Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Định hướng về việc xác định giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.08 KB, 92 trang )


1
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề quan trọng của công tác kế toán là định giá nhằm xác
định giá trị bằng tiền của các đối tượng kế toán để phục vụ cho công việc ghi chép
và lập báo cáo tài chính. Qua quá trình phát triển của định giá đã có nhiều loại giá
khác nhau được sử dụng, trong đó giá trị hợp lý ngày càng đóng vai trò quan trọng,
với mục đích trình bày thông tin trên báo cáo tài chính một cách trung thực và hợp
lý hơn. Mặc dù chưa có chuẩn mực cụ thể về vấn đề này, nhưng giá trị hợp lý đã
được thừa nhận và áp dụng ở nhiều nước trên thế giới cách đây rất lâu.
Tại Việt Nam giá trị hợp lý cũng đã xuất hiện để định giá các đối tượng kế
toán. Tuy nhiên, do còn khá mới mẻ nên việc áp dụng chưa được rộng rãi và chưa
đạt được mục đích của giá trị hợp lý.
Vì vậy việc “định hướng về việc xác định giá trị hợp lý trong kế toán doanh
nghiệp Việt Nam” là một vấn đề cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm:
- Làm rõ bản chất của giá trị hợp lý và khẳng định một công cụ định giá mới
phục vụ cho công tác kế toán ở Việt Nam.
- Mang đến sự phù hợp về định giá giữa Việt Nam và quốc tế để rút ngắn
khoảng cách trong quá trình hội nhập.
Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm định hướng về về việc sử dụng giá
trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam, bằng cách tiếp cận những nghiên
cứu trên thế giới và thực tế áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp ở Việt
Nam.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ giới hạn ở kế toán tài chính doanh nghiệp Việt Nam, không đề cập
đến kế toán quản trị cũng như các lĩnh vực kế toán khác.

2
Đề tài tập trung nghiên cứu và giải quyết những vấn đề chủ yếu sau đây:


- Nghiên cứu về hệ thống định giá trong kế toán; lịch sử hình thành, bản chất
và nội dung của giá trị hợp lý, cũng như thực trạng áp dụng giá trị hợp lý trên
thế giới.
- Nghiên cứu về hệ thống định giá trong kế toán Việt Nam; nghiên cứu về đặc
điểm của giá trị hợp lý trong lý thuyết cũng như khảo sát thực tế áp dụng giá
trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam, để từ đó bàn về vai trò hiện
tại và tương lai cũng như những điều kiện để nâng cao vai trò của giá trị hợp
lý.
- Định hướng về việc sử dụng giá trị hợp lý cho phù hợp với đặc điểm của
Việt Nam và thông lệ của quốc tế trong giai đoạn trước mắt cũng như là lâu
dài.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phân tích thực tiễn theo quan điểm lịch sử
và toàn diện, gắn sự phát triển của giá trị hợp lý với điều kiện kinh tế xã hội của
Việt Nam trong xu thế chung của thế giới. Để đánh giá thực trạng, luận văn sử dụng
một số công cụ phân tích định lượng như: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu.
Những đóng góp của luận văn
Những đóng góp chính là:
- Hệ thống hoá về định giá trong kế toán, nêu lên bản chất và nội dung cơ bản
của giá trị hợp lý.
- Hệ thống hoá vấn đề định giá trong kế toán Việt Nam. Khái quát các yêu cầu
về giá trị hợp lý trong chuẩn mực kế toán, phân tích và đánh giá bản chất, vai
trò của giá trị hợp lý trong kế toán Việt Nam. Nhận định những thuận lợi và
khó khăn trong việc nâng cao vai trò của giá trị hợp lý trong kế toán doanh
nghiệp.
- Định hướng về việc sử dụng giá trị hợp lý:

3
Trong giai đoạn trước mắt, luận văn đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện các
chuẩn mực hiện có, với mục đích tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm giá trị hợp lý

Về lâu dài: luận văn đề nghị điều chỉnh Luật kế toán, chuẩn mực chung, và đề
xuất ban hành một số chuẩn mực mới với mục đích phát triển giá trị hợp lý
đồng hành cùng hệ thống kế toán Việt Nam.
Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 64 trang, 7 bảng biểu, 1 sơ đồ và 9 phụ lục. Nội dung luận văn
ngoài phần mở đầu và phần kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về giá trị hợp lý
Chương 2: Thực trạng áp dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam và những vấn đề đặt
ra xung quanh việc sử dụng giá trị hợp lý.
Chương 3: Định hướng về việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán doanh
nghiệp Việt Nam.













4
CHƯƠNG 1:

TỔNG QUAN VỀ GIÁ TRỊ HỢP LÝ

Xác định giá trị có vai trò quan trọng trong công tác kế toán nhằm cung cấp những

thông tin hữu ích cho người sử dụng báo cáo tài chính. Hiện nay, giá trị hợp lý là
một xu hướng mới để định giá các đối tượng kế toán. Phần này sẽ trình bày các vấn
đề về định giá nói chung và sau đó làm rõ hơn về quá trình phát triển, bản chất cũng
như nội dung của giá trị hợp lý để hiểu rõ hơn về xu hướng này.
1.1. VẤN ĐỀ ĐỊNH GIÁ TRONG KẾ TOÁN
1.1.1. Khái niệm định giá trong kế toán
Định giá (còn gọi là đánh giá, tính giá) là “xác định giá trị bằng tiền tệ cho các
đối tượng hoặc sự kiện liên quan đến doanh nghiệp”
1
. Định giá diễn ra thường
xuyên trong hoạt động kinh tế của doanh nghiệp như khi giao dịch, mua bán, sản
xuất.
Định giá trong kế toán
Trong kế toán, với chức năng “thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp
thông tin kinh tế tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động”
2
thì
định giá trong kế toán là xác định giá trị tiền tệ khi phản ánh các đối tượng và các
nghiệp vụ của kế toán. Do đề tài chỉ tập trung vào việc định giá trong kế toán tài
chính, đối tượng của định giá trong kế toán tài chính là đối tượng phản ánh của kế
toán, bao gồm: tài sản, nợ phải trả, doanh thu, chi phí …
Xét trong mối quan hệ với nghiệp vụ và giao dịch thì định giá trong kế toán
bao gồm hai loại :
- Định giá ban đầu : là xác định giá trị của đối tượng kế toán ngay khi nghiệp
vụ kinh tế phát sinh để ghi nhận vào sổ sách kế toán.

1
Eldon S. Hendriksen, Accounting theory, xuất bản lần thứ tư, trang 75
2
Luật Kế toán Việt Nam, năm 2003, điều 4.


5
- Định giá sau ghi nhận ban đầu: là xác định lại giá trị của các đối tượng kế
toán sau một kỳ nhất định, xuất phát từ sự thay đổi giá trị của các đối tượng
này như hao mòn, đánh giá lại…
1.1.2. Tầm quan trọng của định giá trong kế toán
Định giá là một công việc quan trọng trong kế toán tài chính bởi vì :
(1). Định giá là một phương pháp cơ bản của kế toán
Thông qua định giá, giá trị của các đối tượng kế toán của doanh nghiệp được
biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, xác định được giá trị tài sản, nguồn vốn, cũng như
kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong hệ thống các phương pháp kế toán, định giá đóng vai trò quan trọng
trong việc kết hợp với các phương pháp kế toán khác như tài khoản, ghi sổ kép,
tổng hợp và cân đối… để thực hiện các mục đích và nhiệm vụ của kế toán.
(2).

Định giá ảnh hưởng đến quyết định của người đọc báo cáo tài chính
Định giá ảnh hưởng đến tất cả các khoản mục của báo cáo tài chính, từ đó nó
ảnh hưởng đến các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá tình hình tài chính, tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp.
Ví dụ, nếu tài sản được đánh giá cao hơn giá trị của nó sẽ dẫn đến chỉ số về
khả năng thanh toán cao làm cho nhà đầu tư, chủ nợ kỳ vọng vào khả năng trả nợ
của doanh nghiệp. Hoặc nếu đánh giá không đúng tình hình hoạt động kinh doanh
sẽ làm ảnh hưởng đến tỉ suất sinh lời, số vòng quay vốn, số vòng quay hàng tồn
kho… Như vậy, định giá ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của người đọc báo cáo
tài chính.
Chính vì tầm quan trọng này mà các chuẩn mực kế toán thường dành một phần
lớn nội dung để bàn về vấn đề định giá các khoản mục trên báo cáo tài chính.
1.1.3. Các giả thiết, nguyên tắc kế toán hưởng đến việc định giá
Do kế toán tài chính phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính và phải đảm bảo

tính chất trung thực, hợp lý, việc định giá trong kế toán phải đảm bảo những nguyên

6
tắc nhất định để tránh sự tuỳ tiện hoặc chủ quan của người kế toán. Phần này sẽ
trình bày những nguyên tắc kế toán có ảnh hưởng rõ rệt đến định giá dựa trên khuôn
mẫu lý thuyết của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (dưới đây gọi là IAS
framework)

IAS framework đề cập đến hai giả định (cơ sở dồn tích, hoạt động liên tục) và
bốn đặc điểm chất lượng (có thể hiểu được, có thể so sánh được, thích hợp và đáng
tin cậy). Trong đó những giả định và các đặc điểm chất lượng có ảnh hưởng rõ rệt
đến định giá là:
Giả định về tính hoạt động liên tục
Báo cáo tài chính được lập trên giả định rằng doanh nghiệp đang hoạt động và
sẽ không có ý định ngừng hoạt động trong một tương lai gần.
Giả định này ảnh hưởng quan trọng đến việc định giá. Nó là cơ sở cho phép
giá gốc được sử dụng để đánh giá và trình bày các yếu tố của báo cáo tài chính. Nếu
giả định này bị vi phạm thì tất cả tài sản của doanh nghiệp phải được trình bày theo
giá trị thuần có thể thực hiện.
Đặc điểm có thể so sánh được
Thông tin cần được trình bày trên báo cáo tài chính sao cho người đọc có thể
so sánh chúng với báo cáo tài chính của doanh nghiệp khác, hoặc với các kỳ trước
của chính doanh nghiệp đó.
Đặc điểm này chính là lý do để thông tin được trình bày theo hình thức tiền tệ.
Không những thế, nó còn chi phối đến phương pháp định giá : các cách định giá
khác nhau sẽ dẫn đến tình hình tài chính và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
khác nhau, vì vậy yêu cầu các phương pháp định giá phải được sử dụng nhất quán
giữa các kỳ.
Đặc điểm đáng tin cậy
Thông tin chỉ hữu ích khi nào chúng đáng tin cậy. Thông tin được gọi là đáng

tin cậy khi chúng không bị sai sót hay thiên lệch một cách trọng yếu.

7
Trong đặc điểm đáng tin cậy, nguyên tắc khách quan và nguyên tắc thận trọng
có ảnh hưởng rõ rệt đến định giá.
- Nguyên tắc khách quan
Thông tin trên báo cáo tài chính phải khách quan, không bị sai lệch một cách
cố ý.
Nguyên tắc khách quan ảnh hưởng lớn đến định giá. Nguyên tắc này yêu cầu
các loại giá được sử dụng phải có thể xác định được và có thể kiểm chứng được.
Đây cũng chính là lý do khiến cho hệ thống kế toán dựa trên giá gốc được chấp
nhận ở hầu hết các nước trên thế giới. Cùng với sự phát triển của hệ thống thông tin
làm cho yêu cầu có thể có được và có thể kiểm chứng được trở nên dễ dàng làm
xuất hiện nhiều loại giá khác được sử dụng: giá thay thế, giá thị trường, giá trị hợp
lý…
- Nguyên tắc thận trọng
Nguyên tắc thận trọng yêu cầu phải trình bày nội dung về các sự kiện, tình thế
không chắc chắn khó có thể tránh được, chẳng hạn như khả năng thu hồi các khoản
nợ khó đòi, thời gian hữu dụng của tài sản, khả năng xảy ra các khoản nợ phải trả…
Nguyên tắc thận trọng nhằm mục đích tránh thổi phồng giá trị tài sản, nhưng cũng
không có nghĩa là giấu bớt giá trị thực của tài sản.
Nguyên tắc này ảnh hưởng đến việc định giá ở chỗ : yêu cầu giá được sử dụng
không làm thổi phồng giá trị tài sản, có nghĩa là tài sản được ghi nhận không được
vượt khỏi giá trị thuần có thể thực hiện.
1.1.4. Các loại giá được sử dụng
Quá trình phát triển các lý thuyết và thực tiễn hoạt động kế toán đã dẫn đến sự
ra đời nhiều loại giá khác nhau, chúng được phân thành các loại như sau:
a. Giá đầu vào
- Giá gốc (historical cost): là số tiền hoặc tương đương tiền đã thanh toán để
có một tài sản hoặc thanh toán một khoản nợ phải trả.


8
Giá gốc còn được gọi là giá phí lịch sử, giá phí, giá thực tế.
- Giá thay thế (replacement cost)- chi phí thay thế: là số tiền hoặc tương
đương tiền sẽ được chi trả để nhận được tài sản tương đương có cùng giá trị
hữu dụng còn lại.
Giá thay thế được ước tính dựa vào giá thị trường, hoặc chỉ số giá đặc biệt,
hoặc sự ước lượng của nhà quản lý.
b. Giá đầu ra
- Giá trị thuần có thể thực hiện (net realizable value): là số tiền hoặc tương
đương tiền thuần sẽ thu được khi bán tài sản hoặc sẽ phải trả để thanh toán
nợ hiện tại. Giá trị thuần có thể thực hiện là giá bán ước tính trong điều kiện
kinh doanh bình thường trừ chi phí ước tính cho việc hoàn thành và tiêu thụ.
Giá trị thuần có thể thực hiện cũng được ước tính từ mức giá thị trường và
điều chỉnh theo giá bán ước lượng (tức là giá thị trường cộng thêm lãi mong
muốn), hoặc được ước lượng dựa vào chỉ số giá đặc biệt và sự định giá.
- Hiện giá (present value): là giá trị hiện tại của dòng tiền thuần sẽ nhận được
từ việc sử dụng tài sản hoặc sẽ trả để thanh toán nợ.
Để tính toán hiện giá phụ thuộc vào: dòng tiền mong muốn, thời gian của
dòng tiền mong muốn, số năm còn lại của tài sản hoặc nợ phải trả, lãi suất
chiết khấu phù hợp.
c. Các loại giá khác
- Giá thị trường (market value): là giá của tài sản hoặc nợ phải trả được xác
định trên thị trường hoạt động.
Điều kiện để giá thị trường phản ánh đúng giá cả của tài sản, nợ phải trả là
phải có thị trường hoạt động, trong đó người mua và người bán phải có đầy
đủ sự hiểu biết về giao dịch, mua bán không có bất cứ sự cưỡng ép nào. Vì
vậy vấn đề khó khăn gặp phải khi sử dụng giá thị trường là trong nhiều

9

trường hợp không có thị trường hoạt động để có thể xác định được giá thị
trường.
- Giá trị hợp lý (fair value): “là giá mà tại đó tài sản và nợ phải trả có thể được
trao đổi trong một giao dịch hiện tại giữa những người tự nguyện, thông
thạo, không có mối quan hệ”
3
Giá trị hợp lý là giá trao đổi mà được ước tính dựa vào hoạt động của những
người tham gia trên thị trường trong một giao dịch giả định. Trong trường
hợp có giá thị trường thì giá trị hợp lý chính là giá thị trường. Trong các
trường hợp khác thì giá trị hợp lý được xác định dựa vào việc ước tính.
Giá trị hợp lý và giá thị trường là cùng một loại giá dựa trên các thị trường
hoạt động, tuy nhiên chúng không đồng nhất hoàn toàn. Trong những trường
hợp không có thị trường hoạt động thì không thể xác định giá thị trường,
nhưng giá trị hợp lý vẫn được xác định dựa trên các ước tính.
d. Ngoài ra một số khoản mục được đánh giá theo sự lựa chọn giữa một
trong hai loại giá:
- Giá thấp hơn giữa giá gốc và giá thị trường (LCM – lower of cost and
market value).
LCM thường được áp dụng trong hệ thống kế toán của Mỹ để trình bày
khoản mục hàng tồn kho.
Giá thị trường trong LCM là giá thay thế nằm trong phạm vi giá trần và giá
sàn. Giá trần là giá trị thuần có thể thực hiện; giá sàn là giá trị thuần có thể
thực hiện trừ lợi nhuận ước tính.
- Giá thấp hơn giữa giá gốc và giá trị thuần có thể thực hiện
Giá này được đề cập trong chuẩn mực kế toán quốc tế để trình bày khoản
mục hàng tồn kho.


3
FASB, Fair Value Measurements, dự thảo, năm 2004, trang 2


10
1.1.5. Các hệ thống định giá kế toán
Hệ thống định giá kế toán xuất hiện từ lý luận về vốn và bảo toàn vốn. Trong
mỗi hệ thống kế toán, các loại giá khác nhau được sử dụng phối hợp để định giá các
đối tượng kế toán.
1.1.5.1. Khái niệm về vốn và bảo toàn vốn
Lý luận về vốn và bảo toàn vốn làm nền tảng cho việc xây dựng hệ thống giá
trong kế toán. Phần này sẽ trình bày khái niệm về vốn và những ảnh hưởng của nó
đến việc định giá.
Khái niệm về vốn :
Theo khái niệm tài chính vốn là tiền đầu tư hoặc sức mua của vốn đã đầu tư,
vốn đồng nghĩa với tài sản thuần hoặc vốn chủ sở hữu.
Theo khái niệm vật chất vốn như là năng lực hoạt động, năng lực sản xuất của
một doanh nghiệp.
Khái niệm bảo toàn vốn
Dựa trên hai khái niệm về vốn làm nảy sinh hai khái niệm về bảo toàn vốn:
bảo toàn vốn tài chính và bảo toàn vốn vật chất.
Khái niệm bảo toàn vốn tài chính: lợi nhuận là phần vượt của giá trị tài sản
thuần cuối kỳ so với đầu kỳ sau khi loại trừ ảnh hưởng của các khoản góp vốn hoặc
chia lãi cho cổ đông.
Như vậy lợi nhuận chỉ xảy ra khi có sự tăng lên của giá trị tài sản thuần trong
những điều kiện trên. Theo IAS framework có hai phương pháp để xác định bảo
toàn vốn tài chính :
- Theo đơn vị tiền tệ danh nghĩa : lợi nhuận là khoản gia tăng vốn danh nghĩa
trong kỳ. Như vậy khoản gia tăng về giá cả của tài sản hiện có trong kỳ được coi là
lợi nhuận, tuy nhiên chúng chưa được ghi nhận cho đến khi tài sản đó được bán
hoặc trao đổi.

11

- Theo đơn vị sức mua ổn định : lợi nhuận là khoản gia tăng sức mua của vốn
trong kỳ. Như vậy chỉ có phần gia tăng giá cả của tài sản vượt quá phần tăng của
sức mua chung thì mới được coi là lợi nhuận.
Khái niệm bảo toàn vốn vật chất: lợi nhuận là phần vượt của năng lực sản xuất
vật chất cuối kỳ so với đầu kỳ sau khi trừ đi khoản góp vốn và chia lãi cho các cổ
đông.
Khái niệm bảo toàn vốn về mặt vật chất yêu cầu báo cáo dựa trên cơ sở giá
hiện hành.
1.1.5.2. Các hệ thống định giá kế toán
Các khái niệm về vốn và bảo toàn vốn ra đời xuất phát từ biến động giá trong
nền kinh tế và nó đưa ra cách thức để giải thích một cách có hệ thống việc áp dụng
các loại giá trong nền kinh tế. Tương ứng với hai quan điểm bảo toàn vốn tài chính
và vật chất đã có bốn hệ thống định giá kế toán :
- Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá gốc: ghi nhận và lập báo cáo tài chính
dựa trên cơ sở giá gốc. Bảo toàn vốn về mặt tài chính theo đơn vị tiền tệ
danh nghĩa. Hệ thống này sử dụng giá gốc là chủ yếu và kết hợp với các loại
giá khác: giá trị hợp lý, giá trị thuần có thể thực hiện, hiện giá. Để ghi nhận
ban đầu chủ yếu là sử dụng giá gốc. Sau ghi nhận ban đầu, giá gốc của một
số khoản mục được điều chỉnh dựa trên nguyên tắc thận trọng (chỉ cho phép
điều chỉnh giảm) hoặc đánh giá lại (điều chỉnh cho cả tăng và giảm)
- Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá gốc đã được điều chỉnh giá theo sức
mua của tiền tệ: giá gốc được điều chỉnh theo chỉ số giá trước khi lập báo cáo
tài chính, nhằm bảo toàn vốn tài chính theo sức mua ổn định.
- Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá hiện hành: với mục đích bảo toàn
năng lực sản xuất, hệ thống kế toán này đánh giá các đối tượng kế toán vào
cuối kỳ theo hiện giá, chi phí thay thế, giá trị thuần có thể thực hiện, hoặc kết
hợp giữa các loại giá.

12
- Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá hiện hành điều chỉnh theo sức mua

chung: sử dụng như giá hiện hành và điều chỉnh theo chỉ số giá trước khi lập
báo cáo tài chính, nhằm bảo toàn năng lực sản xuất và sức mua chung.
1.1.6. Định giá một số khoản mục theo chuẩn mực quốc tế và theo kế toán
Mỹ, kế toán Anh
Để thấy được vai trò của các loại giá, chúng tôi đã so sánh định giá một số
khoản mục theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), theo kế toán Mỹ (US GAAP) và
theo kế toán Anh (UK GAAP) trong bảng 1.1
Hiện nay hệ thống định giá kế toán dựa vào giá gốc là hệ thống định giá kế
toán chủ yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong hệ thống này, chủ yếu sử
dụng giá gốc để đánh giá các đối tượng kế toán, bên cạnh đó, một số loại giá khác
được sử dụng trong từng trường hợp cụ thể. Ưu điểm của hệ thống giá gốc là khách
quan, thận trọng, có thể kiểm soát được, tuy nhiên thường bị lạc hậu vì giá cả biến
đổi, vì vậy làm cho tính hữu ích của thông tin không cao.
Trong những năm 70 – 80 của thế kỷ hai mươi, hệ thống định giá kế toán dựa
trên giá hiện hành được cho phép. Hệ thống giá này khắc phục được nhược điểm
của hệ thống kế toán dựa vào giá gốc, nó bảo toàn được năng lực sản xuất vật chất,
tuy nhiên nó phức tạp vì phải điều chỉnh lại doanh thu, giá vốn hàng bán, khấu
hao… nên phải điều chỉnh lại các báo cáo tài chính.
Trong bối cảnh đó, giá trị hợp lý dần dần được quan tâm và được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực, trong nhiều trường hợp.







13
Bảng 1.1 Định giá một số khoản mục theo chuẩn mực quốc tế (IAS) và theo kế
toán Mỹ (US GAAP), kế toán Anh (UK GAAP)

(Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu của PricewaterhouseCoopers và chuẩn mực kế toán quốc tế)
Khoản mục IAS US GAAP UK GAAP
Nguyên tắc kế toán Sử dụng giá gốc,
nhưng những tài
sản tăng giá có thể
được đánh giá lại
Nguyên tắc giá
gốc. Không cho
phép đánh giá lại
tài sản, ngoại trừ
một số chứng
khoán và công cụ
phái sinh xác định
tại giá trị hợp lý
Giống IAS
Nhà xưởng và thiết
bị
Trình bày theo giá
gốc trừ khấu hao
trừ giảm giá hoặc
theo giá trị hợp lý
Sử dụng giá gốc,
không cho phép
đánh giá lại
Giống IAS
Tài sản cố định vô
hình
Trình bày theo giá
gốc trừ hao mòn trừ
giảm giá hoặc theo

giá trị hợp lý
Sử dụng giá gốc Giống IAS
Bất động sản đầu tư Hoặc xem như là
đầu tư hoặc xem
như là bất động sản
và thiết bị. Xác
định theo giá gốc
trừ khấu hao lũy kế
trừ giảm giá; hoặc
theo giá trị hợp lý.
Tương tự như bất
động sản khác, sử
dụng giá gốc
Ghi nhận tại giá
thị trường công
khai trừ cho khấu
hao.

14
Công cụ tài chính Ghi nhận dựa vào
phân loại đầu tư:
- Giữ đến kỳ: ghi
nhận theo giá trị
hoàn dần bằng giá
gốc trừ phần thanh
toán gốc trừ giá trị
hoàn dần luỹ kế.
- Chứng khoán
thương mại hoặc
chứng khoán có thể

bán ghi nhận tại giá
trị hợp lý.
Giống IAS Ghi nhận đầu tư
dài hạn tại chi phí
(giá gốc), giá thị
trường hoặc giá
thích hợp khác ví
dụ như giá trị tài
sản thuần.
Ghi nhận đầu tư
ngắn hạn tại giá
thấp hơn giữa giá
gốc và giá trị
thuần có thể thực
hiện hoặc giá hiện
hành.
Hàng tồn kho Trình bày theo giá
thấp hơn giữa giá
gốc và giá trị thuần
có thể thực hiện.
Ghi nhận theo giá
thấp hơn giữa giá
gốc và giá thị
trường.
Phù hợp với IAS

1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁ TRỊ HỢP LÝ

1.2.1. Lược sử về sự hình thành và phát triển của giá trị hợp lý
Sự hình thành và phát triển của giá trị hợp lý có thể được chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1960 đến 1990: Giá trị hợp lý bắt đầu xuất hiện và mở rộng phạm
vi sử dụng.
Trên thế giới, giá trị hợp lý xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ, được đề cập đến trong
báo cáo của Ủy ban nguyên tắc kế toán (APB). Sự hình thành giá trị hợp lý là một
quá trình lâu dài:

15
- Từ năm 1962 – 1969: là giai đoạn tiền đề, trong giai đoạn này giá thị
trường được sử dụng, nhưng trong một số trường hợp không có thị trường hoạt
động để có thể xác định được giá thị trường.
- Đến năm 1970 : giá trị hợp lý chính thức xuất hiện, được đề cập đến đầu
tiên trong Ý kiến của APB số 16 (APB Opinion 16), số 17, để ghi nhận lợi thế
thương mại, ghi nhận giá trị của tài sản có được do hợp nhất:
APB Opinion 16 - Hợp nhất doanh nghiệp “Tất cả tài sản, nợ phải trả
có được trong hợp nhất doanh nghiệp nên được ghi nhận tại giá trị hợp lý của
chúng tại ngày mua”
APB Opinion 17 – Tài sản vô hình – “Sự khác nhau giữa giá trị hợp lý
và chi phí sẽ được coi như lợi thế thương mại”
Sau khi xuất hiện, giá trị hợp lý tiếp tục được thừa nhận và phạm vi sử dụng
của giá trị hợp lý dần dần được mở rộng hơn. Giá trị hợp lý bắt đầu được sự quan
tâm và áp dụng của nhiều nước cũng như của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế
(IASB), được sử dụng trong nhiều lĩnh vực: dầu khí, truyền hình, ngân hàng, bảo
hiểm…Và cũng đã có những hướng dẫn hạn chế về cách xác định và trình bày giá
trị hợp lý trên báo cáo tài chính.
Nhìn chung, trong giai đoạn này giá trị hợp lý xuất hiện để áp dụng cho lợi thế
thương mại và tài sản có được do hợp nhất, sau đó giá trị hợp lý được mở rộng để
áp dụng cho một số chứng khoán và giao dịch phi tiền tệ, công cụ tài chính, thuê tài
sản.
Giai đoạn 1991 đến nay: Giá trị hợp lý phát triển mạnh mẽ cùng với sự hình
thành và phát triển của các thị trường hoạt động.

Đây là giai đoạn phát triển nhất của giá trị hợp lý, nó được khẳng định qua hai
giai đoạn:
- Từ năm 1991 đến 2000: sự phát triển được đánh dấu bằng hàng loạt các
chuẩn mực của Mỹ : FASB Statement 107 (năm 1991) công bố về giá trị hợp lý của
công cụ tài chính, FASB Statement 141 - hợp nhất doanh nghiệp, FASB Statement

16
142 lợi thế thương mại và tài sản vô hình … các chuẩn mực này đã đưa ra được
những hướng dẫn rõ ràng hơn về giá trị hợp lý.
Lúc này chuẩn mực của Mỹ cũng như chuẩn mực quốc tế đã bắt đầu
sử dụng giá trị hợp lý cho việc đánh giá sau ghi nhận ban đầu.
Trong giai đoạn này, giá trị hợp lý được áp dụng rộng rãi trong nhiều
ngành, nhiều khoản mục làm xuất hiện sự lo lắng về khả năng của giá trị hợp lý do
những hướng dẫn về giá trị hợp lý vẫn chưa đạt được sự thống nhất chung và có
nhiều mâu thuẫn trong các công bố.
- Từ năm 2000 đến nay
Bắt đầu từ năm 2000 để giải quyết những lo lắng về giá trị hợp lý,
FASB và IASB đã bắt tay vào nghiên cứu sâu hơn về lý thuyết của giá trị hợp lý.
Năm 2004 sự phát triển mạnh mẽ của giá trị hợp lý được chứng minh
bằng Dự thảo Chuẩn mực về giá trị hợp lý của FASB – giá trị hợp lý bắt đầu được
nghiên cứu vào năm 2003, và sau nhiều lần tiến hành thảo luận Dự thảo được công
bố chính thức vào tháng 6 năm 2004. Bên cạnh đó, chuẩn mực kiểm toán quốc tế số
545 - Kiếm toán xác định và công bố giá trị hợp lý hướng dẫn kiểm toán giá trị hợp
lý cho các báo cáo tài chính bắt đầu từ năm 2004 cũng đã cho thấy sự phát triển của
giá trị hợp lý.
1.2.2. Nội dung của giá trị hợp lý
Hiện nay, hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế chưa ban hành chuẩn mực về
giá trị hợp lý. Phần viết dưới đây dựa vào dự thảo chuẩn mực về giá trị hợp lý của
FASB.
1.2.2.1. Khái niệm giá trị hợp lý

Giá trị hợp lý là giá mà tại đó tài sản và nợ phải trả có thể được trao đổi trong
một giao dịch hiện tại giữa những người tham gia tự nguyện, không có mối quan hệ,
có đầy đủ sự hiểu biết về trao đổi.
Các khái niệm trong định nghĩa này được hiểu như sau:

17
- Những người tham gia tự nguyện: là những người mua bán không có mối
quan hệ với nhau, có khả năng tài chính và khả năng pháp luật để thực hiện
giao dịch, tự nguyện tham gia giao dịch, không có sự ép buộc.
- Có đầy đủ sự hiểu biết: những người tham gia giao dịch phải có trình độ
chung của sự hiểu biết về những nhân tố, những đặc điểm của tài sản và nợ
phải trả đang giao dịch, có sự hiểu biết về giao dịch.
1.2.2.2. Định nghĩa thị trường và những thông tin có thể lấy được từ thị
trường
Trong quá trình xác định giá trị hợp lý cần phải tham khảo những thông tin và
những dữ liệu được lấy từ thị trường. Những thị trường có thể là:
- Thị trường hối đoái (exchange market): thị trường này cung cấp sự rõ ràng
và minh bạch cao để trao đổi công cụ tài chính. Trên thị trường này thì giá
đóng (giá thực hiện giao dịch) được xác định dễ dàng và thường xuyên. Ví
dụ : thị trường chứng khoán
- Thị trường bán buôn (dealer market): trên thị trường này người mua sử dụng
vốn của họ để giữ hàng tồn kho nào đó và sau đó thì bán lại, giá trả và giá
chào thì có được dễ dàng và thường xuyên hơn giá đóng. Ví dụ thị trường
hàng hoá, tài sản …
- Thị trường môi giới (brokered market): trên thị trường này những người môi
giới không sử dụng vốn của họ để giữ tài sản, hàng hoá, mà chỉ cố gắng kết
hợp những người mua và những người bán. Trên thị trường này thì thường
có sẵn giá giao dịch đã thực hiện. Ví dụ thị trường bất động sản thương mại,
thị trường nhà ở …
- Thị trương trực tiếp (principal – to principal market): là những nơi giao dịch

trực tiếp, được thoả thuận độc lập, không qua trung gian. Các thông tin trên
thị trường này thì ít công khai.



18
Những thông tin có thể lấy được từ thị trường:
Khi ước tính giá trị hợp lý doanh nghiệp phải dựa vào các thông tin hiện tại, có
nguồn gốc từ các nguồn độc lập của doanh nghiệp. Những thông tin mà doanh
nghiệp có thể lấy được từ thị trường là:
- Giá tham chiếu
4
: là giá trả, giá chào, giá đóng – giá giao dịch…các giá được
niêm yết trên thị trường, có được dễ dàng và thường xuyên, những giao dịch
thì xảy ra thường xuyên đủ để cung cấp thông tin về giá, những thông tin về
giá này sử dụng được trong hiện tại,
- Thông tin về lãi suất, khả năng thanh toán tiền mặt, tỉ giá hối đoái, dòng tiền
theo hợp đồng, những điều khoản trong hợp đồng…những thông tin này
được lựa chọn sử dụng trong ước tính giá trị hợp lý.
- Đánh giá tổn thất và rủi ro tín dụng, được sử dụng để ước tính lãi suất cho
vay, lãi suất khi mua trả chậm …
- Các dữ liệu tín dụng đặc biệt và các bảng thống kê thích hợp khác mà được
công khai (ví dụ các dữ liệu trong các ngành đặc biệt…).
1.2.2.3. Phương pháp xác định giá trị hợp lý
Để có thể đưa ra phương pháp xác định giá trị hợp lý thích hợp, người định giá
cần xem xét những vấn đề sau :
(1) Tiền đề định giá
Tiền đề định giá cung cấp mục đích của định giá để từ đó lựa chọn phương
pháp cho thích hợp. Tiền đề định giá bao gồm:
- Tiền đề định giá hoạt động liên tục hoặc đang sử dụng: áp dụng để xác định

giá trị hợp lý của tài sản và nợ phải trả khi: doanh nghiệp hoạt động liên tục
hoặc tài sản được xác định là để sử dụng cho hoạt động của doanh nghiệp.

4
Giá tham chiếu: là giá mà có những dữ liệu đáng tin cậy của thị trường hoạt động, hoặc được công bố chính
thức từ thị trường hoạt động.

19
- Tiền đề định giá trong trao đổi: tài sản được xác định không nhằm mục đích
sử dụng mà để bán, trao đổi.
(2) Cấp độ xác định giá trị hợp lý
Căn cứ vào những thông tin và những giả định đang có, người định giá sẽ xem
xét xem có thể xác định giá trị hợp lý ở cấp độ nào. Cấp độ càng cao thì ước tính
càng đáng tin cậy. FASB đã đưa ra ba cấp độ (trong đó cấp độ 1 là cấp độ cao nhất):
- Cấp độ 1: áp dụng trong trường hợp có giá tham chiếu trên thị
trường của tài sản và nợ phải trả y hệt như tài sản và nợ phải trả đang được định giá.
Giá trị hợp lý sẽ là giá tham chiếu đó.
Y hệt có nghĩa là: đối với tài sản: có cùng đặc điểm, cùng tính
chất, cùng tình trạng cũ - mới, cùng nước sản xuất, cùng năm sản xuất. Đối với nợ
phải trả: có cùng những điều khoản trong hợp đồng, cùng thời gian, số tiền, sự đánh
giá tình trạng tín dụng…
Nếu không đạt được cấp độ 1 thì sẽ xem xét sang cấp độ 2.
- Cấp độ 2: áp dụng trong trường hợp có giá tham chiếu trên thị
trường của tài sản hoặc nợ phải trả tương tự như tài sản hoặc nợ phải trả đang được
định giá. Giá trị hợp lý sẽ là giá tham chiếu điều chỉnh cho những khác biệt.
Nếu không đạt được cấp độ 2 thì sẽ xem xét sang cấp độ 3.
- Cấp độ 3: áp dụng trong trường hợp không có giá tham chiếu của
tài sản hoặc nợ phải trả tương tự, hoặc có nhưng mức độ khác biệt thì không đánh
giá được rõ ràng. Giá trị hợp lý sẽ được ước tính dựa vào các phương pháp: phương
pháp tiếp cận thị trường, phương pháp tiếp cận thu nhập, phương pháp tiếp cận chi

phí. Phương pháp nào sử dụng nhiều dữ liệu và giả định từ thị trường thì phương
pháp đó sẽ cho kết quả đáng tin cậy nhất. Nếu không có những giả định và dữ liệu
từ thị trường thì sẽ ước tính giá trị hợp lý dựa vào những giả định và những ước tính
nội bộ của doanh nghiệp.


20
(3) Phương pháp xác định giá trị hợp lý
Tùy thuộc vào từng cấp độ sẽ áp dụng phương pháp xác định phù hợp. Đối với
ước tính cấp độ 1 và cấp độ 2 thì chỉ cần sử dụng 1 phương pháp (phương pháp tiếp
cận thị trường), đối với ước tính cấp độ 3 thì cần phải sử dụng cả 3 phương pháp.
Các phương pháp được mô tả như sau:
- Phương pháp tiếp cận thị trường: áp dụng khi có giá tham chiếu trên thị
trường. Giá trị hợp lý dựa vào giá tham chiếu, điều chỉnh nếu cần thiết.
Những trường hợp phải điều chỉnh giá tham chiếu:
+ Giá tham khảo không lấy từ thị trường hiện tại mà là giá cũ, do vậy
doanh nghiệp nên xem xét thời gian của giao dịch thực tế, những thay
đổi trong điều kiện tín dụng, lãi suất, những nhân tố khác… để điều
chỉnh cho phù hợp.
+ Sự khác nhau của tài sản có giá tham chiếu trên thị trường và tài sản
đang được định giá thì không thể xác định rõ ràng, vì vậy cần phải
điều chỉnh giá tham chiếu.
+ Những giá mà không đại diện cho các giao dịch trên thị trường, ví dụ
như giá được lấy từ giao dịch bị cưỡng ép, giao dịch giữa các bên có
liên quan …
+ Có sự khác biệt trong đơn vị tính toán, hoàn cảnh, khu vực, hợp đồng…
- Phương pháp tiếp cận chi phí: theo phương pháp này giá trị hợp lý được ước
tính dựa vào số tiền ước tính để có được tài sản thay thế.
- Phương pháp tiếp cận thu nhập: theo phương pháp này, giá trị hợp lý được
ước tính dựa vào dòng thu nhập mong chờ. Hay nói cách khác giá trị hợp lý

chính là hiện giá của dòng thu nhập mong chờ bằng cách sử dụng lãi suất để
quy đổi dòng tiền mong chờ tương lai về hiện tại. (Xem phụ lục số 3).
Phương pháp xác định giá trị hợp lý được khái quát lại qua sơ đồ phương
pháp xác định giá trị hợp lý trong hình 1.1 dưới đây.

21
Hình 1.1: Phương pháp xác định giá trị hợp lý
SƠ ĐỒ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ HỢP LÝ














Bắt đầu
có giá thị trường tham chiếu
Ước tính
cấp độ 1
PP tiếp cận
thị trường
giá tham
chiếu

Ước tính
cấp độ 2
PP tiếp cận
thị trường
giá tham
chiếu đã
điều chỉnh
không
có giá
thị
trường
tham
chiếu,
hoặc có
giá thị
trường
nhưng
không
xác
định
được
mức độ

khác
biệt








PP tiếp cận thị
trường
Ước tính
cấp độ 3
PP tiếp cận
thu nhập
Lựa chọn
kết quả
đáng tin
cậy nhất
phù hợp
với tiền
đề định
giá
PP tiếp cận
chi phí

22
1.2.3. Bản chất của giá trị hợp lý
1.2.3.1. Bản chất của giá trị hợp lý
Việc xem xét quá trình hình thành và phát triển của giá trị hợp lý trong toàn bộ
hệ thống định giá kế toán cho phép rút ra một số nhận xét sau nhằm làm sáng tỏ bản
chất của giá trị hợp lý:
So sánh với hệ thống giá gốc:
Hệ thống giá gốc được sử dụng hiện nay là hệ thống giá gốc dựa trên đơn vị
tiền tệ danh nghĩa, có điều chỉnh để khắc phục những yếu kém của giá gốc.
Tuy nhiên, trong điều kiện sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện tại, hệ
thống này bộc lộ một số nhược điểm. Giá trị hợp lý đã khắc phục các nhược

điểm này chủ yếu thông qua việc phát triển các công cụ định giá sau ghi nhận
ban đầu bao gồm:
(1) Giá trị hợp lý thu hẹp phạm vi áp dụng nguyên tắc thận trọng trong việc sử
dụng giá trị thuần có thể thực hiện khi tài sản bị giảm giá. Theo nguyên tắc
thận trọng, trong các tình huống chưa rõ ràng, các phương pháp kế toán
được sử dụng theo khuynh hướng thận trọng, nghĩa là tránh thổi phồng tài
sản và thu nhập. Khi các thị trường hoạt động phát triển, khả năng định giá
theo thị trường với các thông tin đáng tin cậy tăng lên, việc áp dụng thận
trọng như trên không còn hoàn toàn thích hợp. Do đó, đối với những loại
tài sản đã có thị trường hoạt động phát triển, giá trị hợp lý có thể sử dụng
để phản ánh sự thay đổi của giá gốc, bao gồm cả sự tăng lên hay giảm đi
của giá trị tài sản mà không đe doạ yêu cầu đáng tin cậy của báo cáo tài
chính.
(2) Giá trị hợp lý cung cấp một cơ sở lý thuyết và thực tiễn cho việc đánh giá
lại tài sản. Trước đây, một số nước và ngay cả IAS cho phép đánh giá lại
tài sản dài hạn nhưng chưa đưa ra một khuôn khổ chung cho quá trình này.
Giá trị hợp lý đã giải quyết bằng cách cung cấp một cơ sở lý luận và hệ
thống phương pháp đầy đủ.

23
Ngoài ra trong những trường hợp không có giá gốc, giá trị hợp lý được sử
dụng để định giá trong ghi nhận ban đầu. Thí dụ các trường hợp trao đổi tài
sản.
So sánh với hệ thống giá hiện hành
Hệ thống giá hiện hành dựa trên cơ sở sử dụng hiện giá, giá thay thế hoặc giá
trị thuần có thể thực hiện đưa ra một phương pháp điều chỉnh có hệ thống toàn
bộ báo cáo tài chính, không chỉ điều chỉnh giá trị tài sản và nợ phải trả mà còn
điều chỉnh tất cả các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (xem
phụ lục số 1). Do thay đổi triệt để giá gốc, hệ thống này mặc dù đưa ra một
phương pháp giải quyết có hệ thống nhưng lại quá phức tạp trong quá trình

thực hiện. Chính vì thế, khi nền kinh tế thế giới đã kiểm soát được lạm phát
trong mức độ nhất định, hệ thống giá hiện hành đã không còn được sử dụng.
So sánh với hệ thống giá hiện hành, giá trị hợp lý không phủ nhận giá gốc mà
vẫn đảm bảo việc định giá hướng về thị trường. Khi sử dụng giá trị hợp lý,
những tài sản nào có giá trị thay đổi so với giá thị trường mới cần điều chỉnh
và quá trình điều chỉnh này cũng làm phát sinh thu nhập và chi phí khi đánh
giá lại nhưng không làm thay đổi dữ liệu hoạt động kinh doanh bình thường
của doanh nghiệp (doanh thu, chi phí…)
Từ những nhận xét trên, chúng tôi cho rằng: Bản chất của giá trị hợp lý là
một phương pháp bổ sung cho giá gốc chủ yếu tập trung vào việc định giá sau
ghi nhận ban đầu trên cơ sở giá thị trường và các thông tin có được từ thị
trường. Trong một số trường hợp, giá trị hợp lý có thể sử dụng cho đánh giá
ban đầu của tài sản khi không có giá gốc.
1.2.3.2. Những tranh luận về giá trị hợp lý
Mặc dù giá trị hợp lý được công nhận và áp dụng ở nhiều nước, ngay cả trong
các chuẩn mực kế toán quốc tế nhưng vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh nó.
Những người ủng hộ giá trị hợp lý thì cho rằng: giá trị hợp lý là một giá thích
hợp vì nó đánh giá thường xuyên những ảnh hưởng của sự vận động của thị trường
cho tài sản và nợ phải trả của công ty. Giá trị hợp lý thì thích hợp hơn cho nhà đầu

24
tư: “không ai quan tâm đến giá trị hợp lý của máy móc cũ, nhưng phần lớn họ muốn
biết giá trị hợp lý của một công ty”
5
. Họ cho rằng giá gốc chỉ thích hợp và tin cậy
ngay tại ngày chúng được ghi nhận, giá gốc thì nhấn mạnh tính đáng tin cậy, còn
giá trị hợp lý nhấn mạnh tính thích hợp.
Những người chưa ủng hộ giá trị hợp lý thì cho rằng: liệu giá trị hợp lý có thể
được xác định đáng tin cậy. Giá trị hợp lý là một ước tính dựa vào giá thị trường,
trong trường hợp không có giá thị trường thì nó được ước tính dựa vào những giả

định chủ quan của chủ doanh nghiệp, của những người đinh giá, vậy nó có đáng tin
cậy? Giá trị hợp lý có bị lạm dụng trong những trường hợp không có giá thị trường?
Tiếp theo nữa, giá trị hợp lý phản ánh sự thay đổi của thị trường làm cho báo cáo tài
chính dễ thay đổi, liệu nó có làm các nhà đầu tư lo lắng?
Tuy nhiên những tranh luận này được một số nhà nghiên cứu
6
đưa ra những
kết luận sau:
- Xét về mặt lý thuyết thì giá trị hợp lý rất thích hợp, vì nó phản ánh những
thay đổi của thị trường. Vấn đề được tranh luận nhiều nhất đó là tính đáng tin cậy
và cách xác định giá trị hợp lý. FASB và IASB đang cố gắng nỗ lực để ban hành
các chuẩn mực để lý thuyết nhanh chóng bắt kịp thực tế đang ứng dụng rộng rãi.
- Ước tính giá trị hợp lý chứa đựng những giả định, tuy nhiên những giả định
này được yêu cầu công bố, chính vì vậy mà khả năng lạm dụng giá trị hợp lý cũng
sẽ bị hạn chế.
- Ngày nay với sự phát triển của hệ thống thông tin và sự phát triển của các thị
trường chuyên ngành thì giá trị hợp lý có thể được xác định và kiểm chứng dễ dàng,
và những giả định ngày càng mang tính khách quan hơn nên tính đáng tin cậy của
giá trị hợp lý tăng lên rất nhiều. Mặt khác, các mô hình định giá cho những trường

5
David Tweedie, chủ tịch của IASB ở Luân Đôn, Phát biểu trên tạp chí CFO - A Faiwell to History ngày
1/2/2003
6
Phát biểu trên tạp chí CFO – A fairwell to history ngày 1/2/2003 của các nhà nghiên cứu:
Paul Pacter - Chủ tịch của Deloitte ở Hồng Kông
Pearl Tân - giảng viên kế toán trường Nanyang – Singapore
Rebecca Mc Enally - Chủ tịch của AIMR (Association for Investment Management and Research)
Robert H. Herz - Kế toán ở Mỹ


25
hợp không có giá thị trường cũng đang phát triển và hoàn thiện tạo điều kiện cho
giá trị hợp lý mở rộng phạm vi sử dụng của mình.
1.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ TRÊN THẾ GIỚI

Giá trị hợp lý thì được thừa nhận ở nhiều nước trên thế giới, phần này sẽ xem
xét việc áp dụng giá trị hợp lý tại Mỹ và những yêu cầu về giá trị hợp lý theo IAS.
1.3.1. Áp dụng giá trị hợp lý tại Mỹ
a. Giá trị hợp lý được áp dụng trong những trường hợp sau:
- Ghi nhận và trình bày công cụ tài chính (chứng khoán thương mại và chứng
khoán sẵn sàng để bán, công cụ phái sinh)
- Ghi nhận tài sản và nợ phải trả có được trong hợp nhất doanh nghiệp
- Ghi nhận ban đầu trong trường hợp trao đổi phi tiền tệ.
- Ghi nhận và trình bày các khoản mục phát sinh bằng ngoại tệ.
- Ghi nhận ban đầu cho tài sản cố định thuê tài chính.
b. Giá tri hợp lý được xác định dựa vào:
Theo FAS số 141 - Hợp nhất kinh doanh và FAS số 142 - Lợi thế thương mại
và tài sản vô hình- yêu cầu sử dụng ước tính giá trị hợp lý, khuynh hướng này sẽ
tiếp tục phát triển, khuyến khích nhiều doanh nghiệp quan tâm đến những chuyên
viên định giá - những chuyên viên về xác định giá trị hợp lý. Trong khi đó theo
những nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung ở Mỹ (US GAAP) thì không yêu
cầu chủ doanh nghiệp phải thuê chuyên viên bên ngoài để thực hiện công việc xác
định giá trị hợp lý, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp vẫn thuê chuyên viên bên ngoài vì
lý do khách quan, kinh nghiệm chuyên môn và kỹ năng của chuyên viên.
Giá trị hợp lý được xác định dựa vào:
- Giá trị hợp lý là giá trao đổi trong một giao dịch hiện tại (là giao dịch bình
thường chứ không phải giao dịch bắt buộc hay thanh lý) giữa những người
tham gia tự nguyện.

×