành chính sách của 140 quốc gia do

IASB thực hiện vào năm 2015 cho thấy có 132/140 quốc gia khảo sát đã
thừa nhận áp dụng IFRS, đồng nghĩa với áp dụng GTHL.
2.4. Cơ sở lý thuyết của GTHL
Nền tảng của các cơ sở đo lường trong kế toán là các lý thuyết quy chuẩn
(normative theory), đó là các khái niệm, các quy tắc được đề xuất bởi các tổ
chức lập quy với mục đích đưa ra các quy định tốt nhất cho kế toán. Đây
cũng chính là nền tảng lý thuyết của GTHL. Theo đó, để GTHL được áp
dụng trong kế toán thì GTHL phải thỏa mãn mục đích của báo cáo tài
chính, các đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính hữu ích, khái niệm
về vốn và bảo toàn vốn. Về mặt lý thuyết, GTHL là cơ sở đo lường giúp
cung cấp thông tin để NĐT đánh giá dòng tiền tương lai của DN và đánh
giá khả năng quản lý nguồn lực của NQL. GTHL là cơ sở đo lường thỏa
mãn các đặc điểm chất lượng cơ bản và có thể thỏa mãn đặc điểm chất
lượng nâng cao. GTHL là cơ sở đo lường thỏa mãn quan điểm bảo toàn vốn
vật chất.
2.5. Lý thuyết về áp dụng GTHL
Phần này sẽ làm rõ các lý thuyết về áp dụng GTHL dưới góc độ người ban
hành chính sách, người sử dụng BCTC và người lập BCTC. Đó là các lý
thuyết về lập quy, lý thuyết thông tin hữu ích, các lý thuyết liên quan đến sự
lựa chọn của nhà quản lý như lý thuyết ủy nhiệm, lý thuyết tín hiệu và lý
thuyết các đối tượng có liên quan. Các lý thuyết này có lý thuyết hình thành
8


từ các nghiên cứu trong thực tế (positive theory), có lý thuyết mang tính
chất quy định, áp đặt (normative theory) nhưng chúng đều được thừa nhận
như là lý thuyết để giải thích các vấn đề của kế toán.
Đây cũng chính là các lý thuyết liên quan đến các vấn đề nghiên cứu được
đặt ra của luận án, cụ thể:
(1) Lý thuyết lập quy là cơ sở để đưa ra giả thuyết về sự khác nhau giữa các

cơ sở đo lường trong kế toán giữa các quốc gia và chuẩn mực kế toán quốc
tế; (2) Lý thuyết thông tin hữu ích là cơ sở để đặt ra giả thuyết rằng GTHL
là cơ sở đo lường giúp cung cấp thông tin thích hợp và đáng tin cậy. (3) Lý
thuyết ủy nhiệm, lý thuyết tín hiệu và lý thuyết các đối tượng có liên quan
là ba lý thuyết để giải thích cho hành vi lựa chọn hay không lựa chọn một
vấn đề nào đó của NQL
CHƯƠNG 3 MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG CỦA GTHL ĐẾN SỰ HÒA HỢP
GIỮA QUY ĐỊNH VỀ ĐO LƯỜNG CỦA KẾ TOÁN VN VÀ CHUẨN
MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ.
Trong chương này, luận án sẽ làm rõ mức độ tác động của GTHL đến sự
hòa hợp giữa quy định của kế toán VN và IFRS về phương diện đo lường
để đánh giá tầm quan trọng của GTHL trong tiến trình hội nhập quốc tế ở
VN.
3.1 Phương pháp nghiên cứu
Trước tiên, nghiên cứu này sẽ xác định mức độ tương đồng giữa quy định
về đo lường của VN và IFRS thông qua việc tính toán các chỉ số hòa hợp.
Sau đó, nghiên cứu sẽ tính toán lại chỉ số hòa hợp có điều chỉnh ảnh hưởng
của GTHL, có nghĩa là chỉ số hòa hợp được tính toán lại với giả định rằng
không có sự khác biệt về GTHL. Chênh lệch giữa chỉ số hòa hợp ban đầu
và chỉ số hòa hợp sau khi điều chỉnh ảnh hưởng chính là mức độ tác động
của GTHL đến chỉ số hòa hợp giữa quy định về đo lường của kế toán VN
và IFRS.
3.1.2.2. Các biến nghiên cứu
9


Nghiên cứu này xác định được 27 biến nghiên cứu được trình bày và 9 biến
nghiên cứu không trình bày.
Các biến nghiên cứu được trình bày: Hàng tồn kho; Tài sản cố định hữu
hình; Tài sản vô hình; Bất động sản đầu tư; Tài sản thuê tài chính; Tài sản

nắm giữ để bán – ngừng hoạt động; Tài sản thuê tài chính; Tài sản quỹ phúc
lợi nhân viên; Tài sản thuế hoãn lại; Nợ tài chính; Nợ phải trả về thuế hoãn
lại; Nợ thuê tài chính; Nợ phải trả phúc lợi nhân viên; Nợ phải trả phát sinh
trong giao dịch thanh toán bằng vốn cổ phần; Dự phòng nợ phải trả, nợ tiềm
tàng; Doanh thu; Chi phí đi vay; Lợi thế thương mại; Hợp đồng liên doanh;
Khoản đầu tư còn lại sau khi mất quyền kiểm soát hoặc ngừng áp dụng
phương pháp vốn chủ sở hữu; Khoản đầu tư vào công ty con trên BCTC
riêng; Khoản đầu tư vào công ty liên kết trên BCTC riêng; Khoản đầu tư
vào công ty liên doanh trên BCTC riêng; Khoản đầu tư vào công ty con trên
BCTC hợp nhất; Khoản đầu tư vào công ty liên doanh trên BCTC hợp nhất;
Khoản đầu tư vào công ty liên kết trên BCTC hợp nhất; Lợi ích bên không
nắm quyền kiểm soát.
Các biến nghiên cứu không trình bày: Vốn hóa chi phí đi vay; Giao dịch
bằng ngoại tệ; Chuyển đổi từ đồng tiền chức năm sang đồng tiền trình bày;
Phương pháp vốn chủ sở hữu; Phương pháp mua; Phương pháp hợp nhất;
Đánh giá tổn thất; Sự kiện sau ngày kết thúc niên độ; Thay đổi chính sách
kế toán, ước tính kế toán và sai sót.
3.1.2.3 Phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập bằng phương pháp phân tích nội dung.
Tác giả đọc các chuẩn mực, quy định có liên quan để xác định cách đo
lường ban đầu và đo lường sau ban đầu cho mỗi biến nghiên cứu. Dữ liệu
được trình bày vào các cột tương ứng “IFRS”, “Chuẩn mực kế toán VN”,
“Thông tư hướng dẫn” trong bảng thu thập dữ liệu.
Song song với quá trình thu thập dữ liệu nghiên cứu là xác định sự giống
nhau và khác nhau của các cặp quan sát IFRS & VAS; IFRS & TT và điền
10


vào các cột tương ứng. Nếu giống nhau sẽ được ghi là 1 và khác nhau sẽ
được ghi là 0. Quá trình này đảm bảo một số nguyên tắc sau:

(1) Tôn trọng nội dung hơn hình thức. Khi có sự không tương đồng về từ
ngữ sử dụng, tác giả phân tích nội dung của các phương pháp đo lường, nếu
cho kết quả giống nhau thì được đánh giá là giống nhau. (2) Các biến
nghiên cứu được trình bày mà có liên quan đến các biến nghiên cứu không
trình bày thì cần đánh giá các biến nghiên cứu không trình bày trước. (3)
Các chi tiết của biến nghiên cứu được trình bày nếu đã được đề cập ở biến
được trình bày khác thì không cần đo lường chi tiết đó.
3.1.2.4. Phương pháp xử lý dữ liệu nghiên cứu
(1). Công thức đo lường: sử dụng công thức Jaccard để đo lường
(2). Trình tự thực hiện đo lường
Bước 1: Đo lường mức độ tương đồng cho mỗi biến nghiên cứu chi tiết đo lường ban đầu và đo lường sau ban đầu.
Bước 2: Đo lường mức độ tương đồng cho mỗi biến nghiên cứu, bằng
cách tính trung bình cộng của mức độ tương đồng đo lường ban đầu và mức
độ tương đồng của đo lường sau ban đầu.
Bước 3: Đo lường mức độ tương đồng tổng thể được tính bằng trung bình
cộng mức độ tương đồng của các biến nghiên cứu.
3.2. Kết quả nghiên cứu
3.2.2 Mức độ hòa hợp giữa các quy định của kế toán VN và IFRS về
mặt đo lường.
3.2.2.1. Mức độ hòa hợp tổng thể về mặt đo lường
Kết quả nghiên cứu cho thấy về mặt đo lường, các quy định của chuẩn mực
kế toán VN tương đồng với IFRS là 54%, thấp hơn kết quả của các nghiên
cứu trước đây: 76% (Phạm, 2012), 69,5% (Nguyễn và Goong, 2014). Sự
khác biệt này có thể là do hai nguyên nhân: (1) các IFRS là khác nhau tại
các thời điểm nghiên cứu khác nhau. (2) các nghiên cứu trước đây không
phân cấp trong biến nghiên cứu nên có sự trùng lắp trong đo lường kết quả
tổng thể.
11



Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy các thông tư hướng dẫn của VN
có sự tương đồng với với IFRS cao hơn chuẩn mực kế toán VN (ở mức độ
57% so với 54%), tuy nhiên ở mức độ khác biệt không đáng kể. Giữa chuẩn
mực kế toán VN và IFRS, mức độ hòa hợp của các quy định về đo lường
ban đầu là 65%, trong khi đó mức độ hòa hợp của các quy định về đo lường
sau ban đầu chỉ ở mức 38%. Tương tự như vậy khi so sánh giữa thông tư
hướng dẫn của VN và IFRS: 69% cho đo lường ban đầu và 40% cho đo
lường sau ban đầu. Như vậy có thể thấy rằng sự khác biệt trong các quy
định giữa VN và quốc tế chủ yếu tập trung vào đo lường sau ban đầu, mức
độ tương đồng thấp (dưới 40%).
3.2.2.2. Mức độ hòa hợp về đo lường của từng biến nghiên cứu
Có những khoản mục có mức độ hòa hợp rất cao (80% trở lên), cũng có
những khoản mục có mức độ hòa hợp rất thấp (dưới 50%). Cụ thể:
(1) Các khoản mục có mức độ hòa hợp cao: Hàng tồn kho, Tài sản thuê tài
chính, nợ phải trả về thuế hoãn lại, nợ thuê tài chính, dự phòng nợ phải trả,
doanh thu, chi phí đi vay, hợp đồng liên doanh. (2) Các khoản mục có mức
độ hòa hợp trung bình: tài sản cố định hữu hình, tài sản vô hình, bất động
sản đầu tư, tài sản nắm giữ để bán, dừng hoạt động, tài sản thuế hoãn lại, nợ
phải trả phát sinh trong giao dịch thanh toán bằng vốn cổ phần, khoản đầu
tư còn lại sau khi mất quyền kiểm soát hoặc ngừng áp dụng phương pháp
vốn chủ sở hữu, khoản đầu tư vào công ty con trên BCTC hợp nhất, lợi ích
bên không nắm quyền kiểm soát. (3) Các khoản mục có mức độ hòa hợp
thấp: tài sản tài chính, tài sản quỹ phúc lợi nhân viên, khoản đầu tư vào
công ty con trên BCTC riêng, khoản đầu tư vào công ty liên kết trên BCTC
riêng, khoản đầu tư vào công ty liên doanh trên BCTC riêng, khoản đầu tư
vào công ty liên kết, liên doanh trên BCTC hợp nhất. Trong đó, mức độ
tương đồng thấp chủ yếu ở các quy định về đo lường sau ban đầu.
3.2.3. Mức độ ảnh hưởng của GTHL đến sự hòa hợp giữa chuẩn mực
kế toán VN và IFRS về mặt đo lường.
12



Kết quả phân tích ở trên cho thấy sự tương đồng của quy định của kế toán
VN và IFRS còn thấp (54%). Một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hòa
hợp thấp này là do tại VN GTHL không được áp dụng cho đo lường sau
ban đầu. Kết quả tính toán lại cho thấy mức độ hòa hợp tổng thể giữa IFRS
và VAS đã tăng từ 0,54 lên 0,65 (mức độ ảnh hưởng do GTHL là 11%).
Trong đó mức độ ảnh hưởng của GTHL đến mức độ hòa hợp của đo lường
ban đầu là 5% (mức độ hòa hợp tăng từ 0,65 lên 0,7), mức độ ảnh hưởng
của GTHL đến mức độ hòa hợp của đo lường sau ban đầu là 19% (mức độ
hòa hợp tăng từ 0,38 lên 0,57)
Để thấy rõ vai trò của GTHL, nghiên cứu này tính toán mức độ ảnh hưởng
của tất cả các nguyên nhân đến sự khác biệt giữa quy định của kế toán VN
và IFRS. Kết quả cho thấy mức độ ảnh hưởng do GTHL chiếm tỉ trọng cao
nhất 18%, (mức độ 18% chưa kể những quy định đo lường theo GTHL
trong các trường hợp không có chuẩn mực tương đồng. Nếu kể cả những
trường hợp này thì ảnh hưởng của GTHL chiếm đến 34%). Nguyên nhân
thứ hai là do cách đo lường không tương đồng chiếm tỉ lệ 17% và do không
có chuẩn mực tương đồng chiếm tỉ lệ 16%. Như vậy có thể thấy rằng
GTHL có ảnh hưởng quan trọng đến sự hòa hợp giữa quy định của kế toán
VN và IFRS.
CHƯƠNG 4 –CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN
ÁP DỤNG GTHL TẠI VN
Thông qua mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến việc lựa chọn áp
dụng GTHL luận án sẽ làm rõ bốn vấn đề:
(1) Tính thích hợp của GTHL ở VN; (2) Tính đáng tin cậy của GTHL ở
VN; (3) Mức độ ủng hộ áp dụng GTHL ở VN; (4) Các nhân tố tác động đến
việc lựa chọn áp dụng GTHL của DN VN.
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận án thực hiện nghiên cứu định tính để xây dựng thang đo và thực hiện

nghiên cứu định lượng để đánh giá quan điểm của người lập và người sử
dụng BCTC về các vấn đề nêu trên.
13


4.1.3. Mô hình nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu được trình bày trong hình 4.1
Các ưu điểm của GTHL đã được đề cập đến trong lý thuyết và các nghiên
cứu trước đây là: thích hợp, đáng tin cậy và có khả năng so sánh tốt hơn GG
(Easton và cộng sự, 1993; Barth và Clinch, 1998; Danbolt và Rees, 2008;
Color – Proell và cộng sự, 2010; Hermman và cộng sự, 2006). Tuy nhiên
nghiên cứu này chỉ lựa chọn hai nhân tố là thích hợp và đáng tin cậy để
kiểm tra.

Các ưu điểm của GTHL
Lựa chọn áp
dụng GTHL
(Có/Không)

Các nhược điểm của GTHL
Biến kiểm soát
(Các đặc điểm của DN)

Hình 4.1 Mô hình nghiên cứu
Các nhược điểm của GTHL được các nhà nghiên cứu đề cập đến như: chi
phí đo lường cao (Tan và cộng sự, 2005; Jung và cộng sự, 2013), việc tiết lộ
nhiều thông tin có thể gây bất lợi cho DN (Tan và cộng sự, 2005), tính dễ
thay đổi của lợi nhuận báo cáo gây hoang mang cho nhà đầu tư (Fargher,
2001); Tan và cộng sự, 2005). NQL có thể không ủng hộ GTHL để bảo vệ
lợi ích của chính bản thân mình nên nghiên cứu này chỉ chọn hai nhược

điểm là “chi phí đo lường “và “tiết lộ nhiều thông tin” để kiểm tra.
Các biến kiểm soát đã được nhận diện bởi các nghiên cứu trước đây: quy
mô công ty (Jung và cộng sự, 2013), đòn bẩy tài chính (Jung và cộng sự,
2013), tỉ trọng của tài sản phi tài chính (Jung và cộng sự, 2013), tỉ lệ bất
động sản trên tài sản cố định hữu hình (Brown và cộng sự, 1992). Nghiên
cứu này đưa thêm biến kiểm soát là “loại hình DN” vào mô hình để kiểm
tra liệu loại hình DN có ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp dụng GTHL.
14


Như vậy, khác với các nghiên cứu trước đây, cả nhóm biến thuận lợi và
nhóm biến bất lợi cùng với nhóm biến kiểm soát được đưa vào mô hình để
có thể kiểm tra đầy đủ các nguyên nhân của việc lựa chọn hoặc không lựa
chọn áp dụng GTHL của DN so với các nghiên cứu trước đây
4.1.3.2. Các biến trong mô hình nghiên cứu và dự báo
Các biến trong mô hình nghiên cứu và dự báo trình bày ở hình 4.2

Lựa chọn áp
dụng GTHL
(Có/Không)

(+

(x1) Tính thích hợp

(+/

(x2) Tính đáng tin cậy

(-


(x3) Chi phí đo lường
cao
(x4) Tiết lộ nhiều thông
tin
(x5) Quy mô công ty

()
(+/(+

(+/
-)
(+/-

(x6) Loại hình doanh
nghiệp
(x7) Đòn bẩy tài chính
(x8) Tỉ trọng của khoản
mục nghiên cứu

Hình 4.2 Các biến trong mô hình nghiên cứu và dự báo
4.1.4 Phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu và thang đo
Phương pháp thu thập dữ liệu là phương pháp khảo sát (survey).
4.2 Kết quả nghiên cứu định tính – xây dựng thang đo
Thang đo sẽ khác nhau đối với các biến khác nhau. Cụ thể:
Đối với các khái niệm khó hiểu như biến “tính thích hợp” và “đáng tin cậy”
luận án sẽ xây dựng mới thang đo để đo lường bằng nhiều câu hỏi chi tiết ở
15



các khía cạnh khác nhau và sau đó sẽ tổng quát lại bằng một câu hỏi trực
tiếp. Tất cả đo lường dựa vào thang đo Likert 5 mức độ.
Đối với các biến biến kiểm soát: đây là các biến thực nên dữ liệu được thu
thập thông qua BCTC của DN. Đối với các biến “chi phí đo lường” và “tiết
lộ nhiều thông tin” là các biến dễ hiểu nên sẽ được đo lường bằng một câu
hỏi theo thang đo Likert 5 mức độ.
4.2.1 Cơ sở xây dựng thang đo
Luận án sử dụng phương pháp phân tích nội dung để tìm kiếm các cách giải
thích biến được nghiên cứu. Phương pháp phân tích nội dung được thực
hiện bằng cách đọc khuôn mẫu lý thuyết và các nghiên cứu trước đây về
GTHL, tìm kiếm những điểm chung trong các biến được sử dụng, những
điểm chung trong kết quả hay những những điểm chung trong cách lập luận
…và khái quát lại thành thang đo.
4.2.2. Thang đo
Thang đo hoàn chỉnh sau khi đã điều chỉnh theo ý kiến của chuyên gia và
kết quả của khảo sát thử được sử dụng đẻ thu thập dữ liệu. Thang đo được
trình
bày
cụ
thể
trên
trang
web
Survey
Monkey
( />4.3 Kết quả nghiên cứu định lượng – Các nhân tố tác động đến việc lựa
chọn áp dụng GTHL tại VN
4.3.1 Tính thích hợp của GTHL
Kết quả nghiên cứu cho thấy đo lường theo GTHL của các khoản mục có
mức độ thích hợp cao, từ 3,7 đến 4,3 điểm trên thang đo 5 điểm. Tính thích

hợp của BĐSĐT và TSTC thì cao hơn tính thích hợp của TSCĐHH và
TSVH. Tính thích hợp của đo lường theo GTHL có sự khác nhau giữa quan
điểm của NĐT và NQL. Tuy nhiên sự khác nhau này là không có ý nghĩa
thống kê. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cả NĐT và NQL đều cần các
thông tin về giá trị của các khoản mục nghiên cứu được trình bày theo giá
hiện tại, họ cũng đồng ý cần phải ghi nhận sự thay đổi của giá cả và lợi
nhuận cần được tính trên quan điểm bảo toàn vốn vật chất.
16


4.3.2. Tính đáng tin cậy của GTHL
Mức độ đáng tin cậy của đo lường GTHL của các khoản mục nghiên cứu
được xác định ở mức trên trung bình. Cụ thể, ở mức độ 2,91 đến 3,46 điểm.
Mức độ đáng tin cậy này cũng có sự khác biệt nhỏ trong quan điểm của
NĐT và NQL, nhưng nhìn chung mức độ đáng tin cậy cũng xoay quanh
mức 3 điểm. Sự khác biệt về tính đáng tin cậy giữa các khoản mục là có ý
nghĩa thống kê ở mức 5%. Các khoản mục có thị trường để đo lường như
BĐSĐT, TSTC và TSCĐHH thì đáng tin cậy hơn các khoản mục không có
thị trường để đo lường như TSVH.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy không có thông tin từ thị trường để đo
lường các khoản mục được nghiên cứu, phương pháp đo lường thì phức tạp,
nhân sự định giá ở mức độ trung bình và khả năng chi phối của NQL cũng
ở mức độ trung bình do NQL không có động cơ để chi phối, do e ngại phản
ứng của NDT và do gặp các cản trở do việc kiểm toán. Kết quả hồi quy mối
quan hệ giữa tính đáng tin cậy và các nhân tố theo mẫu phụ DN và NĐT
cho thấy đối với NQL tính đáng tin cậy phụ thuộc vào phương pháp đo
lường, đối với NĐT thì tính đáng tin cậy chủ yếu phụ thuộc vào nhân sự và
các rào cản,
4.3.3. Mức độ ủng hộ áp dụng GTHL
Kết quả nghiên cứu cho thấy GTHL được ủng hộ áp dụng ở mức độ cao, từ

71% cho đến 89% Mức độ ủng hộ áp dụng GTHL của NĐT cao hơn mức
độ ủng hộ áp dụng GTHL của DN. Và cả NĐT và NQL đều ủng hộ mạnh ở
tài sản nắm giữ để đầu tư (BĐSDT và TSTC) hơn là tài sản nắm giữ để sử
dụng (TSCĐHH và TSVH). Sự khác biệt về mức độ ủng hộ của NĐT và
NQL là không có ý nghĩa thống kê ở mức 5%, trừ sự khác biệt trong mức
độ ủng hộ của khoản mục BĐSĐT. Có sự khác biệt trong mức độ ủng hộ
giữa khoản mục được nắm giữ để đầu tư như BĐSĐT và TSTC và các
khoản mục được giữ để sử dụng như TSCĐHH và TSVH. 4.3.4. Các nhân
tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp dụng GTHL.
17


Đầu tiên, bằng việc quan sát bằng hình ảnh cho thấy mối quan hệ giữa các
biến x và biến y trong bốn mô hình đều là mối quan hệ tuyến tính.
Nhìn chung có thể thấy rằng tính thích hợp và đáng tin cậy là nhân tố ảnh
hưởng đến việc lựa chọn áp dụng GTHL ở tất cả bốn khoản mục nghiên
cứu ở mức ý nghĩa 5%. Chi phí đo lường, việc công bố nhiều thông tin và
các đặc điểm của DN gần như không có ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp
dụng GTHL. Cụ thể:
Đối với khoản mục BĐSĐT, tính thích hợp và tính đáng tin cậy có tác
động thuận đến sự lựa chọn áp dụng GTHL. Đối với khoản mục TSCĐHH
chỉ có tính thích hợp và tính đáng tin cậy có tác động thuận đến sự lựa chọn
áp dụng GTHL. Đối với khoản mục TSVH ngoài tính thích hợp, tính đáng
tin cậy có tác động thuận thì việc công bố nhiều thông tin có tác động
nghịch đến sự lựa chọn áp dụng GTHL. Đối với khoản mục TSTC cũng chỉ
có tính thích hợp và tính đáng tin cậy là có tác động thuận đến việc lựa
chọn áp dụng GTHL. Các đặc điểm của DN không có tác động đến việc lựa
chọn áp dụng GTHL trong bốn mô hình.
CHƯƠNG 5 - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Kết luận về vai trò, sự cần thiết khả năng áp dụng GTHL ở VN

5.1.1 Kết luận về vai trò của GTHL
Kết quả nghiên cứu ở chương 3 cho thấy rằng mức độ ảnh hưởng của
GTHL đến sự hòa hợp giữa quy định của kế toán VN và IFRS là 34%. Điều
này có nghĩa là nếu áp dụng GTHL và khắc phục các nguyên nhân khác thì
khả năng so sánh BCTC của VN và các quốc gia áp dụng IFRS sẽ tăng lên
đến 71%. Hay nói cách khác, nếu khắc phục các nguyên nhân khác mà
không áp dụng GTHL cho đo lường sau ban đầu thì khoảng cách giữa VN
và quốc tế sẽ là 34%, một mức độ ảnh hưởng đáng kể. Qua đó có thể cho
thấy rằng GTHL có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình hội nhập quốc tế
về kế toán, phải áp dụng GTHL mới làm tăng khả năng so sánh giữa BCTC
của VN và quốc tế.
5.1.2 Kết luận về sự cần thiết phải áp dụng GTHL ở VN
18


VN cần thiết phải áp dụng GTHL vì ba lý do:
Thứ nhất, do sức ép của việc hội nhập kinh tế thế giới. Do yêu cầu của hội
nhập, sự khác biệt giữa kế toán VN và quốc tế chỉ có thể được chấp nhận
trong một tương lai gần, nên việc áp dụng IFRS ở VN là một tất yếu trong
tương lai. Việc áp dụng GTHL là một bước đệm quan trọng để tiến tới áp
dụng IFRS.
Thứ hai, do sức ép từ sự phát triển của bản thân nền kinh tế VN. Sự phát
triển của DN khiến báo cáo tài chính chủ yếu phục vụ cho các đệ tam nhân
như nhà đầu tư, chủ nợ, khách hàng… Do đó thông tin phải thích hợp và
đáng tin cậy, và GTHL là một sự lựa chọn thích hợp.
Thứ ba, cần thiết phải áp dụng GTHL vì lợi ích của GTHL, đó là:
(1). GTHL giúp cung cấp thông tin thích hợp hơn giá gốc.
(2). GTHL làm giảm hành vi chi phối thu nhập của nhà quản lý.
(3). GTHL giúp bảo toàn năng lực sản xuất của DN.
(4). GTHL giúp người sử dụng BCTC đánh giá về khả năng quản lý nguồn

lực của NQL, đó là việc bảo vệ nguồn lực của DN dưới những ảnh hưởng
không thuận lợi của nền kinh tế như sự thay đổi của giá cả, sự thay đổi của
công nghệ…
Như vậy, ở cả hai góc nhìn của lý thuyết thể chế - vì sức ép, vì lợi ích - đều
cho thấy rằng VN cần thiết phải áp dụng GTHL.
5.1.3. Kết luận về khả năng áp dụng GTHL ở VN.
Luận án cho rằng VN có đủ điều kiện để GTHL được áp dụng trong thực tế
vì ba lý do: (1). VN có khả năng đo lường đáng tin cậy GTHL. (2). GTHL
được sử ủng hộ của DN. (3). GTHL được sử ủng hộ của người sử dụng
BCTC.
Như vậy, về mặt khách quan lẫn chủ quan có thể cho thể cho thấy GTHL có
khả năng áp dụng ở VN.
5.2 Định hướng áp dụng GTHL ở VN
5.2.1 Về phương diện kế toán
19


Việc áp dụng GTHL ở VN là một bước cần thiết trong quá trình áp dụng
IFRS ở VN. Vì vậy bốn gợi ý về việc áp dụng GTHL ở VN được đề xuất
như sau:
(1) VN cần cho phép áp dụng GTHL cho đo lường sau ban đầu đối với
BĐSĐT, TSCĐHH, TSVH và TSTC.
(2) VN cần ban hành chuẩn mực kế toán về đo lường GTHL.
(3) Cần làm rõ yêu cầu công bố thông tin về GTHL trong các chuẩn mực có
đề cập đến GTHL.
(4) Cần ban hành chuẩn mực về công cụ tài chính.
5.2.2 Về phương diện kiểm toán
(1) Kiểm toán viên cần chú trọng kiểm tra các ước tính kế toán, bao gồm
các ước tính về GTHL.
(2) Bộ tài chính cần tăng cường giám sát chất lượng kiểm toán. Kiểm soát

chất lượng của các công ty kiểm toán là biện pháp giám sát thứ nhất để làm
gia tăng tính đáng tin cậy của các ước tính GTHL, kiểm soát chất lượng
kiểm toán của Bộ tài chính là biện pháp thứ hai để làm gia tăng tính đáng
tin cậy, tạo ra sự tin tưởng trong xã hội.
5.2.3 Về lộ trình áp dụng
(1) Nên áp dụng cho các DN niêm yết và tổ chức tài chính trước.
(2) Nên áp dụng cho các khoản mục BĐSĐT và TSTC trước sau đó áp
dụng cho các khoản mục TSCĐHH và TSVH.
(3) Nên cho phép lưa chọn áp dụng giữa mô hình GG và mô hình GTHL.
(4) Cần ban hành chuẩn mực về đo lường GTHL trước khi đưa ra các yêu
cầu về áp dụng đo lường GTHL cho đo lường sau ban đầu.
(5) Ngoài ra, trong khi chờ đợi việc ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán
đầy đủ, trước mắt BTC có thể ban hành các thông tư, trong đó để cập đến
việc áp dụng GTHL sau ghi nhận ban đầu cho các khoản mục.
5.2.4. Về các biện pháp hỗ trợ:
Luận án đã đề xuất các biện pháp để hỗ trợ áp dụng GTHL ở VN:
20


(1) Đào tạo, (2) Ban hành các công bố giá, (3) Ban hành các hướng dẫn,
giải thích về cách đo lường GTHL. (4) Thành lập các trung tâm thẩm định
giá
5.3 Đóng góp của luận án.
Kết quả nghiên cứu của luận án đã có một số đóng góp nhất định về mặt lý
thuyết và thực tiễn. Cụ thể:
5.3.1 Đóng góp của luận án liên quan đến các lý thuyết nền
Đối với các lý thuyết liên quan đền lập quy: về mặt lý thuyết, luận án đã
cho thấy lý thuyết phù hợp để giải thích cho việc ban hành các quy định kế
toán trong thời gian vừa qua là dựa trên lý thuyết lợi ích tư về lập quy
(Private Interest Theories of Regulation). Về mặt thực tiễn, luận án cung

cấp cơ sở cho việc ban hành chính sách dựa trên lý thuyết lợi ích chung về
lập quy (Public Interest Theories of Regulation).
Đối với các lý thuyết về hành vi lựa chọn của NQL: Về mặt lý thuyết,
luận án đã cung cấp bằng chứng cho thấy lý thuyết tín hiệu là cơ sở để giải
thích cho hành vi lựa chọn áp dụng GTHL ở VN. Lý do mà NQL lựa chọn
áp dụng GTHL vì GTHL giúp cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư
(thích hợp và đáng tin cậy) để cung cấp các tín hiệu cho nhà đầu tư. Về mặt
thực tiễn, luận án cung cấp cơ sở lý thuyết cho việc áp dụng GTHL ở VN,
đó là dựa trên lý thuyết tín hiệu, áp dụng GTHL để cung cấp thông tin hữu
ích cho NĐT.
5.3.2 Đóng góp liên quan đến sự cần thiết và khả năng áp dụng GTHL.
Về mặt lý thuyết, luận án cung cấp bằng chứng thực nghiệm về khoảng
cách giữa các quy định của VN và chuẩn mực kế toán quốc tế do không áp
dụng GTHL là 34%. Từ đó cho thấy vai trò quan trọng của GTHL để rút
ngắn khoảng cách giữa quy định của VN và quốc tế.
Ngoài ra, về mặt lý thuyết, luận án cũng đóng góp bằng chứng thực nghiệm
về tính thích hợp của GTHL ở VN. Áp dụng GTHL cho BĐSĐT,
TSCĐHH, TSVH và TSTC ở VN giúp cung cấp thông tin thích hợp. Bên
cạnh đó, luận án cũng đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm để đóng góp
21


cho lý thuyết về tính đáng tin cậy của đo lường GTHL ở các quốc gia đang
phát triển như VN. Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy rằng GTHL
của BĐSĐT, TSCĐHH, TSVH và TSTC được đo lường đáng tin cậy.
Về mặt thực tiễn, luận án cung cấp các cơ sở cho việc áp dụng GTHL tại
VN hiện nay. Đó là, (1) GTHL ở VN giúp cung cấp thông tin thích hợp.
GTHL giúp trình bày các thông tin theo giá trị ở thời điểm hiện tại, cho
phép ghi nhận sự thay đổi của giá cả và lãi lỗ được trình bày theo quan
điểm bảo toàn vốn vật chất. (2) GTHL ở VN được đo lường đáng tin cậy.

5.3.3 Đóng góp liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn
áp dụng GTHL
Về mặt lý thuyết, luận án đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về các nhân
tố có ảnh hưởng và không ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp dụng GTHL ở
VN, đó là:
(1). Tính thích hợp có tác động thuận đến việc lựa chọn áp dụng GTHL ở
VN. (2) Tính đáng tin cậy có tác động thuận đến việc lựa chọn áp dụng
GTHL ở VN. (3) Chi phí đo lường GTHL được cho là cao, tuy nhiên chi
phí đo lường không ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp dụng GTHL ở VN. (4)
Việc công bố nhiều thông tin không gây bất lợi cho các DN, và việc công
bố nhiều thông tin không ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp dụng GTHL ở
VN, ngoại trừ khoản mục TSVH có tác động nghịch. (5) Quy mô công ty
không có tác động đến việc lựa chọn áp dụng GTHL ở VN. (6) Đòn bẩy tài
chính không có tác động đến việc lựa chọn áp dụng GTHL ở quốc gia đang
phát triển như VN. (7) Tỉ trọng của BĐSĐT, tỉ trọng của TSCĐHH, tỉ trọng
của TSVH và tỉ trọng của TSTC không có tác động đến việc lựa chọn áp
dụng GTHL. (8) Loại hình DN không có tác động đến việc lựa chọn áp
dụng GTHL ở VN.
Ngoài ra, về mặt lý thuyết, luận án cũng đã cung cấp bằng chứng thực tiễn
chứng minh rằng GTHL được ủng hộ áp dụng ở VN.
Về mặt thực tiễn, luận án đã cung cấp các bằng chứng làm cơ sở cho việc
áp dụng GTHL ở VN và đưa ra các lộ trình phù hợp, đó là: (1) GTHL được
22


sự ủng hộ của nhà đầu tư và nhà quản lý DN. Mặc dù có những bất lợi trong
thực tế để áp dụng GTHL, nhưng cả nhà đầu tư, nhà quản lý của tất cả các
loại hình DN đều ủng hộ áp dụng GTHL. (2) Có thể áp dụng GTHL cho các
loại hình DN ở VN. (3) Các khó khăn hiện tại như thị trường, nhân sự, chi
phí đo lường… không ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp dụng GTHL.

5.3.4 Đóng góp liên quan đến phương pháp nghiên cứu
Luận án đã xây dựng được thang đo mới phù hợp, đóng góp cả về lý thuyết
và thực tiễn cho việc nghiên cứu GTHL sau này.
Nghiên cứu của luận án cũng đã đóng góp cho lý thuyết phương pháp để
xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ số hòa hợp.
5.4. Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu tiếp theo
(1) Luận án chưa nghiên cứu quan điểm của các bên trong các trường hợp
đánh giá lại tăng và đánh giá lại giảm. Vì vậy các nghiên cứu trong tương
lai cần xem xét các quan điểm cụ thể trong hai trường hợp này (2). Luận án
chưa phân tích quan điểm của các bên khác như là Ngân hàng, Kiểm toán
viên. Mặc dù trong mẫu cũng bao gồm các đối tượng này, tuy nhiên chỉ
nghiên cứu dưới quan điểm của người sử dụng báo cáo tài chính. Vì vậy các
nghiên cứu tiếp theo cần nghiên cứu quan điểm của các đối tượng này. (3).
Luận án chỉ mới phân tích quan điểm của người lập và người sử dụng
BCTC mà chưa phân tích quan điểm của nhà ban hành chính sách. Vì vậy
các nghiên cứu trong tương lai có thể làm rõ quan điểm của nhà ban hành
chính sách. (4). Luận án chỉ khảo sát cho bốn khoản mục BĐSĐT,
TSCĐHH, TSVH và TSTC. Để có thể đánh giá toàn diện mức độ ủng hộ
GTHL ở VN thì cần khảo sát cho các khoản mục khác, ví dụ như Nợ phải
trả.

23


×